Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Tranh cổ động biểu đạt tình quân dân ở bảo tàng lịch sử quân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC THIỆN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC THIỆN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. BÙI THỊ XUÂN MAI

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Thị Xuân Mai.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này hoàn toàn trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 6 năm 2016
HỌC VIÊN

Nguyễn Đức Thiện


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ............................................................................. 10
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài nghiên cứu ................. 10
1.2. Lý luận tổ chức và hoạt động về công tác xã hội .............................. 18
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động về công tác xã hội
của các Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội ............................... 28
1.4. Cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động công tác xã hội .................... 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VỀ CÔNG
TÁC XÃ HỘI TẠI TRUNG TÂM CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC
XÃ HỘI THANH HÓA ................................................................................ 35

2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa và nhu cầu về trung
tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội....................................................... 35
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động công tác xã hội của Trung tâm cung
cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa ................................................... 36
2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến tổ chức và hoạt động về công
tác xã hội của Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa.. 60
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI TẠI TRUNG TÂM
CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ........................................... 66
3.1. Định hướng đổi mới nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động về công
tác xã hội tại Trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội ..................... 66
3.2. Giải pháp đổi mới nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động về công
tác xã hội của Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa.. 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Nội dung

Chữ viết tắt

1.

Bảo trợ xã hội

BTXH


2.

Các tổ chức phi Chính phủ

NGOs

3.

Công tác xã hội

CTXH

4.

Dịch vụ xã hội

DVXH

5.

Hiệp hội NVCTXH Quốc tế

IFSW

6.

Lao động – Thương binh và Xã hội

LĐTBXH


7.

Nhân viên công tác xã hội

NVCTXH

8.

Quỹ nhi đồng Liên hiệp Quốc

UNICEF


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT Số hiệu bảng/biểu đồ
Tên bảng/biểu đồ
Trang
1.
Biểu 2.1
Cơ cấu độ tuổi
39
Cơ cấu người thuộc biên chế và lao
2.
Biểu 2.2
40
động hợp đồng
Mức độ mong muốn tham gia học
3.
Biểu 2.3

41
tập bồi dưỡng về CTXH
Trình độ chuyên môn, chuyên
ngành đào tạo của Viên chức và
4.
Biểu 2.4
42
người lao động làm việc tại Trung
tâm cung cấp dịch vụ CTXH
Mức độ hài lòng về tư vấn, tham
5.
Biểu 2.5
46
vấn
Mức độ sự tham gia của đối tượng
6.
Biểu 2.6
48
khi bắt đầu và triển khai xây dựng
kế hoạch trợ giúp
Kết quả phẩu thuật điều trị, phục
7.
Biểu 2.7
hồi chức năng và sản xuất dụng cụ
50
chỉnh hình
Mức độ hài lòng của người điều trị
8.
Biểu 2.8
các chất ma túy dạng thuốc phiện

53
bằng thuốc thay thế Methadone
Kêt quả Chương trình trợ giúp nạn
9.
Bảng 2.9
nhân bom mìn hòa nhập cộng đồng
56
năm 2013 đến năm 2015


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của nghề CTXH, hệ thống các Trung tâm cung
cấp dịch vụ CTXH trên thế giới đã được hình thành và phát triển từ cuối thế
kỷ XIX. Ở Việt Nam, tháng 3 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 – 2020, với mục tiêu chung “Phát
triển CTXH trở thành một nghề ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức của toàn xã
hội về nghề CTXH; xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng
tác viên CTXH đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển
hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH tại các cấp, góp phần xây dựng hệ
thống an sinh xã hội tiên tiến” [25].
Tính đến tháng 12/2015, cả nước mới có 34 Trung tâm Công tác xã
hội[17], nhưng phần lớn các Trung tâm này đều được chuyển đổi từ các cơ sở
BTXH, Trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức năng cấp tỉnh và bổ sung nhiệm
vụ cung cấp các dịch vụ CTXH nên còn gặp nhiều khó khăn trong việc vận
hành tổ chức và hoạt động. Các dịch vụ CTXH của hệ thống này chủ yếu ở
cấp độ đáp ứng nhu cầu cơ bản về nuôi ăn, ở, mặc, chăm sóc y tế.
Trong khi hệ thống các Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH mới được
hình thành thì số người cần được trợ giúp xã hội rất lớn và không ngừng tăng
lên. Cả nước có khoảng 9 triệu người cao tuổi, 6,7 triệu người khuyết tật, 1,5

triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khoảng 9,6% số hộ gia đình nghèo, hơn
200.000 người nhiễm HIV được phát hiện, gần 180.000 người nghiện ma tuý,
hơn 15.000 người bán dâm, khoảng 2,7 triệu đối tượng BTXH thuộc diện
hưởng trợ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước; 22% gia đình có bạo lực và
21,1% phụ nữ bị bạo hành ở các cấp độ khác nhau [5].
Thanh Hoá là một trong những tỉnh có đối tượng BTXH nhiều nhất cả
nước, chiếm khoảng 10% tổng số đối tượng của cả nước, đây là những người

1


cần đến những dịch vụ CTXH nhất. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 7 trung tâm
công lập có hoạt động CTXH trực thuộc Sở LĐTBXH, trong đó có 01 Trung
tâm cung cấp dịch vụ CTXH cấp tỉnh, còn các Trung tâm khác chủ yếu nuôi
dưỡng tập trung người tâm thần, người già không nơi nương tựa, trẻ em mồ
côi, người nghiện ma túy [22].
Đến nay, việc tổ chức các hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH của hệ
thống Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH vẫn chưa có đầy đủ khung pháp lý
để thực hiện. Chủ yếu mới là Thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành liên
quan, chưa có văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao để quy định các vấn
đề cơ bản về hoạt động CTXH [5].
Như vậy có thể thấy, mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
nhưng CTXH vẫn còn rất mới về tổ chức, nội dung hoạt động và ngày càng
nhiều đối tượng cần được trợ giúp; tổ chức bộ máy cung cấp dịch vụ CTXH ở
tuyến huyện, xã gần như chưa có. Điều này ảnh hưởng tới hiệu quả của các
chính sách xã hội nhằm trợ giúp các đối tượng yếu thế.
Tình hình đó, đã và đang đặt ra đòi hỏi bức thiết phải nghiên cứu, đánh
giá tổ chức và hoạt động về CTXH tại các Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH
trong thời gian qua, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng trong việc cung cấp
các dịch vụ CTXH; giúp thêm nhiều người dân, nhiều đối tượng yếu thế tiếp

cận được với các dịch vụ CTXH. Để đạt được điều đó, đòi hỏi phải giải quyết
được những vấn đề về lý luận và thực tiễn cơ bản về tổ chức và hoạt động của
Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH.
Với mong muốn được hiểu biết sâu, rộng về tổ chức và hoạt động của
Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH, đồng thời tìm hiểu để đề xuất những giải
pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực hoạt động
cung cấp các dịch vụ CTXH mang tính chuyên nghiệp của Trung tâm cung
cấp dịch vụ CTXH, cá nhân chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động về

2


công tác xã hội từ thực tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh
Hóa, tỉnh Thanh Hóa” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ và hy vọng sẽ góp
một phần vào việc phát triển hệ thống Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
CTXH nói chung, tổ chức và hoạt động về CTXH nói riêng là những nội
dung gần đây đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ, cấp độ khác
nhau. Tiêu biểu như:
- Công trình nghiên cứu “Đánh giá nhu cầu về dịch vụ CTXH và xây
dựng CTXH và xây dựng kế hoạch thiết lập mô hình và hệ thống cung cấp
dịch vụ từ trung ương đến cộng đồng” của Đặng Kim Chung và nhóm nghiên
cứu (2011) đã nêu “Nhu cầu với dịch vụ CTXH của các nhóm đối tượng rất
lớn nhưng vẫn còn đang tiềm ẩn trong xã hội. Hệ thống cơ sở cung cấp dịch
vụ CTXH còn manh mún và chất lượng còn kém. Nhận thức và hiểu biết của
công chúng và các nhà hoạch định chính sách về nghề CTXH còn chưa sâu.
Cán bộ làm CTXH còn thiếu và chưa được đào tạo chính quy, tổ chức cung
cấp dịch vụ CTXH ở cộng đồng gần như chưa có” [11].
- Trong công trình nghiên cứu “Quy hoạch mạng lưới các cơ sở xã hội
trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”

của Nguyễn Thị Lan Hương và nhóm nghiên cứu (2013) đã phát hiện một số
khó khăn hạn chế như: Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị của hầu hết các cơ sở
xã hội đã xuống cấp, hư hỏng, lạc hậu và thiếu đồng bộ cũng phần nào hạn
chế chất lượng cung cấp dịch vụ....Đưa ra khuyến nghị “Tăng cường chất
lượng các dịch vụ cung cấp của mạng lưới cơ sở xã hội. Phát triển các dịch
vụ tư vấn tại cơ sở và cộng đồng” [16].
- Trong công trình nghiên cứu “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới chính
sách trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2020” của Đỗ Thị Thanh Huyền (2014)
đã phát hiện vấn đề “Mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội vẫn còn hạn chế về

3


số lượng, chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu trợ giúp của các đối tượng”
và đưa ra khuyến nghị “cần tạo môi trường và điều kiện để cho mọi tầng lớp
người dân trong xã hội đều có thể tham gia vào hoạt động trợ giúp (cung cấp
dịch vụ hoặc sự tham gia của đối tượng xã hội vào quá trình cung cấp dịch vụ
trợ giúp, giảm thiểu các rào cản… Chính sách của Nhà nước về TGXH phải
đưa ra các chuẩn mực (tối thiểu) qua đó thực hiện việc quản lý” [18].
- Trong tác phẩm “Phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến năm 2020 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Trần Hậu và Đoàn Minh Huấn (2012) đã
nêu cơ sở lý luận của phát triển dịch vụ xã hội; làm rõ vai trò và giới hạn của
các chủ thể nhà nước và ngoài nhà nước trong tham gia tổ chức cung ứng dịch
vụ xã hội; phân tích thực trạng phát triển dịch vụ xã hội và những vấn đề đang
đặt ra hiện nay; đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
dịch vụ xã hội và đổi mới quản lý phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến năm
2020 [15].
- Trong nghiên cứu “Phân tích về giáo dục và thực hành CTXH ở Việt
Nam và Canada” tác giả Douglas Durst, Nguyễn Thị Thái Lan và Lê Hồng
Loan (2006) khẳng định “Mục đích của chương trình giáo dục CTXH ở Việt
Nam là đào tạo những nhân viên làm việc ở các cơ quan hành chính sự

nghiệp, các viện và các tổ chức, các trung tâm như trung tâm tham vấn, trung
tâm bảo vệ xã hội đối với trẻ em có nhu cầu được bảo vệ, người già cô đơn,
và những người khuyết tật, những người nghiện ma túy và gái mại dâm.
Chính phủ tạo nênmột hình thể trong sự cần thiết của các NVCTXH như Bộ
LĐTBXH và Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em” [12].
- Trong nghiên cứu “Nghiên cứu nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo cho
phát triển Công tác xã hội ở Việt Nam”, Richard Hugman (2005) khẳng định
“CTXH hiện nay được xem là yếu tố trung tâm trong các chiến lược phát triển
phúc lợi xã hội của Việt Nam”[21].

4


- Trong nghiên cứu “Vai trò của Nhà nước đối với dịch vụ xã hội”, tác
giả Trịnh Xuân Thắng (2014) nêu:“Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với dịch vụ xã hội, đảm bảo về chất lượng, hiệu quả và sự công bằng
trong cung ứng cũng như hưởng thụ các dịch vụ xã hội của người dân. Vì vậy,
để phát triển dịch vụ xã hội cả về mặt số lượng và chất lượng, cần phải phát
huy được sức mạnh của toàn thể xã hội, trong đó trước hết là phải phát huy
vai trò của Nhà nước đối với các dịch vụ này” [24].
Những công trình nghiên cứu trên ít nhiều đề cấp đến vấn đề tổ chức và
hoạt động của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH dưới các góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách
có hệ thống vấn đề tổ chức và hoạt động về CTXH tại một Trung tâm cung
cấp dịch vụ xã hội từ thực tiễn ở địa phương. Qua đó, đưa ra phương hướng
và các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt
động của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH, đáp ứng nhu cầu và nguyện
vọng của người dân. Vì vậy, đề tài mà cá nhân lựa chọn không trùng với các
nghiên cứu đã công bố. Ngoài việc kế thừa, chọn lọc từ các thành tựu nghiên
cứu đã có, đề tài đi sâu tìm hiểu mô hình tổ chức và hoạt động của Trung tâm

cung cấp dịch vụ CTXH từ góc độ CTXH chuyên nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về tổ chức, hoạt động cung cấp dịch vụ
CTXH và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động về CTXH tại Trung tâm
cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa đề xuất một số giải pháp góp phần nhằm
hoàn thiện cách thức tổ chức các hoạt động về CTXH và thúc đẩy hoạt động
CTXH ngày càng chuyên nghiệp hơn ở Việt Nam nói chung và tại Trung tâm
cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa nói riêng.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được nghiên cứu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về CTXH, tổ chức, hoạt động; tổ chức và
hoạt động CTXH trong Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động CTXH tại Trung tâm cung
cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa.
- Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động
về CTXH của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH nói chung và Trung tâm
cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động về CTXH tại
Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Nghiên cứu tại Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
- Thời gian: từ tháng 3/2012 (thời điểm thành lập Trung tâm) đến tháng

12 năm 2015.
- Về nội dung: tập trung nghiên cứu tổ chức những hoạt động công tác
xã hội (không tập trung nghiên cứu tổ chức bộ máy) tại Trung tâm cung cấp
dịch vụ CTXH Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- Về khách thể nghiên cứu:
+ Lãnh đạo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Thanh Hóa.
+ Lãnh đạo Trung tâm và nhân viên công tác xă hội của Trung tâm cung
cấp dịch vụ công tác xă hội Thanh Hóa.
+ Đối tượng được hưởng lợi từ các dịch vụ CTXHcủa Trung tâm cung
cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa.

6


5. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu dựa trên cơ sở duy vật biện chứng, phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và hoạt động
CTXH trên cơ sở thực tiễn để đúc rút thành lý luận và những đề xuất thực
tiễn, chính sách luật pháp; các quan điểm của Đảng về định hướng thực hiện
các chính sách an sinh xã hội
Nghiên cứu vấn đề trong hệ thống: hệ thống những lý thuyết có liên quan
trực tiếp, hệ thống các yếu tố có liên quan: dịch vụ trợ giúp, hệ thống chính
sách, nhu cầu trợ giúp xã hội…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng: Nghiên cứu tài liệu; phương
pháp quan sát; phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát bằng phiếu
hỏi. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích tài liệu:
+ Đọc và tìm hiểu các tài liệu có liên quan tới CTXH như: Nhập môn

CTXH; CTXH tổ chức và phát triển cộng đồng; Khoa học tổ chức và quản lý;
hệ thống trung tâm CTXH; Báo cáo của Bộ LĐTBXH; UNICEF; Sở
LĐTBXH Thanh Hóa; Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa...
+ Phân tích những công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề tổ chức
và hoạt động về CTXH trên những tài liệu đã công bố, in ấn.
+ Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu có liên quan tổ chức
và hoạt động về CTXH, những định giải pháp, định hướng thời gian tới.
- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động các hoạt động tại trung tâm, hoạt động của
NVCTXH, cách thức tổ chức hoạt động...
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:

7


Đề tài sẽ sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi với
khoảng 100 người được thụ hưởng các dịch vụ của Trung tâm cung cấp dịch
vụ xã hội Thanh Hóa và khoảng 40 người là cán bộ, viên chức và người lao
động đang làm việc tại Trung tâm.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu với 2
nhóm đối tượng chính là:
+ Lãnh đạo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Thanh Hóa.
+ Lãnh đạoTrung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa, phân tích làm rõ những vấn đề có tính lý luận CTXH, tổ
chức và hoạt động về CTXH từ thực tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH.
Ứng dụng lý thuyết và nghiệp vụ CTXH vào việc đánh giá những ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân để đề ra được những vấn đề cần giải quyết về tổ
chức và hoạt động CTXH.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua nghiên cứu thực trạng tổ chức, hoạt động về CTXH từ thực
tiễn Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Thanh Hóa, đề tài đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện và thúc đẩy cách thức tổ chức các hoạt động về CTXH
của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH nói chung và Trung tâm cung cấp
dịch vụ CTXH Thanh Hóa nói riêng.
Có thể làm tài liệu tham khảo cho tổ chức và cá nhân nghiên cứu về tổ
chức và hoạt động về công tác xã hội.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:

8


Chương 1: Những vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động về công tác xã
hội.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động về công tác xã hội tại Trung
tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động về công tác
xã hộitại Trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội.

9


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG VỀ
CÔNG TÁC XÃ HỘI
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm chung về công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội

1.1.1.1. Khái niệm về công tác xã hội
Hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011)
thống nhất một định nghĩa về CTXH là: “CTXH là nghề nghiệp tham gia vào
giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự
thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm
nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về
hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác
của con người với môi trường sống”[19, tr. 4].
Theo IFSW (2010),"CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội,
việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người, sự tăng quyền
lực và giải phóng người dân giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái,
dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội,
CTXH can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ.
Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề".
Theo các nhà nghiên cứu về CTXH Philippines: “CTXH là một nghề bao
gồm các hoạt động cung cấp các dịch vụ nhằm thúc đẩy hay điều phối các
mối quan hệ xã hội và sự điều chỉnh hòa hợp giữa cá nhân và môi trường xã
hội để có xã hội tốt đẹp hơn” [19].
Theo Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2020 đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt thì CTXH được định nghĩa: “CTXH là hoạt động
mang tính chuyên môn, được thực hiện theo các nguyên tắc và phương pháp
riêng nhằm hỗ trợ các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội và cộng đồng dân cư

10


trong việc giải quyết các vấn đề của họ. Qua đó CTXH theo đuổi mục tiêu vì
hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã hội”[25].
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010): “CTXH là một nghề, một hoạt
động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng

cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời
thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá
nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp
phần đảm bảo an sinh xã hội”.[19, tr.19]
Như vậy, từ những khái niệm trên giúp cho ta hiểu được những nội dung
cụ thể của CTXH:
+ CTXH là một khoa học, một hoạt động chuyên môn bao gồm hệ thống
kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ và những quy định chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp khi thực hành loại ngành nghề này.
+ Đối tượng tác động của CTXH là cá nhân, gia đình, nhóm và cộng
đồng, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội như trẻ em, phụ nữ, gia
đình nghèo, người già, người khuyết tật, những người có hoàn cảnh khó khăn
nên khó hòa nhập xã hội và chức năng xã hội bị suy giảm.
+ Hướng trọng tâm của CTXH là tác động đến con người như một tổng
thể; tác động đến con người trong môi trường của họ.
+ Mục đích của CTXH là giúp đỡ cá nhân, gia đình và cộng đồng phục
hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay
đổi về vai trò, vị trí từ đó giúp họ hòa nhập xã hội.
+ Vấn đề mà cá nhân, gia đình hay cộng đồng gặp phải và cần tới sự can
thiệp của CTXH là những vấn đề có thể xuất phát từ yếu tố chủ quan cá nhân
như sự hạn chế về thể chất, sức khỏe, tinh thần, thiếu việc làm, không được
đào tạo chuyên môn, nghèo đói, quan hệ xã hội suy giảm.
Từ những khái niệm và phân tích trên cá nhân đồng tình với với tác giả
Bùi Thị Xuân Mai về khái niệm CTXH.

11


1.1.1.2. Khái niệm về dịch vụ công tác xã hội:
Dịch vụ được hiểu theo nhiều cách khác nhau và gắn liền với quá trình

phát triển xã hội. Có rất nhiều định nghĩa về Dịch vụ được đưa ra, tiêu biểu:
- Theo Đại từ điển tiếng Việt: dịch vụ là công việc phục vụ cho đông đảo
dân chúng[30].
- Nguyễn Thị Mơ (2005) định nghĩa rằng: “Dịch vụ là các hoạt động của
con người được kết tinh thành các loại sản phẩm vô hình và không thể cầm
nắm được”[20].
- Trần Hậu, Đoàn Minh Tuấn(2012) cho rằng “Dịch vụ là những hoạt
động lao động mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm hàng hóa tồn tại dưới
hình thái vô hình nhằm thỏa mãn các nhu cầu sản xuất và đời sống của con
người”[15].
Các định nghĩa nêu trên về dịch vụ về cơ bản giống nhau, bởi vì chúng
đều nêu ra những đặc điểm cơ bản của dịch vụ. Thứ nhất, dịch vụ là một “sản
phẩm”, là kết quả của quá trình lao động và sản xuất nhằm thoả mãn một nhu
cầu nào đó của con người. Thứ hai, khác với hàng hoá là vật hữu hình, dịch
vụ nhiều khi là vô hình, là phi vật thể.
DVXH theo Alfred Kahn (1973) “là các dịch vụ nhằm trợ giúp, thúc
đẩy, hay phục hồi chức năng của cá nhân hay gia đình, cung cấp những điều
kiện đảm bảo cho phát triển sự xã hội hóa của họ”. Các dịch vụ xã hội có thể
do cá nhân hay cơ quan tổ chức cung cấp, nó không chỉ có chức năng phục vụ
cho cá nhân, gia đình mà cho cả những nhóm xã hội, tham gia vào giải quyết
các vấn đề, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Dịch vụ xã hội gắn liền với nhiệm vụ
chức năng là phục vụ xã hội, thỏa mãn nhu cầu của nguời dân trong cộng
đồng xã hội.
Tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Tuấn (2012) cũng xem DVXH là những
dịch vụ đáp ứng nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò

12


đảm bảo hạnh phúc, phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao tính nhân văn, vì con

người là hoạt động mang bản chất kinh tế-xã hội, do Nhà nước, thị trường hoặc
xã hội dân sự cung ứng tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư
của từng lĩnh vực dịch vụ. DVXH có loại dịch vụ công hay dịch vụ tư nhân. Nếu
là dịch vụ công thì tất cả mọi người đều có quyền được hưởng. Nếu là loại dịch
vụ tư thì tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng chi trả của cá nhân[15].
DVXH được Liên hợp quốc định nghĩa “Dịch vụ xã hội cơ bản là các
hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng
những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống”.
Dựa vào những lý giải về dịch vụ, dịch vụ xã hội, CTXH cơ bản nêu trên
có thể hiểu dịch vụ CTXH cũng là dịch vụ xã hội, tuy nhiên nó hướng nhiều
tới các hoạt động trợ giúp cho những người có vấn đề xã hội, đặc biệt nhóm
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, yếu thế như: người khuyết tật, trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi không nơi nương tựa, người có HIV/AIDS,
người bị bạo lực gia đình, người nghiện ma túy...Dịch vụ CTXH cho nhóm
yếu thế là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm phòng ngừa, hạn
chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản và thúc đẩy
khả năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế.
Từ những khái niệm và phân tích trên, xin đưa ra khái niệm về dịch vụ
CTXH như sau: Dịch vụ CTXH là hệ thống dịch vụ được cung cấp bởi Nhà
nước hoặc tư nhân hay bán công nhằm đáp ứng nhu cầu tối thiểu và trợ giúp
các cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã
hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
1.1.3. Khái niệm về tổ chức và hoạt động
1.1.3.1 Khái niệm tổ chức
Thuật ngữ “Tổ chức” được nhiều ngành khoa học sử dụng ở hai khía
cạnh: thứ nhất, hoặc tổ chức là một hoạt động của quản lý với những hoạt

13



động nhỏ như thiết kế, sắp xếp bố trí con người công việc, sắp xếp bộ máy, con
người điều hành, phân công triển khai các công việc cụ thể để đi đến mục tiêu;
thứ hai, hoặc tổ chức là một thiết chế, một cấu trúc xã hội được thành lập bởi
một nhóm người cùng tham gia để thực hiện một mục tiêu, hoạt động cụ thể....
“Tổ chức nói rộng là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn tại
mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung.Tổ
chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”[13]. Tổ chức là thuộc tính
của sự vật, nói cách khác sự vật luôn tồn tại dưới dạng tổ chức nhất định.
Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là “tập
thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc
nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó”[2].
Quan niệm về tổ chức theo Khoa học tổ chức và quản lý có nhiều điểm
tương đồng với Luật học, Quản trị công ở chỗ đều xác định tổ chức thuộc về
con người, là của con người trong xã hội; vì là tổ chức của con người, có các
hoạt động chung do vậy mục tiêu của tổ chức là một trong những điều kiện
quan trọng, không thể thiếu của tổ chức. “Tổ chức là một đơn vị xã hội, được
điều phối một cách có ý thức, có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm
đạt được một hoặc nhiều mục tiêu chung”[14].
Quan niệm của những người làm công tác tổ chức nhà nước có nhiều
điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó nhấn mạnh tới mục
tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều phối một cách có ý thức).
Điểm mới quan trọng của quan niệm này về tổ chức thể hiện ở ý nói về phạm
vi của tổ chức, mỗi tổ chức có phạm vi hoạt động khác nhau phụ thuộc vào
các yếu tố chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu, nguồn lực của tổ chức
đó. Các yếu tố này là những điều kiện của tổ chức.
Như vậy, có thể hiểu tổ chức là tập hợp của con người trong xã hội có
phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu xác định; được hình thành

14



và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù hợp với quy định pháp luật
nhằm gắn kết con người với nhau bởi những mục đích xác định và hành động
để đạt đến mục tiêu chung.
Các tổ chức được thành lập nhằm theo đuổi những mục tiêu nào đó và có
thể phân loại các tổ chức theo mục đích của chúng. Cách phân loại này đã giải
thích vai trò của mỗi loại tổ chức mà chúng đảm nhiệm trong xã hội. Cụ thể:
- Các tổ chức cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận: thường cung cấp một số
loại dịch vụ nào đó, cho một khu vực nào đó của xã hội không vì mục đích
tìm lợi nhuận. Các nguồn ngân quỹ cho hoạt động của loại tổ chức này chủ
yếu dựa vào sự hiến tặng, trợ cấp, tài trợ mang tính từ thiện hay nhân đạo...
- Các tổ chức hoạt động vì quyền lợi chung của tập thể: Những tổ chức
này được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các thành viên của
nó. Những tổ chức loại này bao gồm các nghiệp đoàn, các hiệp hội, các tổ
chức chính trị...
- Các tổ chức cung ứng các dịch vụ công cộng: Những tổ chức được
thành lập nhằm cung cấp cho xã hội những dịch vụ công cộng, mục tiêu của
chúng là đảm bảo cho sự an toàn hay các lợi ích chung của toàn xã hội.
- Các tổ chức kinh doanh mưu lợi: Là các tổ chức hoạt động với mục
đích tạo ra lợi nhuận trong điều kiện pháp luật cho phép và xã hội có thể chấp
nhận được. Loại tổ chức này không thể tồn tại được nếu không tạo ra được lợi
nhuận thông qua con đường sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ thoả mãn nhu
cầu của xã hội.
Còn cơ cấu, bộ máy của tổ chức là hệ thống các nhiệm vụ, mối quan hệ
báo cáo và quyền lực nhằm duy trì sự hoạt động của tổ chức. Cơ cấu bộ máy,
tổ chức xác định cách thức phân chia, tập hợp và phối hợp các nhiệm vụ công
việc trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Như vậy, cơ cấu bộ
máy tổ chức phải đảm bảo:

15



- Bố trí, sắp xếp và phối hợp hiệu quả các hoạt động của con người trong
tổ chức nhằm đạt mục tiêu chung.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tổ chức, góp phần tăng
cường hoạt động chung của tổ chức.
- Quản lý và kiểm soát các hoạt động của tổ chức.
- Linh hoạt giúp tổ chức thích nghi nhanh chóng với những thay đổi của
môi trường bên ngoài.
- Khuyến khích sự tham gia của người lao động vào hoạt động chung của
tổ chức và tạo động lực cho người lao động trong tổ chức.
Cơ cấu bộ máy của tổ chức được thể hiện thông qua sơ đồ cơ cấu tổ
chức. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy là hình vẽ thể hiện vị trí, mối quan hệ
chính thức trong tổ chức: biểu thị mối quan hệ chính thức giữa những người
quản lý ở các cấp với những nhân viên; định dạng tổ chức và cho biết mối
quan hệ báo cáo và quyền lực; cho biết số cấp quản lý, cấp quyền lực tồn tại
trong tổ chức. Các đường nối các vị trí trong sơ đồ cho thấy các kênh thông
tin chính thức được sử dụng để thực hiện quyền lực trong tổ chức.
Như vậy, cơ cấu bộ máy tổ chức: là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu
thị việc sắp xếp theo trật tự nào đó của mỗi bộ phận của tổ chức cùng các mối
quan hệ giữa chúng; là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ và
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá và có những trách nhiệm,
quyền hạn nhất định, được bố trí theo từng cấp nhằm bảo đảm thực hiện các
chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung đã xác định của tổ chức.
1.1.3.2 Khái niệm hoạt động
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về hoạt động tùy theo góc độ xem xét.
Thông thường người ta coi hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và
cơ bắp của con người khi tác động vào hiện thực khách quan, nhằm thoã mãn
những nhu cầu của mình.


16


Về phương diện triết học, tâm lý học người ta quan niệm hoạt động là
phương thức tồn tại của con người trong thế giới. Hoạt động là mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại giữa con người với thế giới (khách thể) để tạo ra
sản phẩm cả về thế giới cả về phía con người (chủ thể). Ở góc độ này, hoạt
động được xem là quá trình mà trong đó có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa hai
cực “chủ thể - khách thể”. Họat động là phương thức tồn tại của con người thể
hiện hai cấp độ:
- Cấp độ vi mô: là cấp độ hoạt động của cơ thể, các giác quan, các bộ
phận tuân theo quy luật sinh học. Nhờ có hoạt động mà con người tồn tại và
phát triển.
- Cấp độ vĩ mô: là hoạt động có đối tượng của con người với tư cách là
một chủ thể của hoạt động có mục đích.
Họat động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình với
thế giới bên ngoài - thế giới tự nhiên và xã hội giữa mình với người khác,
giữa mình với bản thân. Trong quá trình quan hệ đó, có hai quá trình diễn ra
đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau:
- Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa trong đó chủ thể chuyển
năng lượng của mình thành sản phẩm hoạt động. Trong quá trình tiến hành
hoạt động con người đã xuất toàn bộ sức mạnh thần kinh, cơ bắp, trình độ tùy
nghề, sự hiểu biết, năng lực, hứng thú của mình vào sản phẩm.
- Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa: con người bằng hoạt động
tác động vào thế giới khách quan làm bộc lộ rõ ra những thuộc tính, bản chất,
những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng, con người.
* Đặc điểm của hoạt động:
+ Hoạt động bao giờ cũng có đối tượng. Đối tượng của hoạt động là cái
con người cần làm ra, cái con người cần chiếm lĩnh, là động cơ thúc đẩy con
người hoạt động nhằm tác động vào khách thể để biến đổi nó; biến nó thành


17


sản phẩm hoặc tiếp nhận nó chuyển vào đầu óc của mình, tạo nên một tâm lý
mới, một năng lực mới.
+ Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể: Chủ thể là con người có ý thức tác
động vào đối tượng của hoạt động. Chủ thể của hoạt động có thể là cá nhân,
nhóm người.
+ Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: Mục đích của hoạt động là
kết quả của hoạt động mà con người cần đạt được. Nó chính là sản phẩm có
liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới nhu cầu của con người
- Hoạt động bao giờ cũng tiến hành theo nguyên tắc gián tiếp. Trong
hoạt động con người gián tiếp tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý ở
trong đầu, gián tiếp qua việc sử dụng công cụ lao động và sử dụng phương
tiện ngôn ngữ. Như vậy, công cụ tâm lý, ngôn ngữ, công cụ lao động giữ chức
năng trung gian giữa chủ thể và khách thể, tạo ra tính gián tiếp của hoạt động.
1.2. Lý luận tổ chức và hoạt động về công tác xã hội
Hoạt động CTXH là quá trình tác động qua lại giữa những người tổ chức
quản lý, cung cấp dịch vụ CTXH đối với các cá nhân, gia đình, nhóm đối
tượng có hoàn cảnh khó khăn nhằm giúp họ đáp ứng nhu cầu. Chủ thể của
hoạt động này là người quản lý, NVCTXH cung cấp dịch vụ CTXH. Họ tham
gia vào thúc đẩy các dịch vụ CTXH ở nhiều khía cạnh như đảm bảo chất
lượng dịch vụ do mình cung cấp, biện hộ đảm bảo cho các chính sách bao và
dịch vụ xã hội cho người dân; điều phối nối kết các cơ quan cùng cung cấp
dịch vụ cho họ. Họ thực hiện trợ giúp cá nhân, nhóm, cộng đồng giải quyết
vấn đề khó khăn; nối kết họ với các dịch vụ và nguồn lực trong xã hội; thúc
đẩy sự cung cấp dịch vụ và nguồn lực có hiệu quả; tham gia vào xây dựng và
hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội...
Liên quan tới dịch vụCTXH, họ tham gia vào các hoạt động sau đây:

- Xây dựng chương trình dịch vụ: để tạo nên những cơ hội giúp các

18


nhóm đối tượng đáp ứng nhu cầu của họ.
- Kiểm tra, kiểm soát các dịch vụ: đảm bảo cho các dịch vụ được chuyển
giao có hiệu quả tới các nhóm đối tượng, giúp cho các chính sách được thực
thi công bằng và hiệu quả.
- Điều phối các chương trình, dịch vụ, sự tham gia của các cơ quan tổ
chức hoạt động nhịp nhàng, tránh chồng chéo và tăng cường tính hiệu quả của
nguồn lực
- Tư vấn cho các cơ quan tổ chức, cung cấp thông tin, định hướng các cơ
quan tổ chức thực hiện chính sách, các dịch vụ đảm bảo đúng đối tượng, có
chất lượng và công bằng giữa mọi người.
Việc hoạt động trong một mạng lưới NVCTXH sẽ đem lại những giá trị
quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội nói chung và cung cấp dịch vụ xã
hội nói riêng.
Đối tượng tác động của CTXH là cá nhân, gia đình, nhóm đối tượng,
cộng đồng có hoàn cảnh khó khăn. Một đặc thù trong hoạt động CTXH đó là
nhấn mạnh vai trò tích cực của cá nhân, gia đình, nhóm đối tượng có hoàn
cảnh khó khăn. Do vậy họ vừa là đối tượng tác động nhưng họ cũng lại là chủ
thể cả quá trình tương tác. Đối tượng của CTXH hướng đến chủ yếu là: người
khuyết tật; người tâm thần, người bị rối nhiễu tâm trí; người cao tuổi; trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mồ côi, không nơi nương tựa; trẻ em bị
ngược đãi, bị bạo hành, bị lạm dụng hoặc bị sao nhãng; người nghiện ma tuý;
người bị nhiễm HIV/ AIDS; người bị bạo lực gia đình; phụ nữ, trẻ em bị buôn
bán trở về; người mại dâm; người nghèo, cận nghèo; các gia đình có vấn đề,
mâu thuẫn, khủng hoảng; các vấn đề của cộng đồng và hỗ trợ họ tìm những
nguồn lực cần thiết để giải quyết vấn đề...

Công cụ tác động tương tác giữa chủ thể và những đối tượng có nhu cầu
là quá trình giao tiếp, tác động của các phương pháp của CTXH, đó là:

19


×