Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ BẰNG MỘT SỐ PHẦN MỀM NHẰM HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG CHO TRẺ 56 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ BẰNG MỘT SỐ PHẦN
MỀM NHẰM HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG
CHO TRẺ 5-6 TUỔI

Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Mạnh Tuấn
Sinh viên thực hiện

: Phạm Thu Thảo

Lớp

: K61 A

Hà Nội - 2015


LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian nghiên cứu, đề tài “Thiết kế bài giảng điện tử bằng một số
phần mềm nhằm hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi” đã hoàn
thành.Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất đến TS.Nguyễn Mạnh
Tuấn về sự hướng dẫn tận tình và đầy tâm huyết trong suốt quá trình xây dựng và
hoàn thành khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong khoa Giáo dục mầm nonTrường Đại học Sư phạm Hà Nội và các bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo và các em học sinh trường


mầm non Đống Đa, Q. Đống Đa, TP. Hà nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp
đỡ tôi trong quá trình xây dựng khóa luận.
Hà Nội ngày 19 tháng 04 năm 2015
Sinh viên
Phạm Thu Thảo

2


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

3

Giải nghĩa

GDMN

Giáo dục mầm non

GV

Giáo viên

GVMN

Giáo viên mầm non

CNTT


Công nghệ thông tin

BTSL

Biểu tượng số lượng

BGĐT

Bài giảng điện tử

MGL

Mẫu giáo lớn


MỤC LỤC

4


DANH MỤC BẢNG

5


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC SƠ ĐỒ


6


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngành GDMN là mắt xích đầu tiên
trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực CNTT và đẩy mạnh ứng
dụng CNTT vào giảng dạy.Hiện nay các trường mầm non có điều kiện đầu tư và
trang bị tivi, đầu video, xây dựng phòng đa năng với hệ thống máy tính và máy
chiếu nối mạng internet. Một số trường còn trang bị thêm máy quay phim, chụp
ảnh,…tạo điều kiện cho giáo viên mầm non(GVMN) có thể ứng dụng CNTT vào
giảng dạy. Qua đó người GVMN không những phát huy được tối đa khả năng làm
việc của mình mà còn trở thành một người GV năng động, sáng tạo và hiện đại, phù
hợp với sự phát triển của người GV nhân dân trong thời đại CNTT.
CNTT phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo dục trong
việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. CNTT phát triển mạnh kéo theo sự
phát triển của hàng loạt các phần mềm (PM) giáo dục và có rất nhiều những PM
hữu ích cho người GVMN như Bộ Office, Lesson Editor/ Violet, Active Primary,
Flash, Photoshop, Kidsmart, Nutrikids,... Các PM này rất tiện ích và trở thành một
công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc thiết kế giáo án điện tử và giảng dạy trên máy tính,
máy chiếu, bảng tương tác cũng như trên các thiết bị hỗ trợ khác như tivi, đầu
video,... vừa tiết kiệm được thời gian cho người GVMN, vừa tiết kiệm được chi phí
cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy.
Hình thành các biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non là một nội
dung quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu GDMN. Các biểu tượng về toán có
thể hình thành một cách tự phát, ngẫu nhiên, có thể được hình thành một cách tự
giác thông qua các hoạt động có sự định hướng của người lớn. Các nhà Tâm lý học,
Giáo dục học Mác-xít khẳng định rằng mức độ nắm vững các biểu tượng nói chung
và các biểu tượng toán học của trẻ nói riêng phụ thuộc khá lớn vào phương pháp
hướng dẫn và tổ chức các hoạt động cho trẻ, đặc biệt là cách thức tổ chức các “tiết

học toán” ở trường mầm non. Thực tiễn cho thấy rằng, trong quá trình hình
thànhbiểu tượng số lượng(BTSL) cho trẻ mầm non, nếu trước đây GVMN phải rất
vất vả để có thể tìm kiếm những hình ảnh, biểu tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng
thì hiện nay với ứng dụng CNTT, GV có thể sử dụng internet để chủ động khai thác
7


tài nguyên giáo dục phong phú, chủ động quay phim, chụp ảnh làm tư liệu cho bài
giảng điện tử (BGĐT). Chỉ cần vài cái "nhấp chuột" là hình ảnh những con vật ngộ
nghĩnh, những bông hoa đủ màu sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết
nhảy theo nhạc hiện ngay ra với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập
tức thu hút được sự chú ý và kích thích hứng thú của trẻ vì được chủ động hoạt
động nhiều hơn để khám phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một phương
pháp ưu việt vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được
nguyên lý giáo dục của Vưgốtxki "Dạy học lấy học sinh làm trung tâm" một cách
dễ dàng. Có thể thấy ứng dụng của CNTT mà đặc biệt là BGĐT trong GDMN đã
tạo ra một biến đổi về chất trong hiệu quả giảng dạy của ngành GDMN, tạo ra một
môi trường giáo dục mang tính tương tác cao giữa GVMN và trẻ.
Việc thiết kế BGĐT thường xuyên sẽ làm GV nảy sinh thêm nhiều ý tưởng
mới. Bên cạnh đó còn giúp cho GV có thể nâng cao trình độ tin học, mở rộng kiến
thức cho bản thân.Khi thiết kếxong BGĐT, GV có thể chia sẻ với các đồng nghiệp
hoặc với phụ huynh có nhu cầu sử dụng trên khắp cả nước bằng cách đưa lên mạng
Internet. Sử dụng BGĐT, phụ huynh có thểgiúp cho trẻ ôn tập, củng cố lại bài học ở
nhà mà không cần phải vất vả tìm kiếm đồ dùng dạy học, tiết kiệm được rất nhiều
thời gian, công sức và chi phí tiền bạc. Điều này khiến cho phụ huynh rất hào hứng
khi chính họ cũng có thể trở thành thầy cô giáo cho con em mình ở nhà.
Tuy hiện nay việc ứng dụng BGĐT vào giảng dạy đã được nhiều trường
mầm non đặc biệt quan tâm và sử dụng nó trong quá trình hình thành BTSL cho trẻ
nhưng các BGĐT này còn đơn điệu, chưa phong phú, sinh động, hấp dẫn do GVMN
còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các PM, kết hợp các PM trong

quá trình thiết kế BGĐT.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Thiết kế bài giảng
điện tử bằng một số phần mềmnhằm hình thànhbiểu tượng số lượngcho trẻ 5-6
tuổi.” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế BGĐTbằng một số PM nhằm nâng cao hiệu quả của việc hình thành
BTSL cho trẻ 5-6 tuổi, kích thích khả năng chú ý, hứng thú của trẻ trong hoạt động
này.
8


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu.
Quá trình hình thành BTSL cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu việc thiết kế BGĐT bằng một số phần mềm của
GV nhằm hình BTSL cho trẻ 5-6 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế BGĐT dạy trẻ 5-6 tuổi nhằm hình thành BTSL theo hướng phù
hợp với mục tiêu dạy học, đảm bảo tính trực quan, kích thích hứng thú và củng cố
đánh giá thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đề tài nghiên cứu việc thiết kế BGĐT của GV bằng cách sử dụng một số PM
trong việc hình thành BTSL ở trẻ 5-6 tuổi.
5.2. Thực nghiệm áp dụng các biện pháp, hình thức đề xuất tại lớp MGL Số 2,
trường mầm non Đống Đa, Q. Đống Đa, TP. Hà Nội.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Phân tích và hệ thống hóa một số vấn đề lí luận về phương pháp hình thành
BTSL cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài. Nghiên cứu cơ
sở lí luận của việc thiết kế BGĐT trong GDMN nói chung và hình thành BTSL nói

riêng.
6.2. Đề xuất cách thiết kế BGĐT cho GV bằng một số PM.
6.3. Thực nghiệm việc sử dụng BGĐT trong quá trình tổ chức hình thành BTSL cho
trẻ 5-6 tuổi.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Thu thập tài liệu, nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát, hệ
thống các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu để phục vụ cho việc xây
dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

9


7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
7.2.1. Phương pháp điều tra.
Chúng tôi tiến hành điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến của GV để nắm được
mức độ nhận thức của họ về việc hình thành BTSLcho trẻ 5-6 tuổi, cũng như khả
năng thiết kế BGĐT bằng một số PM trong việc dạy học ở trường mầm non.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại.
Trò chuyện, trao đổi, phỏng vấn các GV để thu thập các thông tin có liên
quan đến đề tài phát hiện thực trạng giải thích nguyên nhân và làm sáng tỏ những
thông tin nhận được từ phiếu điều tra.
7.2.3. Phương pháp quan sát.
Dự một số hoạt động hình thành BTSLcho trẻ 5-6 tuổi. Quan sát quá trình
hoạt động của cô và trẻ để từ đó phân tích kết quá, phát hiện những khó khăn và
thuật lợi, làm cơ sở để sửdụng các phần mềm hỗ trợ thiết kế BGĐT cho GVMN.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Chúng tôi sử dụng phương pháp thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính
đúng đắn của giả thuyết khoa học được đưa ra trong đề tài.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.

Chúng tôi nghiên cứu, phân tích các BGĐT đã được thiết kế và sử dụng
trong quá trình cho trẻ hình thành BTSL.
7.2.6. Phương pháp thống kê toán học.
Chúng tôi sử dụng một số công thức thống kê toán học nhằm kiểm chứng
tính đúng đắn của giả thuyết khoa học trong đề tài, đánh giá kết quả nghiên cứu.

10


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
1. 1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề


Ở nước ngoài:
Trong thời đại hiện nay, CNTT là giải pháp quan trọng cần khai thác triệt để

khi thực hiện giáo dục và đào tạo. CNTT có thể giúp con người chọn nhập và xử lý
thông tin nhanh chóng để biến thành tri thức. CNTT làm tăng năng suất của người
dạy và học do rất nhiều PM hỗ trợ để soạn thảo các BGĐT, giáo án điện tử giúp cho
người dạy có thể truyền thụ tri thức và người học lĩnh hội tri thức một cách nhanh
chóng và dễ dàng nhất. Có thể thấy các ứng dụng này hiện nay rất được phổ biến
như: Microsoft Office, OpenOffice, MathCAD, Cabri, GIMP, Windows Movie
Maker,…là những công cụ giúp đưa thêm multimedia (audio và video) vào các bài
trình bày của Microsoft PowerPoint, giúp bài trình bày trở nên sống động gấp nhiều
lần. GV không cần các kiến thức chuyên sâu về tin học mà vẫn có thể phát triển các
BGĐT không cần kết nối mạng Internet trên mã nguồn mở, sau đó xuất ra dưới
dạng trang web hoặc tuân theo gói chuẩn SCORM.Clarolin (là ứng dụng Web miễn
phí cho phép tạo hoặc quản lý các khóa học thông qua Web. Các PMnày sẽ giúp

cho GV tiết kiệm được thời gian hơn trong việc tìm hiểu và soạn BGĐT, gây hứng
thú được cho trẻ nhiều hơn khi dạy học.
Trên thế giới, các nước có nền giáo dục hình thành đều chú trọng đến ứng
dụng CNTT, sử dụng BGĐT như: Australia, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapo, Mỹ…Để có được ứng dụng CNTT như ngày nay họ đã có một quá trình
nghiên cứu và hình thành lâu dài với nhiều dự án, chương trình quốc gia về tin học
hoá cũng như ứng dụng CNTT vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặc biệt ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục. Họ coi đây là vấn
đề then chốt của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, là chìa khoá để xây dựng và
hình thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tăng trưởng nền kinh tế để
xây dựng và hình thành nền kinh tế tri thức, hội nhập với các nước trong khu vực và
trên toàn thế giới.

11


Từ những năm 1990, ứng dụng CNTT, BGĐT vào phương pháp dạy và học
mới trong trường học đã được các nước hình thành như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản,
Australia đề cập tới trong chiến lược hình thành giáo dục của quốc gia mình nhằm
đào tạo một đội ngũ lao động có trình độ cao đáp ứng cho sự hình thành nhanh của
nền công nghệ cao ở các nước này. Tuy nhiên, các quốc gia này đều cùng chung
một vấn đề là hệ thống giáo dục bao gồm trường học các cấp và đại học là quá lớn
và lâu đời. Phương pháp giáo dục cổ điển đã thành hệ thống không còn thích ứng
với sự hình thành nhanh của kỷ nguyên CNTT vì thế vấn đề đặt ra là phải có những
thay đổi mang tính cách mạng trong nhà trường về phương pháp quản lí, phương
pháp dạy và học và cùng với nó là trang thiết bị hiện đại trong lớp học, trường học
và viện nghiên cứu. Chính vì thế, các tập đoàn lớn như IBM, Intel đã đầu tư rất lớn
cho các dự án hỗ trợ giáo dục toàn cầu nhằm thay đổi việc ứng dụng CNTT.
Đối với ngành GDMN, theo kết quả của báo cáo do tổ chức Hệ thống các
trường quốc gia Australia đánh giá hiệu quả của chương trình IBM Kidsmart trong

khu vực Châu Á Thái Bình Dương, việc ứng dụng CNTT trong GDMN nhằm mục
đích:
- Tạo đà hình thành năng lực, kỹ năng cho trẻ lứa tuổi mầm non và phục vụ
mục tiêu GDMN của Bộ giáo dục các nước tham gia chương trình.
- Hỗ trợ chuyên môn cho GVMN ứng dụng hiệu quả BGĐT vào quá trình
dạy và học thông qua các khoá tập huấn và hình thành nghiệp vụ.
- Hỗ trợ các tiến trình đổi mới GDMN thông qua ứng dụng công nghệ.
Việc ứng dụng CNTT, sử dụng BGĐT trong giáo dục nói chung và GDMN
nói riêng là nhu cầu cấp thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục trẻ, là yêu cầu của xã hội đòi hỏi một lực lượng lao động
có chất lượng cao thích nghi với sự hình thành nhanh của thông tin truyền thông.


Ở trong nước:
Việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở Việt Nam được triển khai từ những năm

đầu của thế kỉ 21.Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường, đặc biệt là tích cực
sử dụng phương tiện dạy học hiện đại trong giảng dạy đang được nhà nước và xã hội
quan tâm.Việc ứng dụng CNTT vào dạy học là phù hợp với chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Như vậy, việc ứng dụng CNTT vào dạy học là một nhu cầu cấp
12


thiết đối với hệ thống giáo dục Việt Nam vì nó giúp GV có nhiều thời gian hơn để dẫn
dắt học sinh nắm bắt vấn đề, tạo tình huống có vấn đề để kích thích sự tu duy sáng tạo
của học sinh. Mặt khác, nó cũng giúp học sinh chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri
thức khi được tiếp xúc với nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó, hình thành cho người
học kĩ năng tự tiếp thu tri thức, độc lập trong tư duy và hứng thú, hăng say học tập.
Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ chính trị (17/10/2000) về việc đẩy mạnh ứng
dụng và hình thành CNTT và truyền thống phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chỉ thị ngày 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết
định về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo
dục giai đoạn 2001-2005. Những điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất, khoa học- công
nghệ và giáo dục đào tạo của nước ta đã có những bước tiến đáng kể, điều này đã
giúp cho việc triển khai các ứng dụng CNTT và truyền thông vào cuộc sống trở nên
mạnh mẽ và khả thi hơn.
Đối với ngành GDMN, năm học 2004-2005 là một bước tiến lớn khi Vụ
GDMN ra công văn số 9318/GDMN gửi đến tất cả các trường mầm non trên cả
nước về việc triển khai ứng dụng CNTT trong nhà trường.Khuyến khích các phòng
GD-ĐT, các trường mầm non thực hiện công tác quản lý bằng CNTT; xây dựng kế
hoạch và tiến hành bồi dưỡng nhân rộng ứng dụng BGĐT trong giảng dạy.Tiến
hành tập huấn cho GV bước đầu sử dụng phần mềm PowerPoint để xây dựng
BGĐT cơ bản.Năm học 2008-2009. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai cuộc vận
động “Năm học ứng dụng CNTT trong giảng dạy” ở tất cả các trường từ Đại học, cao
đẳng cho đến trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu học và cả bậc học mầm non.
Vài năm trở lại đây, các hội thi ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục bắt
đầu thu hút một lượng lớn GVMN tham gia với các sản phẩm hết sức phong phú và
có giá trị trong dạy học. Các BGĐT, bài giảng E-learning được chia sẻ phổ biến
rộng rãi trên mạng internet giúp không chỉ GV mà phụ huynh đều có thể xem và sử
dụng một cách dễ dàng. Từ đó nâng cao khả năng tiếp nhận và lĩnh hội tri thức của
trẻ.Trẻ không chỉ được học trên lớp mà ở nhà còn có thể cùng bố mẹ ôn lại kiến
thức, bài học thông qua các phương tiện CNTT.Các hội thảo thảo luận, chia sẻ kinh
nghiệm ứng dụng CNTT sao cho phù hợp với từng thời điểm, thời lượng vừa sức
với trẻ trong GDMN cũng được tổ chức thường xuyên và đạt được hiệu cao.
13


1.1.2. Một số khái niệm cơ bản



Phần mềm
Phần mềm (tiếng Việt còn được gọi là nhu liệu; tiếng Anh: software) là một

tập hợp những câu lệnh được viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ lập trình theo một
trật tự xác định nhằm tự động thực hiện một số chức năng hoặc giải quyết một bài
toán nào đó.
Phần mềm được hiểu là một tập hợp chỉ lệnh, được viết bằng ngôn ngữ lập
trình, mà máy tính có thể hiểu được, chúng hoạt động theo cách thức định trước.
Các chương trình soạn thảo văn bản Microsoft Word, xử lý đồ họa Corel
Draw, trò chơi Edmark,v.v… là các ví dụ cụ thể về sản phẩm.


Bài giảng điện tử
BGĐT là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó toàn bộ kế hoạch hoạt

động dạy học đều được chương trình hóa do thông qua môi trường Multimedia do
máy vi tính tạo ra. Multimedia được hiểu là đa phương tiện, đa môi trường, đa
truyền thông. Thông tin được truyền dưới các dạng: Văn bản (text), đồ họa
(graphics), hiệu ứng (animation), âm thanh (audio) và phim video (video clip).
Đặc trưng cơ bản nhất của BGĐT là kiến thức của bài học, hoạt động điều
khiển của GV đều được Mutimedia hóa.


Thiết kế bài giảng điện tử
Thiết kế BGĐT là quá trình sử dụng ngôn ngữ lập trình tin học Pascal, VB,

C++, Java…) tùy theo trình độ có được về CNTT của người viết hoặc dựa vào phần
mềm trình diễn có sẵn (MS Access, Macromedia Flash, ActiveInspire, Fontpage,
Publisher, Violet, Leture Maker, Adobe Presenter, MS PowerPoint, GIMP,
MovieMaker,…) để xây dựng tiến trình và nội dung của một tiết học, một chương

hay cả một môn học. Thiết kế BGĐT giúp người dạy chuyền tải đầy đủ và sinh
động nội dung kiến thức, giúp người học đạt được mục tiêu học tập cao nhất.


Biểu tượng
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn

trực quan sinh động.Đó là hình ảnh có tính chất đặc trưng tương đối hoàn chỉnh còn
lưu lại trong bộ óc của con người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác
động vào các giác quan.
14


Biểu tượng toán học là những hình ảnh có tính đặc trưng tương đối hoàn
chỉnh các kiến thức về tập hợp, con số, phép đếm, về kích thước, hình dạng của các
vật, về khả năng định hướng trong không gian, thời gian và mối quan hệ các đại
lượng khi những đối tượng này tác động vào con người.


Biểu tượng số lượng.
Khái niệm về số lượng: Số lượng là khái niệm chỉ số phần tử có trong một

tập hợp tại một không gian và thời điểm xác định. Khái niệm số lượng có liên quan
đến số tập hợp, bất kì một tập hợp nào cũng xác định được độ lớn (số lượng) nhất
định của nó, dù là các phần tử thuần nhất hay không thuần nhất.
Khái niệm BTSL: là những hình ảnh về đặc trưng số lượng của các tập hợp
còn lưu lại và được tái hiện trong óc của ta khi các tập hợp ấy không còn được tri
giác trực tiếp, không còn đang tác động vào các giác quan của ta như trước. BTSL
bao gồm: BTSL (so sánh số lượng 2 nhóm đối tượng xem chúng như thế nào với
nhau), biểu tượng về mối quan hệ số lượng (so sánh số lượng hai nhóm đối tượng

xem chúng hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị).
1.1.3. Một số vấn đề về phương pháp hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi


Đặc điểm phát triển biểu tượng số lượng trẻ 5-6 tuổi.
Trẻ 5-6 tuổi có khả năng phân tích chính xác các phần tử của tập hợp, các tập

con trong tập lớn. Trẻ khái quát được một tập lớn gồm nhiều tập con và ngược lại
nhiều tập hợp riêng biệt có thể gộp lại với nhau theo một đặc điểm chung nào đó để
tạo thành một tập lớn. Khi đánh giá độ lớn của tập hợp, trẻ mẫu giáo lớn ít bị ảnh
hưởng của các yếu tố như: màu sắc, kích thước, vị trí sắp đặt của các phần tử của
tập hợp.
Hoạt động đếm của trẻ phát triển lên một bước mới, trẻ có hứng thú đếm và
phần lớn nắm được trình tự của các con số từ 1-10, biết thiết lập tương ứng 1:1
trong quá trình đếm, mỗi từ số ứng với một phần tử của tập hợp mà trẻ đếm. Trẻ
không chỉ hiểu rằng, khi đếm thì số cuối cùng là số kết quả ứng với toàn bộ nhóm
vật, mà trẻ còn bắt đầu hiểu con số chỉ là chỉ số cho số lượng phần tử của tất cả các
tập hợp có cùng độ lớn không phụ thuộc vào những đặc điểm, tính chất cũng như
cách sắp đặt của chúng.

15


Trẻ 5-6 tuổi bắt đầu hiểu mối quan hệ thuận nghịch giữa các số liền kề của
dãy số tự nhiên (mỗi số đứng trước nhỏ hơn số đứng sau một đơn vị và mỗi số đứng
sau lớn hơn số đứng trước một đơn vị).Trên cơ sở đó dần dần trẻ hiểu được quy luật
thành lập dãy số tự nhiên n + 1 hoặc n – 1.Kỹ năng đếm của trẻ ngày càng trở nên
thuần thục, trẻ không chỉ đếm đúng số lượng các nhóm vật mà còn cả âm thanh, các
động tác, qua đó trẻ hiểu sâu sắc hơn vai trò của số kết quả. Mặt khác, trẻ không chỉ
đếm từng vật mà còn đếm từng nhóm vật, qua đó trẻ hiểu sâu sắc hơn ý ghĩa của

khái niệm đơn vị- đơn vị của phép đếm có thể là cả nhóm vật chứ không chỉ là từng
vật riêng lẻ.
Hơn nữa dưới tác động của dạy học, trẻ MGL không chỉ biết đếm xuôi mà
còn biết đếm ngược trong phạm vi 10, trẻ nhận biết các số từ 1-10. Trẻ hiểu rằng
mỗi con số không chỉ được diễn đạt bằng lời nói mà còn có thể viết, và muốn biết
số lượng của các vật trong nhóm không nhất thiết lúc nào cũng phải đếm, mà đôi
lúc chỉ cần nhìn con số biểu thị số lượng của chúng. Việc cho trẻ làm quen với các
con số có tác dụng phát triển tư duy trừu tượng cho trẻ, phát triển khả năng trừu suất
số lượng khỏi những vật cụ thể, dạy trẻ thao tác với các kí hiệu- các con số.
Như vậy, trẻ 5-6 tuổi cần tiếp tục phát triển biểu tượng về tập hợp, bước đầu
cho trẻ làm quen với một số phép tính trên tập hợp, điều đó tạo cơ sở cho trẻ học
các phép tính đại số sau này ở trường phổ thông. Tiếp tục dạy trẻ phép đếm trong
phạm vi 10, giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn khái niệm đơn vị, tạo tiền đề cho trẻ hiểu bản
chất của các phép tính đại số mà trẻ sẽ học tập ở trường phổ thông. Dạy trẻ làm
quen với các bài toán đơn giản trên các tập hợp cụ thể bằng cách phân tích để biết
cái gì đã cho, cái gì cần tìm, để tìm cái đó phải làm như thế nào? Đó chính là cơ sở
để trẻ học tốt môn toán sau này ở trường phổ thông.


Quá trình dạy học nhằm hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi.


Nội dung hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi:

- Mở rộng và phát triển biểu tượng về tập hợp cho trẻ, trẻ tạo nhóm theo các
dấu hiệu (mầu sắc, hình dạng, kích thước, chất liệu, công dụng,...).
- Dạy trẻ đếm trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng, nhận biết các nhóm
có số lượng trong phạm vi 10. Nhận biết chữ số 10.

16



- Biết thêm, bớt trong phạm vi 10 nhằm biến đổi số lượng. Hiểu được mối
quan hệ số lượng trong phạm vi 10 và phản ánh bằng lời.
- Biết chia một nhóm đối tượng ra làm hai phần theo nhiều cách khác nhau
và xếp thứ tự trong phạm vi các số đã học.
Nội dung hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi không chỉ bao gồm những kiến
thức, kỹ năng (đếm, tính toán) mà còn bao gồm cả những biện pháp hoạt động thực
tiễn, hoạt động trí tuệ, tất cả những điều đó là cơ sở để góp phần giáo dục toàn diện
nhân cách trẻ.


Quá trình hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi:
Dạy học ở trường mầm non là quá trình phát triển có hệ thống, có kế hoạch,
có mục đích các năng lực nhận thức của trẻ, trang bị cho trẻ hệ thống tri thức sơ
đẳng, hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng và trên cơ sở đó góp phần hình thành
và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
Quá trình hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ mầm non là quá trình hình
thành ở trẻ những kiến thức sơ đẳng về tập hợp, con số và phép đếm cho trẻ mầm
non một cách có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích dưới sự tổ chức, hướng dẫn
của GV. Trong đó, GV là người lập kế hoạch, tổ chức, hướng dẫn, tạo môi trường
cho trẻ tham gia vào hoạt động, trẻ là chủ thể tích cực, chủ động tham gia hoạt động
nhằm lĩnh hội các kiến thức, kỹ năng của mình.
1.1.4. Giới thiệu số phần mềm và chức năng chính của nó trong việc hỗ trợ GV
thiết kế BGĐTở trường mầm non
Trong đề tài này, chúng tôi tập chung nghiên cứu những chức năng chính của
3 PM hỗ trợ việc thiết kế BGĐT cho GV: PM trình chiếu PowerPoint; PM chỉnh
sửa ảnh GIMP; PM làm phim MovieMaker.




Phần mềm PowerPoint:
PowerPoint là PM khá quen thuộc đối với mỗi GV, được sử dụng để thiết kế
minh họa, thuyết trình. PM này có tính hiệu quả mạnh về đồ họa và hiệu ứng hỗ trợ
cho GV thiết kế BGĐT sinh động, hấp dẫn giúp cho quá trình học trở nên sống
động và lôi cuốn hơn.

17


Điểm mạnh của PM PowerPoint là chức năng trình diễn, tính linh hoạt cao
và có thể liên kết với các PM khác như: nhúng file Word vào slide, liên kết với PM
Violet,…
Các chức năng chính của PM PowerPoint trong việc hỗ trợ GV thiết kế BGĐT:
-

Chức năng chèn hình ảnh: PM PowerPoint hỗ trợ GV có thể

chèn hình ảnh với nhiều định dạng cũng như chất lượng ảnh khác nhau, bao
gồm: ảnh thường, ảnh động, ảnh vẽ, ảnh đã chỉnh sửa từ PM GIMP,… PM
này cũng cho phép GV có thể điều chỉnh kích thước ảnhhoặc đặt chồng
nhiều hình ảnh lên nhau.
-

Chức năng chèn âm thanh: PowerPoint hỗ trợ GV có thể chèn

âm thanh vào hình ảnh. Âm thanh được chèn vào có thể là âm thanh sẵn có
trong phần mềm hoặc những âm thanh mà GV tự tìm kiếm từ bên ngoài. Khi
cài đặt, PowerPoint cho phép âm thanh có thể được phát trước hoặc sau hoặc
cùng lúc với hình ảnh; thời gian phát âm thanh được phép thay đổi dài, ngắn

tùy thuộc vào cách thức cài đặt của GV.
-

Chức năng chèn đoạn phim: Ngoài những đoạn phim có sẵn

trong PM, GV có thể chèn những đoạn phim khác từ bên ngoài vào thông
qua chức năng chèn đoạn phim được hiển thị ở trên thanh công cụ. Những
đoạn phim này có thể là những đoạn phim được tải xuống từ các trang
website hoặc từ chính những đoạn phim do GV thiết kế thông qua PM Movie
Maker.
-

Chức năng tạo siêu liên kết: Siêu liên kết là một tính năng rất

đặc biệt của PM này. Tính năng siêu liên kết giúp cho GV có thể nhanh
chóng chuyển từ một dối tượng này sang một đối tượng khác mà không cần
phải tìm kiếm hay thao tác nhiều lần. Không những thế, chức năng này còn
cho phép GV kết nối bài giảng tới một PM khác hoặc một bài giảng
PowerPoint khác đã được đóng gói.
-

Công cụ vẽ, gõ văn bản: PM này cho phép GV có thể gõ các

tiêu đề hay nội dung bài học như trong Word. Công cụ vẽ giúp GV có thể tùy
ý thiết kế một đối tượng mong muốn một cách dễ dàng. Chẳng hạn như vẽ

18


đám mây, vẽ ngôi sao hay các hình học trong toán học. Công cụ này đặc biệt

hữu ích trong quá trình GV thiết kế BGĐT nhằm hình thành BTSL cho trẻ.
-

Tạo các hiệu ứng hoạt hình: Với PM này, GV có thể tạo ra các hiệu

ứng hoạt hình rất ấn tượng như: làm chữ bay, hình ảnh chuyển động, in
nghiêng, bóng đổ,… Các hiệu ứng này có thể sử dụng kết hợp với nhau,
đồng thời mỗi loại cũng có thể thay đổi được các tham số một cách tùy ý, vì
vậy sẽ tạo được rất nhiều các kết quả đẹp mắt đồng thời tạo các hiệu ứng
chuyển động và biến đổi.
-

Chức năng đóng gói bài giảng: Bài giảng được xuất ra thành một sản

phẩm chạy độc lập, có thể copy vào CD hoặc USB hay đưa lên mạng internet
để chạy trên các máy tính khác mà không cần chương trình PowerPoint,
thuận tiện cho việc chia sẻ và bảo quản.
hỗ trợ GV thiết kế BGĐT
Sơ đồ 1: Các chức năng chính của PowerPoint trong việc hỗ
trợ GV thiết kế BGĐT
Tạo các trang slide

Tạo siêu liên kết
Gõ văn bản, vẽ hình
ảnh
Chèn các hình ảnh, âm thanh, đoạn phim có sẵn

Tạo hiệu ứng

19


Hoàn thiện, đóng gói và đưa vào sử dụng




Phần mềm GIMP
PM GIMP với tên gọi đầy đủ là GNU Image Manipulation Program.Đây là
chương trình hoàn toàn miễn phí được thiết kế dành cho những tác vụ như phục chế
ảnh, tạo ra và xử lý các đồ họa mảng, nhưng cũng có hỗ trợ cho đồ họa vector. Với
nhiều tính năng khác nhau, GIMP có thể được sử dụng giống như chương trình vẽ
thông thường, chương trình phục chế hình ảnh chất lượng cao, hệ thống xử lý theo
nhóm trực tuyến, công cụ chuyển đổi định dạng hình ảnh,…Còn trong việc hỗ trợ
GV thiết kế BGĐT, chức năng chủ yếu của GIMP là chỉnh sửa ảnh, tạo ảnh động.
Tất cả các ảnh xuất ra từ PM GIMP đều có thể chèn vào các slide của PM
PowerPoint.
-

Chức năng chỉnh sửa ảnh: GIMP cho phép GV có thể chỉnh

sửa ảnh theo ý thích từ cơ bản đến chuyên nghiệp. Đối với việc thiết kế
BGĐT, GV chỉ cần dùng GIMP để chỉnh sửa những hình ảnh với các thao
tác cơ bản, đơn giản như: chỉnh màu sắc, độ sáng, độ tương phản, xoay ảnh,
lật ảnh, cắt, ghép ảnh, xóa nền ảnh một màu, thay đổi định dạng ảnh,…Sau
khi chỉnh sửa xong, GV có thể lưu file ảnh ở nhiều định dạng khác nhau sao
cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. VD các định dạng thường gặp: .JPG;
.PNG; .GIF;…
-

Chức năng tạo ảnh động: Công cụ này cho phép GV có thể tạo


ra các bức ảnh động bằng cách chồng nhiều ảnh lên nhau theo một thứ tự
nhất định và tự động chuyển ảnh theo thời gian đã cài đặt bằng một vài thao
tác đơn giản, nhanh chóng. Ưu điểm của chức năng này là sau khi tạo xong
ảnh động, GV có thể xuất ra thành file ảnh và có thể mở bất kì máy tính nào
hoặc nhúng thả, chèn vào Word hay PowerPoint.

20


Sơ đồ 2: Các chức năng chính của GIMP trong việc
hỗ trợ GV thiết kế BGĐT
Hình ảnh

Chỉnh sửa ảnh

Tạo ảnh động

Lưu ảnh



Nhúng thả vào PowerPoint
Phần mềm MovieMaker

PM MovieMaker với tên gọi đầy đủ là Windows Live Movie Maker là công
cụ biên tập và chỉnh sửa video, với nhiều tính năng chỉnh sửa cơ bản giúp GV kết
hợp hình ảnh và video tạo thành một bộ phim hoàn chỉnh. Tiện ích hỗ trợ hầu hết
các định dạng âm thanh, hình ảnh, video phổ biến, bao gồm cả những file media
được tạo ra từ các thiết bị kĩ thuật số như máy ảnh, camera, điện thoại di động…

PM MovieMaker có rất nhiều ưu điểm như: bộ công cụ thao tác đơn giản,
gọn nhẹ; giao diện bắt mắt; có thể đóng gói và bảo quản dễ dàng; lưu đoạn phim ở
nhiều định dạng khác nhau,…Tuy nhiên, ưu điểm lớn nhất của PM này chính là nó

21


có sẵn trong hệ điều hành Windows- một hệ điều hành phổ biến mà hầu hết các máy
tính đều cài đặt.
Tất cả các đoạn phim được xuất ra từ PM MovieMaker đều có thể nhúng thả
và chạy được trên các slide của PM PowerPoint.
Các chức năng chính của PM MovieMaker trong việc hỗ trợ GV tạo ra một
đoạn phim:
-

Chức năng tạo một đoạn phim: PM cho phép GV có thể lựa

chọn nhiều bức ảnh ghép lại chuyển động trên một dải âm thanh bằng cách
sử dụng chức năng Chèn ảnh/ Chèn âm thanh hiển thị trên thanh công cụ.
Sau khi chèn xong xong ảnh và âm thanh, GV có thể chỉnh sửa thời gian bức
ảnh xuất hiện cũng như thời lượng âm thanh phát ra bằng các công cụ cắt,
ghép, thêm bớt có sẵn.
-

Chức năng tạo hiệu ứng: Để cho đoạn phim trở nên sinh động

và bắt mắt, GV có thể chọn hiệu ứng chuyển động cho mỗi mức ảnh khi xuất
hiện cũng như khi kết thúc. Bên cạnh đó, PM còn có chức năng lựa chọn
Giao diện phim tự động, nghĩa là GV chỉ cần chèn ảnh, âm thanh vào và
chương trình sẽ tự động chọn hiệu ứng, thời gian cũng như biên tập tiêu đề,

phụ lục, màu sắc có sẵn cho đoạn phim. Việc này khiến cho việc thiết kế
phim trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn mà vẫn đảm bảo đoạn phim được
tạo ra thật chuyên nghiệp và đẹp mắt.
Dưới đây là sơ đồ quy trình thiết kế một đoạn phim bằng PM MovieMaker:
Sơ đồ 3: Quy trình thiếtTrình
kế một
làm đoạn
phim phim bằng PM MovieMaker.

Chèn ảnh

Chèn âm thanh

Chỉnh sửa, tạo hiệu ứng
22
Hoàn thiện, đóng gói sản phẩm


1.1.5. Vai trò của việc thiết kế BGĐT bằng một số phần mềm nhằm hình thành
BTSL ở trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
Các PM PowerPoint, GIMP, MovieMaker đều là những PM có giao diện
thân thiện và dễ sử dụng. Những nút lệnh và thanh công cụ đều hiển thị sẵn ở phía
góc trên của màn hình và được liệt kê rất chi tiết.Bên cạnh đó, các PM này đều có
khả năng tích hợp đa phương tiện, dễ dàng chèn tranh ảnh, âm thanh và đóng gói
một cách thuận tiện, nhanh chóng. Do đó việc tìm hiểu và sử dụng của GV đối với
việc thiết kế BGĐT nhằm hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi sẽ trở nên dễ dàng nếu
được tập huấn và thực hành trên máy tính trong một thời gian ngắn.
Khi thiết kế BGĐT bằng các PM PowerPoint, GIMP, Movie Maker cho mỗi
nội dung của bài học như: Ôn tập củng cố kiến thức cũ; giới thiệu kiến thức mới; trò
chơi luyện tập, đều có thể sắp xếp trên các slide và đúng theo trình tự nội dung hình

thành BTSL. Điều đó sẽ giúp cho trẻ hiểu được thứ tự nội dung của bài học, nắm
được các kỹ năng, kiến thức từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
VD: Khi ôn tập củng cố kiến thức cũ, GV có thể dùng một đoạn phim được
thiết kế bằng PM MovieMaker với nhiều con vật xuất hiện sau đó hỏi trẻ xem có
bao nhiêu con vật vừa xuất hiện trong đoạn phim cô vừa phát hay với nội dung đếm
số lượng: GV có thể chèn nhiều đối tượng trên một slide cho trẻ đếm, mỗi lần GV
nhấp chuột là một đối tượng sẽ hiện ra kèm theo đó là các con số, điều này sẽ giúp
trẻ vừa hình thành được kĩ năng đếm lại vừa nhận biết được các chữ số.
Bên cạnh đó, việc thiết kế BGĐT bằng các PM nêu trên sẽ giúp cho GV tiết
kiệm được nhiều thời gian trong việc chuẩn bị đồ dùng trực quan.Chỉ bằng vài cái
nhấp chuột, GV đã có thể tìm kiếm được vô vàn các hình ảnh sinh động, đẹp mắt và
dán vào các slide. Ngoài ra, GV còn có thể dễ dàng cập nhật sửa chữa, cũng như
quản lí thuận tiện do các BGĐT được thiết kế rõ ràng theo từng nội dung hình thành
BTSL. Sau khi GV thiết kế BGĐT có thể đóng gói và xuất vào đĩa CD, USB tạo
thành sản phẩm nhỏ gọn, tiện lợi cung cấp cho đồng nghiệp hoặc phụ huynh có nhu
cầu tham khảo hoặc đưa lên mạng Internet đóng góp vào kho tài liệu chung cho
cộng đồng.

23


1.2. Cơ sở thực tiễn của việc thiết kế bài giảng điện tử bằng một số phần mềm
nhằm hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi
1.2.1. Thực trạng việc thiết kế bài giảng điện tử bằng một số phần mềm nhằm
hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi
1.2.1.1. Mục đích điều tra
Quá trình điều tra nhằm tìm hiểu thực trạng hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi
và tìm hiểu việc thiết kế cũng như sử dụng BGĐT trong quá trình GV tổ chức hoạt
động dạy học hình thành BTSL. Tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc của họ để từ
đó đi đến xây dựng một số biện pháp sử dụng các phần mềm hỗ trợ việc thiết kế

BGĐT nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường mầm non.
1.2.1.2. Đối tượng điều tra
Thực hiện điều tra 55 GV tại trường mầm non Đống Đa- Q. Đống Đa- TP.
Hà Nội.Đa số các GV có trình độ cao đẳng và đại học.GV tại trường có thâm niên
công tác nhiều nhất là 27 năm và thấp nhất là 10 tháng.
1.2.1.3. Nội dung điều tra
-

Thực trạng hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi.

-

Điều tra nhận thức của GV trong việc sử dụng BGĐT nhằm hình thành

BTSL cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
-

Tìm hiểu cách thiết kế BGĐT của GV, những khó khăn mà họ gặp phải khi

sử dụng các phần mềm để thiết kế BGĐT.
-

Tìm hiểu tần suất, thời gian GV sử dụng BGĐT trong quá trình dạy học.

1.2.1.4.Thời gian điều tra
Từ 02/03/2015- 09/04/2015.
1.2.1.5. Phương pháp điều tra
-

Phương pháp quan sát: Quan sát toàn bộ quy trình tổ chức một giờ học hoặc


hoạt động có sử dụng BGĐT nhằm hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi.
-

Phương pháp điều tra bằng phiếu anket: Chúng tôi xây dựng hệ thống các

câu hỏi để điều tra thực trạng việc sử dụng BGĐTnhằm hình thành BTSL cho trẻ 56 tuổi và thăm dò ý kiến cá nhân các GV.
-

24

Phương pháp thống kê toán học: Dùng để xử lý số liệu.


1.2.1.6. Kết quả điều tra


Nhận thức của GV về vai trò của việc hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi.
Đa số các GV đều nhận thấy rằng việc hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi

đóng vai trò rất quan trọng đối với việc giáo dục trẻ mầm non. Có 72.73% GV cho
rằng rất quan trọng, 27.27% số GV cho rằng quan trọng và không có GV nào cho
rằng việc này không quan trọng.
Bảng 1: Nhận thức của GV về vai trò của việc hình thành
BTSL cho trẻ đối với việc giáo dục trẻ mầm non
Việc hình thành BTSL
cho trẻ đối với việc giáo
dục trẻ mầm non
Rất quan trọng
Quan trọng

Không quan trọng

Số GV lựa chọn

Tỉ lệ

40
15
0

72.73%
27.27%
0%

Hầu hết tất cả các GV đều nắm được nội dung hình thành BTSL cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi. Tuy nhiên số GV nhận thức đầy đủ và chính xác thì vẫn còn chưa cao.
VD: Về nội dung “Biết tách một nhóm đối tượng ra làm hai nhóm nhỏ theo nhiều
cách khác nhau và xếp thứ tự trong phạm vi các số đã học” thì chỉ có 34.55% GV
lựa chọn phương án này, 65.45% GV không lựa chọn mặc dù đây là kiến thức nằm
trong nội dung dạy học về BTSL.


Đánh giá nhận thức của GV về việc ứng dụng CNTT vào quá trình hình

thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi.
Quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy đa số GV đã nhận thức được vai trò, ý
nghĩa của việc ứng dụng CNTT vào quá trình giảng dạy nói chung và hình thành
BTSL nói riêng. 18.18% ý kiến GV cho rằng việc này rất cần thiết, 72.73% GV cho
rằng cần thiết và 9.09% cho rằng không cần thiết. Số GV cho rằng không cần thiết
tập trung chủ yếu ở nhóm GV lớn tuổi, có số năm giảng dạy lâu năm.

85.45% các GV đều thấy được những ích lợi mà CNTT đem lại trong quá
trình giảng dạy như: mô phỏng nhiều hiện tượng, quá trình tự nhiên, xã hội một
cách trực quan để trẻ dễ tiếp thu hơn; BGĐT có thể thay GV trong một số khâu của
quá trình dạy học, tạo điều kiệ cho GV có nhiều thời gian tổ chức, quan sát, đánh
giá trẻ hơn,… Bên cạnh đó có 14.55% GV nói rằng sử dụng BGĐT giúp họ mất ít
25


×