Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học sự CHUYỂN hóa các mặt đối lập TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.59 KB, 21 trang )

hcohh

Tiểu luận: PHẦN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Chủ đề: “SỰ CHUYỂN HÓA CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG”

LỜI MỞ ĐẦU
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật
và phương pháp biện chứng. Đồng thời là một trong những phạm trù trung tâm
của triết học Mác Lê nin nói chung, của chủ nghĩa duy vật hiện đại nói riêng.
Hiểu về phép biện chứng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn khi
nghiên cứu về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong phép
biện chứng, Lênin đã viết “ có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là một


2

học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là hiểu được hạt nhân
của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một
sự phát triển thêm”1.
Song để có cái nhìn tổng quan về phép biện chứng, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác Lê nin đã khái quát phép biện chứng là “ môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người
và tư duy.”2. Đó là một học thuyết toàn diện nhất, sâu sắc nhất, cách mạng nhất
về sự liên hệ phổ biến và sự phát triển.
Phép biện chứng là một học thuyết toàn điện đề cập đến mọi vấn đề thuộc
đối tượng nghiên cứu của triết học. Trong phạm vi một tiểu luận nhỏ, do điều
kiện thời gian, không gian, giới hạn phạm vi và trình độ nghiên cứu…nên không
thể đề cập tới tất cả các nội dung của phép biện chứng mà chủ yếu tập trung làm
rõ một số vấn đề thuộc phạm trù “chuyển hoá”. Trong đó đi sâu về sự chuyển
hóa của các mặt đối lập và những vận dụng của nó trong thực tiễn của phong trào


cách mạng cũng như trong công tác quản lý giáo dục đối với học viên tại các
trường Sỹ quan trong quân đội.
Trong phép biện chứng, khái niệm chuyển hoá được dùng hết sức phổ
biến. Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình là ở chỗ nó khẳng định rằng
mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới không cố định, không đứng im một chỗ,
không bất biến mà luôn vận động biến đổi không ngừng, luôn chuyển hoá từ
dạng này sang dạng khác. Lê nin đã từng khẳng định: “ biểu tượng thông thường
nắm được sự khác nhau và mâu thuẫn, nhưng không nắm được sự chuyển hoá từ
cái này sang cái kia mà chính điều đó mới quan trọng nhất”3.
Và trong sự phát triển, đồng thời Lênin cũng đã làm rõ sự đối lập giữa
hai quan điểm trên về sự chuyển hóa là: “Hai quan niệm cơ bản… về sự phát
triển (sự tiến hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại,
1
2

3

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va. 1981 trang 240.
Ph. Ăng-ghen, chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1994, trang 235.

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 151.


3

và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi
của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ
lẫn nhau giữa những mặt đối lập ấy)… quan niệm thứ nhất là chết cứng,
nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ
hai mới cho ta chìa khoá của sự “tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn

tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián
đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu
diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới” 1.
Như vậy, khái niện chuyển hoá ở đây dùng để chỉ sự biến đổi của sự vật
này sang sự vật khác , của hiện tượng này thành hiện tượng khác. Điều này về
mặt khoa học tự nhiên, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng
minh đó là năng lượng không những luôn được bảo toàn mà còn luôn luôn có sự
chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác ( từ cơ năng sang nhiệt năng, từ nhiệt
năng sang điện năng..v.v). Trong giới tự nhiên có sự chuyển hoá từ giới vô cơ
thành giới hữu cơ, từ động vật thấp đến động vật cao .v.v... Khi chứng minh sự
vận động phát triển của xã hội loài người, Ăng ghen đã khẳng định về vai trò của
lao động trong sự chuyển hoá từ vượn thành người. Nhưng “sự chuyển hoá”như
thế rất phổ biến. Đó là một nguyên lý quan trọng của phép biện chứng khách
quan.
Trong tư duy phép biện chứng lại nói đến sự chuyển hoá của những khái
niệm. điều này chính Hê Ghen là người đã đưa ra phép biện chứng của những
khái niệm , nhưng đó là phép biện chứng duy tâm. Khắc phục những thiếu sót
của Hê ghen, chắt lọc những “hạt nhân hợp lý”ự trong phép biện chứng đó,
Lênin đã viết: “Trong sự thay thế, sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khái
niệm, trong tính đồng nhất của tất cả các mặt đối lập của chúng, trong những
chuyển hoá của những khái của một khái niệm này sang một khái niệm khác,
trong sự thay thế , sự vận động vĩnh viễn của những khái niệm, Hê ghen đã đoán
1

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va. 1981 trang 379


4

được một cách TÀI TÌNH CHÍNH MỐI QUAN HỆ NHƯ VẬY, CỦA SỰ VẬT,

CỦA GIỚI TỰ NHIÊN…sự chuyển hoá của những khái niệm từ cái này sang cái
kia. Sự chuyển hoá của tất cả mọi khái niệm không trừ khái niệm nào…”2
Qua đây lần nữa cho chúng ta thấy rằng sự chuyển hoá của những khái
niệm chẳng qua chỉ là sự phản ánh những chuyển hóa của các sự vật hiện tượng
trong hiện thực khách quan. Sự vận động chuyển hoá của thế giới vật chất được
tư duy con người phản ánh vào trong não của mình. Đây cũng là sự khác nhau
căn bản về chất trong quan niệm về sự chuyển hoá của tư duy giữa triết học Mác
Lênin và các dòng triết học trước đó, khẳng định tính đúng đắn, khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Như vậy có thể khẳng định sự chuyển hoá là vô cùng, vô tận diễn ra trong
mọi điều kiện hoàn cảnh đối với mọi lĩnh vực của thế giới cả vật chất lẫn tinh
thần. ở đây không bàn đến sự chuyển hoá của các sự vật và hiện tượng nói
chung, hay sự chuyển hoá của những khái niệm trong lĩnh vực tư duy. Mà chủ
yếu tập trung bàn đến sự chuyển hoá của các mặt đối lập rong các quy luật, các
cặp phạm trù của phép biện chứng. Để từ đó có cái nhìn đúng hơn về phép biện
chứng trong sự vận động phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó thấy được sự vận
dụng của phong trào cách mạng thế giới trong giai đoạn vừa qua, đấu tranh với
những xuyên tạc của kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng. Đồng thời làm cơ sở cho việc
vận dụng giải quyết những mâu thuẫn, những vấn đề nảy sinh trong công tác
quản lý, giáo dục học viên nói chung cũng như trong công tác quản lý giáo dục
học viên thuộc diện 801 tại trường sỹ quan lục quân II nói riêng.

NỘI DUNG
2

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va. 1981 trang 209,210


5


Nghiên cứu quy luật hạt nhân của phép biện chứng chúng ta có thể khái
quát nội dung của quy luật như sau: mỗi sự vật hay hiện tượng là một thể thống
nhất bao gồm hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập này đấu tranh với nhau, bài trừ lẫn
nhau, làm cho sự vật, hiện tượng luôn vận động , phát triển không ngừng. Quá
trình đấu tranh đó diễn ra thông qua nhiều giai đoạn, đến một lúc nhất định hai
mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau, khi đó mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra đời.
Lê nin khi bàn về các yếu tố cấu thành phép biện chứng đã khẳng định
nguyên lý về sự chuyển hoá của các mặt đối lập như sau: “không phải chỉ là sự
thống nhất của các mặt đối lập mà còn là chuyển hoá của mỗi quy định, chất
đặc trưng , mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác [sang cái đối lập với nó]”1.
Vấn đề đặt ra là hiểu sự chuyển hoá dó như thế nào cho đúng ?
Trước hết cần chú ý rằng “chuyển hoá” là một phạm trù triết học với tính
chất trừu tượng cao, nó khái quát những hiện tượng chuyển hóa muôn hình muôn
vẻ của sự vật khách quan. Nên không được hiểu khái niệm đó một cách đơn giản
máy móc. Sự chuyển hóa diễn ra đa giạng, Tuỳ theo từng sự vật có mâu thuẫn
khác nhau mà sự chuyển hoá của các mặt đối lập cũng diễn ra một cách khác
nhau. Ở mỗi trường hợp riêng biệt lại phải giải thích sự chuyển hoá cụ thể của
những mặt đối lập đúng như trong thực tế diễn ra . tuyệt đối không được coi mọi
sự chuyển hoá đồng loạt như nhau . Ở những trường hợp cụ thể có những sự
chuyển hoá cụ thể. Phương thức chuyển hoá lẫn nhau là hết sức phong phú và đa
dạng. Tính chất phong phú và đa dạng này, một mặt là do tính chất của mâu
thuẫn, mặt khác là do tính chất của điều kiện lịch sử trong đó diễn ra cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập quy định. Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng
hướng tới sự phá vỡ sự thống nhất cũ để thiết lập sự thống nhất mới cao hơn, và
vì thế, bất cứ sự chuyển hoá nào cũng không phải là sự chuyển đổi vị trí giản đơn
giữa hai mặt đối lập. Tuy nhiên suy đến cùng tất cả đều là sự chuyển hóa của các
1

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va. 1981 trang 240.



6

mặt đối lập trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Song trong mỗi
cách tiếp cận. Và khai thác khác nhau, trong những quy luật và phạm trù khác
nhau…thì các mặt đối lập có sự chuyển hóa khác nhau.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong quy luật lượng - chất được hiểu
từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Sự
thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó tạo ra gọi là bước nhảy.
Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn
chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Xét
về bản chất, bước nhảy chính là sự đứt đoạn tính tiệm tiến về lượng, là sự tích
hợp giữa tính liên tục và tính gián đoạn trong sự phát triển.
Kế thừa những hạt nhân hợp lý của Hê ghen trong khi lý giải về sự thay
đổi về chất phải thông qua bước nhảy, Lênin đã nhấn mạnh: “tính tiệm tiến mà
không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả”... “phân biệt bằng
cách nào, một sự chuyển hoá biện chứng với một sự chuyển hoá không biện
chứng? bằng bước nhảy vọt ... bằng sự gián đoạn của tính tiệm tiến”1.
Đồng thời chất mới sau khi ra đời cũng có sự tác động to lớn trở lại đối với
lượng. Lênin đã khẳng định: “sự chuyển hoá lượng thành chất và ngược lại”2. Sở dĩ
như vậy là vì, nói đến chất mới, là nói đến những thuộc tính mới, những quan hệ
mới của sự vật, hiện tượng. Những thuộc tính và quan hệ mới này, đến lượt nó, sẽ
tạo ra những khả năng mới và những khả năng này, trong những điều kiện, hoàn
cảnh mới sẽ thúc đẩy quy mô, tính chất, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng. Chẳng hạn, nước đến nhiệt độ 1000C thì chuyển từ nước lỏng thành hơi
nước. ở trạng thái hơi các phân tử nước vận động với tốc độ rất cao và tạo nên áp
lực lớn hơn rất nhiều ở thể lỏng. So với hình thái xã hội trước, hình thái xã hội sau
là một chất mới tiến bộ hơn, nó mở đường, tạo ra những điều kiện mới, khả năng
mới cho lực lượng sản xuất phát triển với nhịp độ mới cao hơn. Khi nói về phương

thức thống trị tư bản chủ nghĩa như một chất mới so với phương thức thống trị của
1
2

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va. 1981 trang 133
Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va. 1981 trang 240


7

các giai cấp trước đó trong lịch sử phát triển xã hội, trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản C. Mác so sánh: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một
thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn tất cả các thời đại
trước gộp lại”3
Như vây có thể khẳng đinh nội dung cơ bản của quy luật chuyển hoá từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như
sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần
dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất của
sự vật thông qua bước nhảy tại điểm nút; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới
sự thay đổi về lượng .
Trong đời sống xã hội cũng vậy, sự vận động biến đổi, chuyển hoá của xã
hội loài người là tuyệt đối. Nhưng do tính chất đặc thù của xã hội nên việc thực
hiện bước chuyển hoá đó như thế nào lại còn phụ thuộc rất lớn ở ý muốn chủ
quan của con người. Các dân tộc, các quốc gia muốn thực hiện bước rút ngắn, đi
tắt đón đầu trong sự phát triển một mặt cũng không thể nôn nóng đốt cháy giai
đoạn, mặt khác lại hoàn toàn không thể thụ động nằm chờ mà phải xem xét, vận
dụng một cách linh trong những điều kiện cụ thể, vừa thực hiện bước tuần tự,
vừa thực hiện bước nhảy vọt, vừa đảm bảo tôn trọng quy luật khách quan, vừa
phát huy cao độ nhân tố chủ quan trong xem xét và vận dụng. Một nguyên tắc
bất di bất dịch là để có sự chuyển hoá về chất của một xã hội đòi hỏi phải tích

luỹ đầy đủ những lượng đảm bảo cho xã hội đó ra đời. Bàn về vấn đề này Lê nin
đã dạy để Chủ nghiã xã hội chiến thắng Chủ nghĩa tư bản thì trước hết phải bằng
năng suất lao động. Hay chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói muốn có Chủ
nghĩa xã hội trước hết phải có con người Xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện
gần đây của Đảng vấn đề xác định đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
xây dựng cũng có nhiều điểm mới phù hợp với tình hình thực tiễn hơn, hoặc
trong khi xác định thời kỳ quá độ Đảng ta cũng đã chỉ rõ đó là thời kỳ chuẩn bị
3

C Mac và PhĂng ghen toàn tâp NXB CTQG H. 1999 tập 4 trang 357


8

đầy đủ mọi cơ sở vật chất cần thiết để Chủ nghĩa xã hội ra đời…Như vậy để có
được sự chuyển hoá về chất trong xã hội một mặt đòi hỏi cũng phải có sự tích
luỹ đầy đủ về lượng của xã hội đó, một mặt dòi hỏi phải phát huy cao độ nhân tố
chủ quan của con người thì sự chuyển hoá mới diễn ra một cách tốt đẹp như ý
muốn.
Trong giáo duc đào tạo hay trong quản lý bộ đội cũng vậy, để có một sự
trưởng thành nhất định của học viên đòi hỏi phải có một quá trình giáo dục, huấn
luyện lâu dài, phải tích lũy đầy đủ về lượng kiến thức của một người lính, một
người học viên sỹ quan đảm bảo khi ra trường người ta có thể đảm đương mọi
công việc của người cán bộ. Tuyệt đối tránh sự nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai
đoạn trong đào tạo. Qua đây cũng đồng thời phê phán quan điểm coi nhẹ công
tác giáo dục, huấn luyện, đào tạo, “quản lý cốt thực hiện đúng giờ giấc hành
chính còn chất lượng sao cũng mặc kệ.”
Với quy luật phủ đinh của phủ định sự chuyển hoá giữa cái mới và cái cũ
cũng diễn ra hết sức linh hoạt. Bàn về quy luật này Ăng ghen đã nhấn
mạnh:”Hai cực của một sự đối lập nào đó, cái khẳng định và cái phủ định, vừa

không thể lìa nhau, vừa đối lập nhau, và dù đối lập đến mấy đi chăng nữa, hai
cái dó vẫn thâm nhập nhau”1. Vậy ở đây hai mặt khẳng định và phủ định chuyển
hoá lẫn nhau như thế nào? Trước hết ta phải hiểu mặt khẳng định là cái cũ, mặt
phủ định là mầm mống của cái mới , kết quả của cuộc đấu tranh giữa cái cũ và
cái mới là cái cũ mất đi, cái mới chiến thắng và thay thế cái cũ .Tuy nhiên cái cũ
chưa mất đi hoàn toàn và cũng không thể mất đi hoàn toàn mà những yếu tố tích
cực của nó vẫn còn được duy trì trong cái mới. Khi sự vật mới được hình thành ,
nó lại trở thành cái khẳng định vì nó tồn tại và cố duy trì cho sự tồn tại của mình.
Nhưng trong lòng nó bắt đầu nảy sinh những yếu tố phủ định nó và đó là mầm
mống của cái mới khác. Sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập được hiểu là giữa
1

PH. Ăng ghen;’ chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 36


9

cái cũ và cái mới, cái tích cực và cái tiêu cực. Cái mới phủ định cái cũ,cái tích
cực phủ định cái tiêu cực… cũng đồng thời đó là quá trình thực hiện sự chuyển
hoá giữa các mặt đối lập. Đây là quy luật về sự chuyển hóa giữa cái cũ và cái
mới. Trong xã hội, quy luật này luôn hoạt động theo đúng tuần tự như vậy, sự
thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế xã hội là sự phủ định giữa hình thái
kinh tê xã hội tiến bộ đối với hình thái kinh tế xã hội lạc hậu. Và tính chu kỳ của
nó là xã hội loài người tất yếu phải tiến lên chủ nghĩa cộng sản với bản chất của
xã hội là cơ bản giống hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thủy nhưng đó là
một xã hội mới và phát triển cao hơn. Thực hiện quy luật đó, Đảng ta trong quá
trình lãnh đạo cách mạng đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với quy luật
phát triển tất yếu của lịch sử và điều kiện hoàn cảnh Việt Nam. Đó là bằng mọi
giá phải giành cho được độc lập, phải thay thế xã hội thối nát nửa thực dân
phong kiến bằng một xã hội mới và chúng ta đã thực hiện bước quá độ tiến lên

chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Song vấn đề bỏ
qua ở đây được hiểu là chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với tính cách là
một xã hội bóc lột, xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất. Bỏ qua kiến trúc thượng tầng của hệ tư tưởng tư sản. Chúng ta
không phủ định sạch trơn mà trong đó có kế thừa, những thành tựu của nhân loại
đã tạo ra trong chế độ tư bản chủ nghĩa, kế thừa những thành tựu tích cực mà
dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Đó là kinh nghiệm quản lý nền kinh tế, các
thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ áp dụng cho quá trình sản xuất…Đó là sự
chuyển hóa của các mặt đối lập trong quy luật phủ định của phủ định phù hợp
với tình hình thực tiễn của cách mạng nước ta đã được lịch sử lựa chọn.
Đối với cặp phạm trù cái chung, cái riêng. Việc thực hiện sự chuyển hoá
giữa cái chung, cái riêng được Lê nin nói đến “sự chuyển hoá từ cái riêng thành
cái chung”. Người đã lấy ví dụ về những mệnh đề đơn giản nhất như sau:


10

“lá cây đều xanh; I- van là một người ;Giu-tsơ-ca là một con chó,.v.v Ngay ở
đây(…) đã có phép biện chứng rồi: cái riêng là chung”1.Đó là sự chuyển hoá
trong nhận thức, Nhưng trong hiện thực khách quan cũng có sự chuyển hoá từ
cái riêng thành cái chung và ngược lại. Chúng ta đã lý giải cuộc đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới thể hiện rõ sự chuyển hoá đó. Cái mới bao giờ cũng xuất hiện
dưới giạng những hiện tượng đơn giản nhất, đó là những cái riêng. Theo quy luật
tất yếu cái mới nhất định sẽ phát triển, nhiều lên, mạnh lên, nó trở thành phổ
biến, trở thành cái chung trong sự vật hiện tượng. Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái
chung nhưng dần dần biến đi trở thành những hiện tượng riêng biệt rồi cuối cùng
đi đến chỗ mất hẳn. Như vậy sự chuyển hoá giữa cái chung thành cái riêng và cái
riêng thành cái chung trong cặp phạm trù CHUNG-RIÊNG cũng thể hiện mối
quan hệ biện chứng giữa các mặt đối lập. Đó là sự chuyển hoá liên tục không
ngừng biến đổi.

Về sự chuyển hoá giữa hai mặt đối lập Nguyên nhân và kết quả. Trước hết
cần thấy rằng đây không phải là vòng luân hồi luẩn quẩn : từ nguyên nhân sinh
ra kết quả rồi kết quả này lại trở thành nguyên nhân của cái sinh ra nó. ở đây chỉ
có thể hiểu là: Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng kết quả này lại là nguyên
nhân của cái khác do nó đẻ ra.
Ăng ghen đã khẳng định: “chúng ta cũng thấy rằng nguyên nhân và kết
quả là những biểu tượng chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi nào được
ứng dụng vào một trường hợp cá biệt; nhưng khi ta xét trường hợp cá biệt ấy
trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những biểu tượng ấy lại
hoà hợp với nhau , xoắn xuýt với nhau trong sự tác động qua lại lẫn nhau một
cách phổ biến. Trong đó nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho
nhau (chúng tôi nhấn mạnh - NTD), cái ở đây hay bây giờ là kết quả thì ở chỗ
khác hay lúc khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lai.”1 Sự huyển hoá giữa
1

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 380-381

1

PH. Ăng ghen;’ chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 36


11

các mặt đối lập nguyên nhân và kết quả cùng tồn tại trong một thể thống nhất
của sự vật hiện tượng là phổ biến, tuần tự theo mỗi quan hệ biện chứng giữa hai
phạm trù ấy.
Đối với cặp phạm trù Nội dung và Hình thức cũng luôn có sự chuyển hoá
lẫn nhau. Nhưng không phải là nội dung trở thành hình thức,nghĩa là nội dung
mất đi để hình thức ra đời hay ngược lại. Trong hiện thực khách quan nội dung

và hình thức là hai mặt không thể tách rời của một sự vật hay hiện tượng. Tuỳ
theo từng mối liên hệ mà xác định mặt nào là nôi dung, mặt nào là hình thức. Thí
dụ: trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản
xuất là hình thức . nhưng trong mối quan hệ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng thì quan hệ sản xuất tức cơ sở hạ tầng lại là nội dung được phản ánh vào
trong những hình thái ý thức xã hội . Lê nin đã viết: “đấu tranh của nội dung với
hình thức và ngược lại. Vứt bỏ hình thức, cải tạo nội dung”2. Ở đây có sự chuyển
hoá của nội dung và hình thức với ý nghĩa là nội dung phát triển đến một mức độ
nào đó thì mâu thuẫn với hình thức cũ lúc này đã trở thành lỗi thời và lạc hậu
kìm hãm sự phát triển của nội dung. Để nội dung phát triển đòi hỏi phải vứt bỏ
hình thức cũ và thay bằng hình thức mới phù hợp với nó. Như vậy hình thức cũ
được thay bằng hình thức mới và nội dung cũng không còn dữ nguyên như cũ
mà nó được cải tạo trở thành nội dung mới. Sự chuyển hóa được thực hiện thông
qua sự biến đổi không ngừng của nội dung dẫn đến sự thay đổi hình thức theo
cho phù hợp.
Về sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong phạm trù bản chất và hiện
tượng, Lê nin đã khẳng định “…phép biện chứng là nghiên cứu sự đối lập của
vật tự nó, của bản chất…từ hiện tượng…( ở đây cũng vậy, chúng ta thấy sự
chuyển hóa, sự tràn cái nọ sang cái kia ( chúng tôi nhấn mạnh-NTD ): bản chất
hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất )” 1
2

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 240

1

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 267-268).


12


Bản chất và hiện tượng có thể chuyển hoá lẫn nhau. Bản chất hiện ra, tràn
ra hiện tượng, xâm nhập vào hiện tượng; còn hiện tượng không tách rời bản chất,
có tính bản chất. Sự chuyển hóa của bản chất và hiện tượng không có nghĩa là
bản chất trở thành hiện tượng và ngược lại. Bản chất không ẩn kín ở bên trong sự
vật một cách thần bí mà bao giờ nó cũng bộc lộ ra bên ngoài hiện tượng. Hiện
tượng không tách rời với bản chất, mà bao giờ nó cũng là hiện tượng của một
bản chất nhất định. Nó là mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng trong hiện
thực khách quan. Về mặt nhận thức chúng ta có thể nói tư duy của con người đi
từ hiện tượng đến bản chất, thông qua hiện tượng mà tìm ra bản chất của sự vật.
Như vậy cũng có thể gọi là sự chuyển hóa giữa bản chất và hiện tượng nhưng chỉ
ở trong quá trình nhận thức mà thôi. Còn tùy thuộc vào điều kịên cụ thể để xem
xét cụ thể mới thấy hết sự chuyển hóa đó. Tránh không được nhầm lẫn một cách
chung chung vô căn cứ.
Trong mối quan hệ giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên cũng có sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa hai mặt đối lập đó. ở đây sự chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt
đối lập tất nhiên và ngẫu nhiên được biểu hiện theo hai nghiã:
Thứ nhất: có cái là ngẫu nhiên trong mối liên hệ này lại là cái tất nhiên
trong mối liên hệ khác.
Thứ hai: có hiện tượng từ chỗ là ngẫu nhiên phát triển thành tất
nhliên và ngược lại. Sự chuyển hóa này cũng giống như sự chuyển hóa của cái
riêng và cái chung. Về vấn đề này Lê nin đã viết: “ khoa học tự nhiên chỉ cho
chúng ta …giới tự nhiên khách quan với cùng những tính chất như vậy của nó,
sự chuyển hóa từ cái riêng thành cái chung, từ ngẫu nhiên thành tất yếu ( chúng
tôi nhấn mạnh -NTD), hững chuyển hóa, những chuyển hoán, mối liên hệ lẫn
nhau của các mặt đối lập.”2Xét sự chuyển hóa giữa khả năng và hiện thực, trong
sự vận động phát triển của hai mặt đối lập đó thì sự chuyển hóa được vận động
từ khả năng trở thành hiện thực. Trong quá trình vận động liên tục của thế giới
2


Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 382.


13

vật chất, cái cũ mất đi, cái mới thay thế cái cũ. Nhưng cái mới bao giờ cũng ra
đời từ trong lòng cái cũ. Lúc đầu nó chỉ xuất hiện dưới dạng khả năng, sau đó
lớn lên chiến thắng cái cũ. Khả năng và hiện thực luôn tồn tại trong mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật. Hiện thực được chuẩn bị từ khả năng, còn khả năng hướng
tới trở thành hiện thực. Hiện thực này trong quá trình phát triển nội tại của
mình, lại sinh ra các khả năng mới, các khả năng mới ấy trong những điều kiện
thích hợp lại biến thành hiện thực mới, v.v. Khả năng trở thành hiện thực, sự vật
mới ra đời, trong bản thân nó lại bao hàm khả năng mới của sự phát triển. Cứ
như thế hai mặt khả năng và hiện thực chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận
động phát triển vô tận của thế giới vật chất. Đó là sự chuyển hóa trong mối liên
hệ phổ biến và phát triển vô tận.
Vận dụng nguyên lý về sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong phép biện
chứng nói chung cũng như trong sự phân tích những mâu thuẫn cụ thể của các sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội là vô cùng phong phú và ling hoạt. Điều
này đã được Mác và Ăng ghen ví dụ, chứng minh một cách sâu sắc và cụ thể.
Khi nghiên cứu về lĩnh vực tự nhiên, Ăng ghen đã viết: “ Nếu người ta cắt một
thanh nam châm làm đôi, thì khoảng giữa trước là trung hòa, nay bị phân cực,
nhưng phân cực sao cho những cực cũ vẫn y nguyên. Trái lại nếu ta cắt đôi một
con sâu, thì nó giữ lại ở cực dương cái miệng để ăn, và tạo ra ở đầu kia một cực
âm mới có hậu môn để bài tiết; nhưng cái cực âm cũ ( hậu môn ) bây giờ trở
thành cực dương nghiã là trở thành cái miệng và ở chỗ bị cắt lại thành ra một
cái hậu môn mới hay là cực âm. Đó là sự chuyển hóa từ cực dương sang cực
âm”.1
Với chúng ta vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng là vận dụng những

nguyên lý này vào việc phân tích những mâu thuẫn trong xã hội. Lịch sử loài
1

PH. Ăng ghen;’ chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 332


14

người đã chứng minh rằng, cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ phát
triển đến mức độ nào đó thì cả hai giai cấp đều biến đi, nhường chỗ cho sự ra đời
của hai giai cấp khác là địa chủ và nông dân. Trong xã hội phong kiến , ở một số
nước phương tây cuộc đấu tranh giữa địa chủ và nông đân đẫ diễn ra hàng nghìn
năm, nhưng cuối cùng không đưa lại một chế độ xã hội mới, vì giai cấp nông dân
không đại diện cho một phương thức sản xuất mới. Để giải thích sự vận động
của xã hội phong kiến ở những nước đó, Ở đây ta phải phân tích một mâu thuẫn
khác: mâu thuẫn giữa một bên là địa chủ phong kiến với một bên là ba giai cấp
tư sản, vô sản và nông dân. Trong ba giai cấp này thì giai cấp tư sản đóng vai trò
lãnh đạo. Nên khi mâu thuẫn được giải quyết thì có sự chuyển hóa về vị trí của
hai giai cấp phong kiến và tư sản. Giai cấp phong kiến từ chỗ là giai cấp lãnh đạo
trở thành giai cấp bị trị còn giai cấp tư sản từ chỗ là giai cấp bị trị lại trở thành
giai cấp thống trị. Ở Việt Nam cuộc đấu tranh giữa địa chủ phong kiến và nông
dân cũng diễn ra hàng nghìn năm, có lúc giai cấp nông dân đã lật đổ được ách
thống trị của phong kiến (cuộc cách mạng Tây Sơn) nhưng cuối cùng rồi cũng
lập lại chế độ phong kiến. ở đây sự chuyển hóa của hai mặt đối lập không mang
lại một chế độ xã hội mới. Điều này do tính chất đặc thù của hai mặt đối lập
trong chế độ xã hội đó và do điều kiện lịch sử của xã hội ta lúc bấy giờ.
Trong xã hội tư sản, cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp tư sản và vô sản cũng
đi đến chỗ chuyển hóa lẫn nhau. Nhưng ở đây không được hiểu một cách máy
móc là giai cấp tư sản trở thành vô sản còn giai cấp vô sản trở thành giai cấp tư
sản. Mà ở đây với một ý nghĩa nào đó thì có thể nói giai cấp tư sản từ chỗ là giai

cấp thống trị trở thành giai cấp bị trị, còn giai cấp vô sản từ chỗ là giai cấp bị tri
sau khi thực hiện cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa trở thành giai cấp
thống trị khi thực hiện nhiệm vụ chuyên chính vô sản của mình. Thực ra nói như
vậy không phản ánh hết thực tế khách quan diễn ra. Bởi sau khi cách mạng vô
sản thành công, giai cấp tư sản không còn là một giai cấp như cũ nữa và bản thân
giai cấp vô sản cũng không còn là giai cấp “ vô sản” nữa mà đã có sự thay đổi


15

hẳn về địa vị, họ đã trở thành giai cấp cùng với nhân dân lao động làm chủ xã
hội, làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mác và Ăng ghen đã viết
“… Sau khi giành được thắng lợi, giai cấp vô sản không hề trở trở thành mặt
tuyệt đối của xã hội, vì nó giành thắng lợi chỉ bằng cách tự thủ tiêu mình và thủ
tiêu cả mặt đối lập của mình. Với thắng lợi của giai cấp vô sản, bản thân giai
cấp vô sản cũng như mặt đối lập chế ước nó, chế độ tư hữu –sẽ biến mất. ”1
Trong thực tiễn cách mạng, Đảng ta đã vận dụng nguyên lý về sự chuyển
hóa của các mặt đối lập vào rất nhiều trường hợp khác nhau, ở mỗi thời điểm
lịch sử khác nhau, mỗi tình huống cách mạng khác nhau, Đảng ta đều căn cứ vào
tình hình thực tế và xem xét, giải quyết sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập một
cách hài hòa, linh hoạt và đem lại thắng lợi vẻ vang. Trong cuộc chiến tranh
chống mỹ cứu nước, chúng ta nói là cuộc đấu tranh một mất, một còn. Câu đó
nói lên tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh giữa hai mặt đối lập: giữa một
bên là đế quốc Mỹ xâm lược cùng bọn tay sai bán nước với một bên là toàn thể
dân tộc Việt Nam đấu tranh chính nghĩa chống lại sự xâm lược của bọn phản
động. Chúng ta phải đấu tranh cách mạng đánh đổ toàn bộ ý đồ xâm lược của
tập đoàn tay sai phản động Hoa Kỳ và bọn bán nước. Song không phải như thế là
một mặt đối lập sẽ mất đi và chỉ còn lại một mặt đối lập mà khi sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc được hoàn thành, mâu thuẫn cơ bản được giải quyết ,
một mặt đối lập mất đi thì đồng thời mặt kia cũng không còn nữa, vì khi sự vật

cũ mất đi, sự vật mới ra đời thì cũng xuất hiện những mâu thuẫn mới vơí những
mặt đối lập mới. ở trường hợp trên, khi đế quốc Mỹ đã bị thất bại hoàn toàn, sự
nghiệp giải phóng dân tộc cơ bản đã hoàn thành thì về phía cách mạng nước ta,
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta cũng không còn nguyên như cũ nữa mà đã
có sự thay đổi về chất, các mặt đối lập mới lại được thiết lập, sự chuyển hóa của
các nặt đối lập mới lại hình thành.
1

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 13.


16

Trong công tác hàng ngày, chúng ta tiến hành phê bình và tự phê bình để
giải quyết những mâu thuẫn giưa hai mặt ưu điểm và khuyết điểm. Vậy có nên
nói là phải bỏ mặt khuyết điểm và giữ lại mặt ưu điểm hay không? Thực tế trong
cuộc đấu tranh tư tưởng, hai mặt đối lập ưu điểm và khuyết điểm chuyển hóa lẫn
nhau không có nghĩa là một còn, một mất một cách máy móc. Điều này không có
nghĩa là chúng ta chỉ bỏ khuyết điểm và giữ nguyên ưu điểm nguyên như cũ.
Thựu ra sau khi sửa chữa khuyết điểm rồi thì ưu điểm sẽ cũng không còn nguyên
như trước nữa mà có sự hoàn thiện và phát triển hơn. Nên có thể nói là các mặt
ưu và khuyết điểm thực hiện chuyển hóa trong cơ chế là khắc phục khuyết điểm
và phát huy ưu điểm mới đúng trong cơ chế chuyển hóa.
Những thí dụ nói trên về sự chuyển hóa khác nhau của các mặt đối lập
trong các sự vật khác nhau, chính là “sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối
lập” Ăng ghen đã tổng hợp sự chuyển hóa muôn vẻ đó như sau: “…tức là
những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa
cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, hoặc lên những
hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên” 1. ở đây chúng ta thấy
Ăng ghen đã khái quát thành hai hình thức chuyển hóa : một là hai mặt đối lập

nhằm vào nhau mà chuyển hóa từ mặt này thành mặt kia, hai là cả hai mặt đều
biến đi trở thành những mặt khác cao hơn.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một nguyên lý rất quan trọng của
phép biện chứng. Nếu hiểu không đúng, vận dụng không đúng nguyên lý đó, có
thể dẫn đến thuật ngụy biện, phản lại phép biện chứng. Thuật ngụy biện là lối nói
xuất phát từ chủ quan, bề ngoài có vẻ biện chứng nhưng thực ra là xuyên tạc hiện
thực khách quan. Thí dụ như xấu và tốt là hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau,
xấu trở thành tốt và ngược lại. Đúng là trong thực tế xã hội có người tốt trở thành
người xấu, có người xấu trở thành người tốt, đó là sự thay đổi bình thường.
Nhưng nếu đi đến kết luận “ càng xấu càng tốt” thì lại là ngụy biện. Trong thực
1

PH. Ăng ghen;’ biện chứng của tự nhiên, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 321


17

tế không phải càng xấu bao nhiêu thì lại chuyển thành tốt bấy nhiêu. Một người
quá xấu thì khó cải tạo thành tốt được.
Hay như trong chiến tranh và hòa bình chuyển hóa lẫn nhau. Nếu nói
trong lịch sử xã hội, tình hình thay đổi có khi đang hòa bình lại xẩy ra chiến
tranh rồi chiến tranh kết lhúc hòa bình lại trở lại thì điều đó dễ hiểu. Nhưng nói
một cách chung chung rằng hóa bình và chiến tranh là hai mặt đối lập bao giờ
cũng chuyển hóa lẫn nhau, chiến tranh trở thành hòa bình, hòa bình tất yếu trở
thành chiến tranh thì ở đây phép biện chứng đã bị xuyên tạc. Có phải trong lịch
sử xã hội, bao giờ hòa bình cũng tất yếu chuyển thành chiến tranh đâu? Chúng ta
thừa nhận rằng: Còn chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ chiến tranh, nhưng sau
khi chủ nghĩa đế quốc mất đi, chiến tranh sẽ không còn là một hiện tượng tất yếu
nữa. Hiện nay chúng ta đang đấu tranh để bảo vệ hòa bình thế giới. Với sức
mạnh của chính nghĩa và lực lượng yêu chuộng hòa bình, kết hợp với xu hướng

quốc tế hóa và hợp tác hóa toàn cầu chúng ta có thể ngăn chặn được chiến tranh
để bảo vệ hóa bình trên thế giới, đẩy lùi được nguy cơ chiến tranh.
Qua đây đồng thời cũng phê phán thuật ngụy biện, cần phải phân biệt và
đấu tranh kiên quyết với những luận điệu giả danh biện chứng với phép biện
chứng chân thực. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một vấn đề rất phức tạp.
Dễ bị xuyên tạc và bị thay thế bằng thuật ngụy biện. Vì vậy, muốn hiểu và thực
hiện đúng phép biện chứng chúng ta phải phân tích cụ thể sự vật khách quan để
phản ánh đúng sự chuyển hóa cụ thể của các mặt đối lập.
Một khía cạnh nữa cần được giải quyết là sự chuyển hóa đó xảy ra lúc nào
trong quá trình đấu tranh của các mặt đối lập? Có ý kiến cho rằng sự chuyển hóa
đó diễn ra ngay từ đầu và trong suốt quá trình đấu tranh của các mặt đối lập.
Quan điểm này cho rằng quá trình đấu tranh của các mặt đối lập cũng là quá
trình chuyển hóa giữa chúng. Nói như vậy là không đúng. Ở đây có sự lẫn lộn
khái niệm chuyển hóa với khái niệm biến đổi nói chung. Sự chuyển hóa cũng là
sự biến đổi nhưng không phải bất cứ sự biến đổi nào cũng là sự chuyển hóa.


18

Trong quá trình đấu tranh của hai mặt đối lập, với sự tác động qua lại lẫn nhau,
hai mặt đó biến đổi dần dần về lượng, nhưng sự biến đổi đó chưa phải là sự
chuyển hóa về chất, khái niệm chuyển hóa của hai mặt đối lập chỉ dùng khi nào
hai mặt đối lập trở thành “đồng nhất”, khi sự đấu tranh đã lên tới cực độ, tức là
giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh, khi mâu thuẫn được giải quyết. Trong câu
trích ở trên, chúng ta thấy Ăng ghen nói tới sự chuyển hóa cuối cùng của chúng,
Người còn chỉ rõ: “sự chuyển hóa từ mặt này sang mặt khác khi các mặt đó lên
tới cực độ”…”ở một điểm nhất định, cực này chuyển thành cực kia”1.Về vấn đề
này Lê nin cũng đã nói: “Phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt
đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất-trong những
điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau-”2

Như vậy là trong quá trình vận động của một mâu thuẫn sự chuyển hóa
của các mặt đối lập chỉ xẩy ra với những điều kiện nhất định, chứ không phải lúc
nào cũng có sự chuyển hóa. Những điều kiện đó chín muồi khi sự đấu tranh giữa
hai mặt đối lập lên tới điểm nút, nghiã là chỉ ở giai đoạn cuối cùng của mâu
thuẫn mà thôi. Khi hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, Đó là lúc mâu thuẫn
được giải quyết. Trong quá trình đấu tranh của hai mặt đối lập, lúc đầu chỉ có sự
thay đổi về lượng, khi lượng đạt tới điểm nút là lúc đạt tới điều kiện chín muồi
thì hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, sự vật thay đổi nhảy vọt về chất. Ở đây
có hai hiện tượng chuyển hóa xẩy ra: Một là hai mặt đối lập của mâu thuẩn trong
sự vật cũ chuyển hóa lẫn nhau. Hai là sự vật cũ chuyển hóa thành sự vât mới,
mâu thuẫn cũ đựơc giải quyết, mâu thuẫn mới lại xuất hiện với những mặt đối
lập mới. Hiện tượng thứ nhất là nguyên nhân của hiện tượng thứ hai. Như mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản diễn ra trong một quá trình lâu dài,
hai mặt đối lập đó đấu tranh lẫn nhau từ thấp đến cao, nhưng chỉ đến khi cuộc
đấu tranh trở thành quyết liệt, có điều kiện chín muồi thì cách mạng vô sản mới
1
2

PH. Ăng ghen;’ biện chứng của tự nhiên, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971 trang ;306
Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 116


19

xẩy ra. Khi đó hai giai cấp mới chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn giữa tư sản và
vô sản mới được giải quyết. Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa được thay
thế bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong xã hội mới lại xuất
hiện mâu thuẫn mới. Điều quan trọng là cần phải phân biệt rõ hai sự chuyển hóa
khác nhau đó.
Vận dụng nguyên lý về sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong phép

biện chứng vào công tác quản lý giáo dục học viên tại các trường sỹ quan nói
chung, điều cốt yếu là phải hiểu thế nào là sự chuyển hóa trong quá trình đào tạo,
lúc nào thì sự chuyển hóa xẩy ra, sự chuyển hóa diễn ra như thế nào.v.v. Trước
hết cần thấy rằng quá trình quản lý giáo dục học viên tại các học viện nhà trường
quân đội là quá trình đào tạo ra những người cán bộ, đảng viên cho quân đội nói
riêng cũng như cho đất nước nói chung mà cồng việc của họ đó là huấn luyện,
giáo dục và quản lý con người. Một công việc khó hơn tất cả mọi công việc. Bởi
trước những đối tượng mà họ giáo dục là hiểm nguy và thử thách, là sự sống và
cái chết trong chiến tranh. Nên cái sự chuyển hóa đầu tiên của người học viên
đào tạo ở các nhà trường đó là sự chuyển hóa về mặt lập trường, nhận thức. Đòi
hỏi người cán bộ nói chung, đặc biệt là người cán bộ chính trị nói riêng đó là sự
mẫu mực về đạo đức, lập trường để cho học viên soi mình phấn đấu. Trong công
tác quản lý giáo dục cần phải tìm hiểu cặn kẽ về nhận thức, tâm tư, tình cảm của
học viên. Ở đây cần phải thấy rằng họ là những người rất đa dạng về mọi mặt.
Kể cả nhận thức, hoàn cảnh điều kiện xuất thân, bản sắc văn hóa vùng miền…
Tuy họ dã có nhu cầu được phấn đấu rèn luyện trong quân đội để trưởng thành.
Song thực tế là họ chưa hiểu hết về môi trường quân đội, chưa hiểu đúng thực
chất bản chất của quân đội ta. Nhiều người còn cho rằng các trường quân đội
cũng như các trường dân sự ngoài, chỉ cần học cho tốt là được, chỉ cần có kết
quả học tập cao là được… chứ không cần phải rèn luyện nhiều, đặc biệt là bản
lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, tính bền bỉ trong chịu đựng gian khổ, khó
khăn…vậy diều cốt yếu đầu tiên của người cán bộ là phải làm cho họ chuyển hóa


20

về mặt nhận thức lập trường, phải có sự cảm hóa, giáo dục để họ nhận thức đúng
về môi trường quân đội. Tuy nhiên, giáo dục để làm chuyển biến nhận thức là
một quá trình, phải kết hợp nhuần nhuyễn nhiều hình thức giáo dục, tùy từng
trường hợp cụ thể và những hoàn cảnh cụ thể để có những hình thức giáo dục

cho phù hợp. Trong đó luôn lấy giáo dục thuyết phục là hình thức giáo dục chủ
yếu, giáo dục từ những cái đơn giản đến những cái phức tạp. tuyệt đối không
được nóng vội, chủ quan, đối cháy giai đoạn. trong quá trình giáo dục, phải chú ý
đến diễn biến tư tưởng của từng người nói riêng cũng như cả tập thể nói chung
như sự tích lũy kiến thức của họ, sự giác ngộ của họ đối với các hoạt động của
quân đội mà biểu hiện trực tiếp đó là với công việc của đơn vị. Quá trình đó phải
tìm tòi mọi biện pháp để kiểm nghiệm về sự kiên định, tính tự giác cũng như
mức độ giác ngộ của họ.
Cùng với quá trình giáo dục làm chuyển hóa nhận thức tư tưởng là quá
trình đào tạo, huấn luyện theo chương trình của cục nhà trương bộ quốc phòng
đã quy định. Đó là quá trình huấn luyện, rèn luyện mọi mặt. Đặc biệt là kiến thức
quân sự và các chuyên ngành liên quan… để khi ra trường họ đảm nhiệm tốt các
cương vị được giao. Đây là chuyển hóa của sự khổ công rèn luyện và trưởng
thành. Để đạt được diều đó đòi hỏi người cán bộ, chỉ huy, quản lý cũng như đội
ngũ giáo viên trong nhà trường phải có sự kết hợp chặt chẽ với nhau trong huấn
luyện, giáo dục. Nắm chắc diễn biến tâm lý, nhận thức của học viên để có
phương pháp giáo dục làm chuyển hóa nhận thức một cách phù hợp. Huấn luyện
phải đi từ cái dễ đến cái khó, phải từ đơn giản đến phức tạp…kiến thức phải
được tích lũy dần theo phương thức tích tụ dần về lượng để đẫn đến chuyển hóa
về chất. Trong quá trình huấn luyện phải tuân đầy đủ các khâu, đúng quy trình
huấn luyện từ giảng lý thuyết, nêu vấn đề, làm mẫu, thực hành, thục luyện…và
kiểm tra đánh giá theo một chu trình khép kín có nâng cao theo chu kỳ bài sau
yêu cầu cao hơn bài trước, nội dung huấn luyện càng ngày càng khó theo mức độ
tăng dần. Kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện của giáo viên với việc dưa học viên


21

vào rèn luyện, cọ xát với thực tế để nâng cao khả năng vận dụng cũng như tính
độc lập sáng tạo của học viên, kết hợp giữa huấn luyện ở nhà trường với thực tập

ở đơn vị cơ sở để làm chuyển hóa kiến thức phong phú trong học viên.
Cần chú ý rằng, giáo dục huấn luyện để làm chuyển hóa toàn diện một con
người từ một chiến sỹ hoặc một học sinh vừa rời ghế nhà trường phổ thông để
trở thành một sỹ quan là một quá trình khó khăn phức tạp đòi hỏi phải qua nhiều
khâu, nhiều bước trung gian, kết hợp chặt chẽ nhiều lĩnh vực, nhiều chuyên
nghành cùng tham gia vào quá trình giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục
chung với giáo dục riêng. Quá trình đó phải tiến hành đồng thời song song xen
kẽ. Tuyệt đối không được có quan niệm tách rời giữa các lĩnh vực. Có như vậy
sự chuyển hóa mới đem lại cho chúng ta kết quả như mong đợi.



×