Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

TIỂU LUẬN QUAN hệ QUỐC tế THỜI cơ, THÁCH THỨC và TRIỂN VỌNG của VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH hội NHẬP KINH tế KHU vực và TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.3 KB, 34 trang )

1

THỜI CƠ, THÁCH THỨC VÀ NHỮNG TRIỂN VỌNG
CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
MỞ ĐẦU
Hiện nay toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành
một xu thế khách quan của thế giới đương đại, Toàn cầu hoá, một mặt nó là
sự nối tiếp và hoàn thiện các khuynh hướng đã hình thành trong lịch sử thế
giới, mặt khác, nó lại là một hiện tượng mới, bắt đầu bằng toàn cầu hoá về
kinh tế, rồi dần dần lôi cuốn theo toàn cầu hoá về văn hoá và tác động mạnh
mẽ đến chính trị. Từ sau chiến tranh lạnh, trước sự sụp đổ ché độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, thế giới từ trật tự 2 cực trở thành thế giới đa
cực với một siêu cường duy nhất là Mỹ. Ngày nay Mỹ đang từng bước thực
hiện chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, nhằm biến toàn cầu hoá
thành Mỹ hoá cả về kinh tế, văn hoá và chính trị, nuôi hy vọng chiếm địa vị
độc tôn và làm bá chủ thế giới.
Toàn cầu hoá là một quá trình chứa chất đầy mâu thuẫn, nó có hai mặt
tương phản: mặt tích cực và mặt tiêu cực. Toàn cầu hoá một mặt tăng cường
quyền lực của tư bản chủ nghĩa, mặt khác nó lại làm sâu sắc thêm những mâu
thuẫn nội tại của chúng, và chuẩn bị một cách tự giác những tiền đề cho chủ
nghĩa xã hội. Mấy chục năm qua trên thế giới, toàn cầu hoá vừa là hệ quả của
sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại; vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Thông qua toàn cầu hoá, các nước đang phát
triển có thể tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại, tranh thủ nguồn vốn vay và
vốn đầu tư trực tiếp từ các quốc gia tư bản giàu có, để tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt đối với những nước đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa như nước ta, việc hội nhập kinh


2



tế thế giới là một vấn đề mang tính cần thiết. Tuy nhiên không phải mọi quốc
gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá đều giống nhau và được bình đẳng
như nhau mà phải gánh chịu nhiều mặt, cả thời cơ và thách thức, đòi hỏi tất cả
các nước phải chớp lấy thời cơ, vượt qua thử thách trong quá trình hội nhập
kinh tế thế giới. Đối với nước ta, thực hiện đương lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thế giới
và khu vực với tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi
ích dân tộc và an ninh quốc gia, chúng ta đã thu được nhiều thắng lợi. Song
bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế thế giới đối với chúng ta là một quá
trình mới mẽ, tham gia vào toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế thế giới chúng ta có
nhiều thời cơ, nhưng cũng gặp không ít những thách thức, đòi hỏi phải đổi
mới nhận thức, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế thế
giới, mới giữ vững được mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy
nghiên cứu thời cơ, thách thức và những triển vọng của Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề mang tính lý luận và
thực tiễn.
NỘI DUNG
1. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực ở nước ta hiện
nay
1.1. Sự cần thiết và quá trình hội nhập kinh tế thế giới, khu vực của
nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình lâu dài và bao quát tổng thể
mọi lĩnh vực trên phạm vi toàn cầu, với sự tham gia của hầu hết các quốc gia
trên thế giới, từ các nước công nghiệp phát triển, đến các nước đang phát


3


triển. Để thích ứng với quá trình này, các nước cần có đường lối chiến lược
cùng hệ thống giải pháp đông bộ, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội nhằm
chủ động nắm bắt, đón nhận các xu hướng mới, tuân thủ nội dung cam kết của
hệ thống quốc tế về hội nhập kinh tế thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá,
mà đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay, việc nước ta tham gia
hội nhập kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề mang tính cần thiết.
Toàn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế khách quan, bắt nguồn từ sự
phát triển của lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá ngày càng cao,
dưới tác động của khoa học và công nghệ hiện đại. Mặc dù quá trình toàn cầu
hoá kinh tế đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, nên có nhiều mặt hạn chế, tiêu cực như: đe doạ độc
lập chủ quyền của các quốc gia dân tộc đang phát triển; gây sức ép buộc các
nước phải lệ thuộc vào chủ nghĩa tư bản ...song nó cũng có những tác động
tích cực lôi cuốn tất cả các nước trên thế giới vào vòng xoáy của nó. Những
tác động tích cực đó là: tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển
mở rộng kinh doanh, khai thác các nguồn lực về vốn đầu tư, kinh nghiệm
quản lý, công nghệ, thị trường, của thế giới để phát triển sản xuất trong nước,
cải thiện cơ cấu kinh tế và nâng cao đồi sống của nhân dân. Tham gia vào các
quan hệ kinh tế toàn cầu, các nước đang phát triển có điều kiện thực hiện sự
đan cài lợi ích, tạo nên thế và lực mới trong bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ
của mình; đồng thời mỗi nước còn tạo được cho mình một vị trí xứng đáng để
tránh phân biệt đối xử, và có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế
để bảo vệ lợi ích của mình, vừa tăng thêm độ tinh cậy cho các đối tác. vì thế
mà hầu hết các nước trên thế giới đều đã và đang tham gia hội nhập kinh tế
thế giới. Nước ta cũng không nằm ngoại lệ, do vậy tham gia hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực ở nước ta hiện nay là một vấn đề tất yếu khách quan, nếu
không muốn mình bị cô lập về kinh tế.


4


Mặt khác hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ không mâu thuẫn với nhau, mà ngược lại nó còn hổ trợ cho nhau. Nếu
đóng cửa, từ chối hội nhập kinh tế quốc tế thì sớm hay muộn sẽ đưa đất nước
đi đến chổ tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới, và kết cục sẽ rơi vào
trạng thái phụ thuộc, dẫn tới những bất ổn về chính trị - xã hội. Vì vậy xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ hiện nay phải trên cơ sở tư duy mới, mà trước
hết là độc lập tự chủ về việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế, cùng đường
lối phát triển kinh tế - xã hội, tạo lập cho đất nước có một tiềm lực kinh tế, cơ
sở vật chất kỷ thuật, khoa học, công nghệ đủ mạnh; xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý, có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao, có mức tích luỹ khá từ nội bộ nền
kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng hướng, mang tính vững chắc.
Thực hiện tốt điều đó đòi hỏi nước ta phải chủ động hội nhập kinh tế thế giới
và khu vực.
Trong điều kiện nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, từ một nước thuộc địa nữa phong kiến, nền sản xuất nhỏ là
chủ yếu, lại trải qua nhiều năm chiến tranh bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế còn
nhỏ lẽ, sức cạnh tranh thấp. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng là: phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược đó, đi đôi
với chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong nước, chúng ta phải chú trọng
đến quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới và khu vực. Thông qua đó
giải quyết hợp lý mối quan hệ hợp tác và phát triển giữa các nước, các lực
lượng để giữ ưu thế có lợi cho phát triển kinh tế đất nước. Dưới tác động của
toàn cầu hoá kinh tế, các nước ngày càng quan hệ chặt chẽ với nhau, và không
một nước nào có thể tồn tại, phát triển một cách biệt lập được. Hạn chế lớn
nhất của nước ta từ thời bao cấp đến nay là sự hoạch định phát triển kinh tế
của ta không đặt trong khuôn khổ chung của nền kinh tế thế giới, do đó về



5

mặt này chúng ta chưa phát huy được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, không phát huy được ưu thế của ta trên trường quốc tế dẫn đến nhiều
mặt hàng của chúng ta còn nhiều hạn chế, sứ cạnh tranh thấp, không còn phù
hợp với sự phát triển năng động của tình hình kinh tế thế giới. Chỉ có thông
qua giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới thấy hết được những
điểm mạnh, điểm yếu của nền kinh tế, và tìm ra cho mình một sự phân công
lao động quốc tế phù hợp, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Vì vậy để hoàn thành tốt sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo, một vấn đề mang tính cấp thiết, khách quan là phải
chủ động tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
Sau khi giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước chúng ta đã hình
thành các chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào hội đồng tương
trợ kinh tế, tích cực tham gia vào phong trào không liên kết, Liên hợp quốc ...
mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho mốt trật tự thế giới mới
công bằng, bình đẳng. Bên cạnh sự hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ
nghĩa, chúng ta đã thúc đẩy mạnh quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi vì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII (9/1996) Đảng ta chủ trương: “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết Trung
Ương 4 khoá VIII nêu lên nhiệm vụ: Tích cực chủ động thâm nhập và mở
rộng thị trường thế giới; tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán
hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập AFEC, WTO, có kế hoạch cụ thể để
chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA... Đại hội IX (4/2001)
tiếp tục khẳng định chủ trương của các đại hội trước và khẳng định: “Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,



6

phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” 1. Tháng 12/2001 Bộ chính trị ra
Nghị quyết số 07/BCT về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam và
cụ thể hoá hơn nữa đường lối đã được vạch ra ở Đại hội lần thứ IX. Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển; chính sách
đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế
trên các lĩnh vực khác. Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực”1. Quán triệt tinh thần Nghị quyết, và các chủ trương, chính sách của
Đảng, quá trình tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, chúng ta đã có
bước đi phù hợp. Năm 1993 chúng ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế IMF, WB, ADB, trong quan hệ với các tổ chức này,
chúng ta chỉ chấp nhận sự hổ trợ tài chính, nếu yêu cầu của họ không trái với
đường lối chính sách của Đảng.
Ngày 25/7/1995 nước ta gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), và từ 1/1/1996 chúng ta bắt đầu thực hiện
các cam kết và nghĩa vụ trong chương trình ưu đãi thuế quan, có hiệu lực
chung của AFTA (CEPT). Theo quy định của CEPT ta có nghĩa vụ giảm thuế
nhập khẩu xuống còn từ 0 đến 5% vào năm 2006; tới năm 2001, 6 nước thành
viên cũ sẽ thực hiện toàn bộ các mặt hàng có thuế suất bằng 0% và Việt Nam
đến năm 2010. Ngoài ra chúng ta còn tham gia chương trình hợp tác công
nghiệp (AICO), khu vực đầu tư ASEAN (CAIA) và các chương trình hợp tác
khác của ASEAN.
Tháng 3/1996 nước ta tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) nhằm
thuận lợi hoá thương mại và đầu tư; hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á 1
1


ĐCSVN Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Nxb CTQG, H. 2001, tr 119.
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Nxb CTQG, H, 2006, tr 112.


7

Âu, cam kết về tự do hoá thương mại và đầu tư. Tháng 10/2004 Việt Nam là
nước đăng cai tổ chức thành công hội nghị ASEM 5 với chủ đề chính: Tiến
tới quan hệ đối tác Á - Âu sống động và thực chất hơn.
Tháng 11/1998 Việt Nam gia nhập AFEC và sẽ trở thành thành viên
đầy đủ của tổ chức này vào năm 2020.
Tháng 12/1994 chúng ta gửi đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới;
đến nay các phiên đàm phán với các tổ chức đã cơ bản hoàn thành, dự kiến
07/11/2006 chúng ta sẽ chính thức gia nhập WTO.
Từ 16/9/1996 đến 13/7/2000, trải qua 10 vòng đàm phán, hiệp định
thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết, ngày 10 tháng 12 năm 2001 hiệp định bắt
đầu có hiệu lực. Việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mở ra
một thời kỳ mới, bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước.
Quán triệt tinh thần mở cửa đổi mới của Đảng, chúng ta đã chủ động
tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, thực tế chúng ta đã giành được
nhiều thành tựu đáng khích lệ. Chúng ta đã phá được thế bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo dựng môi
trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao được
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Khắc phục được tình trạng hụt hẫng
về thị trường, do hệ thông các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ. Không bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997
ở một số nước châu Á, mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu. Hiện nay
chúng ta đã có quan hệ hợp tác thương mại với trên 170 nước và vùng lãnh
thổ, xuất khẩu đạt từ 2,404 tỷ USD năm 1990 tăng lên 15 tỷ USD năm 2000;
nhờ mở rộng thị trường xuất khẩu chúng ta đã phát triển được sản xuất, tạo

thêm công ăn việc làm, mở mang được nhiều ngành nghề mới. Thu hút được
nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cho đến hết năm 2001 đã có 66 nước và
vùng lãnh thổ với nhiều tập đoàn, công ty đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam,


8

với 3265 dự án được cấp giấy phép, vốn đăng ký đầu tư hơn 38,6 tỷ USD.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm hơn 30% sản lượng công nghiệp, 23%
kim ngạch xuất khẩu, thu hút hơn 30 vạn lao động trực tiếp và hàng vạn lao
động gián tiếp. Nguồn viện trợ phát triển (ODA) ngày càng lớn, giảm đáng kể
nợ nước ngoài. Cho đến nay tổng mức cam kết tài trợ cho Việt Nam là 13,40
tỷ USD, ta đã ký được hơn 10 tỷ và giải ngân được 6 tỷ. Việc khai thông với
quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) đã tạo điều kiện cho ta
đàm phán xoá và giảm nợ nước ngoài.
Quá trình hội nhập kinh tế thế giới giúp chúng ta tiếp thu được khoa
học - công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và
kinh doanh. Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo ra tư duy làm ăn
mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Kết hợp tốt nội lực với ngoại lực, hình thành sức
mạnh tổng hợp tạo nên những thành tựu to lớn, giữ vững được độc lập tự chủ,
an ninh quốc gia, thực hiện tốt định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững bản
sắc văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên quá trình tham gia hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
chúng ta còn nhiều mặt yếu kém, bất cập cần phải khắc phục đó là: Chưa làm
tốt công tác chuẩn bị cho hội nhập, tuy chủ trương đã được khẳng định trong
nhiều Nghị quyết và đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận thức hội nhập
chưa đạt được sự nhất trí cao, điều đó làm ảnh hưởng đến quá trình đề xuất
chính sách và triển khai thực hiện. Công tác nghiên cứu triển khai còn chậm,

chủ yếu tập trung ở cấp Trung Ương, còn các cấp các ngành tuy có đặt ra
nhưng còn yếu và không đồng bộ, làm hạn chế sức mạnh của chúng ta trong
quá trình hội nhập. Luật pháp, chính sách quản ký kinh tế, thương mại còn
chưa hoàn chỉnh. Các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu cả về sản xuất, quản lý


9

và khả năng cạnh tranh, quy mô sản xuất nhỏ, yếu cả về công nghệ và quản
lý; chưa bỏ được thói quen bao cấp. Nhà nước chưa có cơ chế hiệu lực nhằm
kích thích các doanh nghiệp, gắn sự tồn tại và phát triển của mình với khả
năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Đội ngũ cán bộ còn yếu, công tác
tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác hợp
tác quốc tế.
1.2. Những thời cơ và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Đối với tất cả các nước, nhất là đối với các nước đang phát triển, đang
từng bước tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế như nước ta, thì tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế luôn đứng trước cả những thời cơ và thách thức.
Nói đến thời cơ (còn gọi là cơ hội), là nói đến sự xuất hiện những điều
kiện trong nước, quốc tế thuận lợi tạo khả năng khách quan cho việc giải
quyết những nhiệm vụ cách mạng trọng đại. Thời cơ trước hết được tạo ra từ
thắng lợi của cách mạng, từ sự lớn mạnh của nội lực cách mạng (thời cơ bên
trong). Thời cơ còn được tạo ra từ những chuyển biến của tình hình quốc tế
(thời cơ bên ngoài).
Thách thức là những khó khăn trở lực lớn phải vượt qua, những kẻ địch
nguy hiểm phải chiến thắng, những mâu thuẫn phức tạp phải giải quyết để
cách mạng có thể tự bảo vệ và tiếp tục tiến lên. Những khó khăn phức tạp đó
có thể phát triển thành nguy cơ đe doạ đến thành quả của cách mạng. Thách
thức có cả thách thức bên trong, từ tình hình kinh tế - xã hội, chính trị của đất

nước, và có cả thách thức từ bên ngoài, do bối cảnh tình hình quốc tế đem lại.
Thời cơ và thách thức quan hệ chặt chẽ tác động qua lại biện chứng với nhau.
Trong thời cơ có thách thức và ngược lại, trong thách thức có những yếu tố
của thời cơ; những thời cơ và thách thức bên ngoài có thể chuyển hoá thành
những thời cơ và thách thức bên trong và ngược lại.


10

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của
nhân dân ta hiện nay, đang chịu sự tác động của điều kiện quốc tế phức tạp
chưa từng thấy; nó tạo ra một số cơ hội quý báu, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều
nguy cơ không thể xem thường. Đảng ta nhấn mạnh: “Nắm bắt cơ hội, vượt
qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với Đảng và nhân dân ta” 1. Vì vậy quá trình hội nhập kinh tế thế
giới và khu vực chúng ta cần nhận thức đầy đủ cả thời cơ và thách thức, để có
đường lối chiến lược, sách lược sát đúng.
Về thời cơ, thứ nhất là, xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển
là điều kiện quốc tế thuận lợi để nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nước ta đang trong tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, nếu để khủng hoảng kéo dài sẽ dẫn đến
nguy cơ về chính trị. Vì vậy thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách mạng nước ta, vì mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Muốn thoát ra khỏi tình trạng đó chúng ta phải
nắm bắt cơ hội mới do tình hình quốc tế đem lại. Với đường lối đổi mới, hội
nhập quốc tế đúng đắn, chúng ta không những đã thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, mà còn vững bước tiến vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, bằng những thành tựu mà thế giới phải thừa nhân và thán phục.

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thời cơ là xu thế hoà bình, ổn định,
hợp tác để phát triển trở thành xu thế cơ bản. Đây là xu thế khách quan,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ quốc gia dân tộc nào.
Chính trong xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển, hướng vào làm ăn kinh tế
mà hầu hết các quốc gia dân tộc trên thế giới, kể cả một số nước thù địch với
1

ĐCSVN Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr 67 - 68.


11

Việt Nam đã có những phản ứng thuận lợi, tích cực đối với đường lối đổi
mới, hội nhập của nước ta.
Từ môi trường quốc tế đặt ra vấn đề cần phải đổi mới tư duy, cần phải
nhận thức rõ cả thời cơ và thách thức, khắc phục lối tư duy mang nặng tính
giáo điều, bảo thủ, máy móc, thể hiện ở việc kéo dài mô hình cũ về chủ nghĩa
xã hội. Chúng ta đã tranh thủ được môi trường hoà bình, ổn định, xu thế hợp
tác để phát triển trên thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, để thực hiện
công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đồng thời xu thế mới của quốc tế đã tạo điều kiện
thuận lợi cho chúng ta thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại độc lập, tự
chủ, mở rông, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, trên tinh thần
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hiện nay chúng ta
đã quan hệ ngoại giao với hơn 190 nước, quan hệ thương mại với hơn 170
nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại với hơn 60 nước, trong đó có
hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Những thắng lợi cơ bản đó, đã thể hiện xu
thế hoà bình, ổn định để phát triển, là điều kiện thuận lợi cho chúng ta trong
quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt

tốt cơ hội đó để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đảng ta khẳng định: “tranh thủ cơ hội,
vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn,
phát triển với tóc độ nhanh hơn và bền vững hơn”1.
Thuận lợi cơ bản thứ hai là, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
tạo ra những cơ hội lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có tiền đề về khoa học công nghệ của quốc tế. Trước đây tiền đề quốc tế chủ yếu, quan trong nhất là
1

ĐCSVN Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứi X Nxb CTQG, H, 2006, tr 23.


12

sự giúp đỡ về kinh tế, kỷ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến, ngày
nay tiền đề quốc tế quan trọng nhất chính là cuộc cách mạng khoa học kỷ
thuật và công nghệ hiện đại. Sử dụng tiền đề đó, thực chất là chủ động tiếp
cận những thành quả kinh tế, khoa học công nghệ của chủ nghĩa tư bản hiện
đại thông qua con đường hợp tác, giao lưu kinh tế quốc tế, thông qua dòng
chảy mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hoá. Nếu không tận dụng được những
cơ hội thuận lợi do cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại mang lại, thì
chúng ta không có được những điều kiện về kinh tế - kỷ thuật, để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược hội nhập đúng
đắn. Biết nắm bắt, tận dụng tốt khoa học - công nghệ hiện đại chúng ta sẽ phát
triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, đẩy nhanh được tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Những thành tựu sau hơn 20 năm đổi mới đã
chững minh: Do áp dụng tốt khoa học - công nghệ tiên tiến chúng ta đạt được
nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt lĩnh vực kinh tế tăng trưởng khá năng động,
chính trị an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện, đất nước
đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, thế và lực của ta ngày

càng được nâng cao. Hiện nay chúng ta tham gia vào thị trường khu vực và
thế giới với tư cách là một môi trương đầu tư thuận lợi, nhiều mặt hàng xuất
khẩu chủ lực có lợi thế trên trường quốc tế, chúng ta có nhiều tiềm năng về tài
nguyên, du lịch, về con người, về vị trí địa chính trị, và môi trường hoà bình
ổn định. Đây là cơ sở để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo
tiền đề cho chúng ta tiếp cận tốt khoa học - công nghệ hiện đại, để phát triển
kinh tế - xã hội đất nước.
Thuận lợi cơ bản thứ ba là, quá trình toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội
mới cho Việt Nam chủ động hội nhập và phát triển.
Quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế xâm nhập đến
tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, nó đặt ra nhiều thách thức, song cũng


13

tạo những cơ hội mới cho các nước đang phát triển, trong đó có nước ta.
Thuận lợi trước hết đó là tạo điều kiện cơ hội cho ta thâm nhập vào thị trường
khu vực và thế giới. Hiện nay vấn đề thị trường xuất nhập khẩu là một trong
những vấn đề sống còn của bất cứ nền kinh tế nào. Đổi mới hội nhập là quá
trình đột phá, chiếm lĩnh thị trường thế giới. Trước trào lưu toàn cầu hoá, nền
kinh tế nước ta đã và đang khai thác thị trường quốc tế rộng lớn, đa dạng, nếu
trước đây, thời kỳ bao cấp, kim ngạch xuất khẩu nước ta có năm chỉ đạt 500
triệu USD, thì ngày nay là trên 30 tỷ USD, trong đó có hơn 16 tỷ USD xuất
khẩu. Nếu thực hiện đầy đủ những cam kết của AFTA vào năm 2006, thì
hàng hoá Việt Nam có thể xâm nhập tự do vào tất cả các nước ASEAN.
Chúng ta gia nhập WTO, chúng ta sẽ được hưởng quy chế MFN trong quan
hệ thương mại với 150 thành viên của WTO, và hàng hoá Việt Nam sẽ có mặt
tại các thị trường rộng lớn và đa dạng.
Toàn cầu hoá tạo ra cho chúng ta một cơ hội nữa là, thu hút được vốn
đầu tư nước ngoài. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta cần

có vốn đầu tư lớn khoảng trên 300 tỷ USD, trong khi đó khả năng huy động
vốn trong nước khoảng hơn 200 tỷ USD, còn lại là phải huy động vốn nước
ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp, hoặc vay vốn ODA và vốn vay thương
mại. Trong 5 năm (2001 - 2006) để có tóc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm
7,5%, nhu cầu tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần khoảng hơn 6 tỷ đô la, chiếm
trên 30% GDP. Vốn trong nước khoảng 60 - 65%, vốn nước ngoài 35 - 40%.
Theo thống kê, tính đến hết năm 2001, nước ta nhận được khoản cam kết
ODA gần 20 tỷ USD, trong đó giải ngân được gần 10 tỷ; về vốn FDI, cho đến
nay đã có trên 3600 dự án với tổng số vốn đăng ký là 42 tỷ USD, thực hiện
được khoảng 22 tỷ, Nước ta trở thành thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm tỷ trọng khoảng 13% GDP và có tốc độ tăng trưởng 20%/ năm.
Việc tranh thủ các luồng vốn đầu tư nước ngoài tuy có nhiều khó khăn, song


14

có nhiều tiềm năng rất lớn; lượng vốn của các nước và các công ty đa quốc
gia đầu tư ra nước ngoài hàng năm lên tới 800 tỷ USD, trong đó đầu tư vào
các nước đang phát triển là chiếm 1/3, vì vậy chúng ta cần tranh thủ những cơ
hội đó để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh đó, sự hội nhập kinh tế thế giới, toàn cầu hoá kinh tế cho
chúng ta cơ hội tiếp nhận và đổi mới trang thiết bị, nhất là khoa học công
nghệ hiện đại. Là nước đi sau, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tiếp nhận
công nghệ tiên tiến của các nước phát triển, để đẩy nhanh tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tham
gia vào nền kinh tế toàn cầu, nước ta có cơ hội được hưởng những thành quả
tiến bộ của khoa học và công nghệ mới, đó là một cơ hội cho những nước
chậm phát triển như nước ta. Ngày nay, tốc độ phổ cập tri thức mới, kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến đang diễn ra nhanh chống, thông qua nhiều hình thức và
nhiều kênh thông tin khác nhau; phổ biến nhất là chuyển giao công nghệ, nhờ

đó các nước đang phát triển, nhất là nước ta có thể thực hiện và rút ngắn quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hơn nữa, quá trình mở cửa giao lưu cũng tạo điều kiện cho chúng ta
phát huy được nội lực. Nước ta với dân số hơn 80 triệu người, chúng ta có
nguồn nhân lực dồi dào, người Việt Nam thông minh, cần cù, sáng tạo; nhưng
nếu đứng ngoài toàn cầu hoá thì việc sử dụng nguồn nhân lực đó sẽ rất lãng
phí và không hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để khai thác, sử
dụng tốt nguồn nhân lực của đất nước. Thông qua hội nhập kinh tế, quá trình
phân công lao động mới và xã hội hoá lao động sẽ diễn ra nhanh chống, chắc
chắn chất lượng nguồn nhân lực nước ta sẽ được nâng cao. Mặt khác quá trình
chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển, tạo cơ hội cho sự chuyển đổi từ
lao động giản đơn sang lao động kỹ thuật máy móc ở nước ta diễn ra nhanh
chống. Tham gia vào nền kinh tế thế giới, các nhà quản lý, các nhà doanh


15

nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận vào các thị trường một cách bình đẳng,
và họ được làm quen với môi trường cạnh trang khắc nghiệt của cả thị trường
trong và ngoài nước, vì vậy bắt buộc phải đổi mới cách tổ chức sản xuất, đổi
mới công nghệ và trang thiết bị, tiếp thu những phương pháp quản lý tiên tiến,
mới không ngừng nâng cao được sức cạnh tranh của mình, tiến hành hội nhập
kinh tế thế giới và khu vực có hiệu quả.
Về thách thức, từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay, trước bối
cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, sự nghiệp cách mạng nước ta đang
đứng trước những thách thức rất lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội và quốc phòng an ninh. Những thách thức đó vừa mang tính
thời đại, vừa mang tính đa dạng phức tạp. Có những thách thức mang tính
nhất thời, song phần lớn là những thách thức lâu dài; có những thách thức đã
lộ diện, có thể dự đoán được, nhưng cũng có những thách thức còn tiềm ẩn

mà hậu quả của nó để lại khó lường, vì vậy trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực chúng ta cần nhận thức đầy đủ những thách thức cơ bản
để có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn trong quan hệ đối ngoại.
Những thách thức cơ bản đó là:
Thứ nhất, thách thức về kinh tế, có thể thấy rằng những thách thức về
kinh tế từ điều kiện quốc tế đem lại cho nước ta hiện nay là những thách thức
lớn và phức tạp. Có những khó khăn thử thách đơn thuần về kinh tế như cạnh
tranh trên trường quốc tế, nhưng cũng có những thách thức kinh tế gắn chặt
với chính trị, như tạo khó khăn, gây sức ép chính trị đối với nước ta. Nếu
không vượt qua được những thách thức từ bên ngoài về kinh tế, thì không thể
xoá bỏ được nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Đại hội Đảng IX đã xác định, chúng
ta có 4 nguy cơ cơ bản, trong đó nguy cơ tụt hậu về kinh tế là vấn đề cấp bách
đòi hỏi phải giải quyết.


16

Những năm qua, mặc dù chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế xã hội, quan trọng đáng khích lệ, nhưng về cơ bản nước ta vẫn là nước đang
phát triển, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ điểm xuất phát thấp,
GDP bình quân đầu người được xếp vào loại thấp trên thế giới. Hội nhập kinh
tế thế giới trong môi trường cạnh tranh khóc liệt, đây là thách thức lớn đặt ra
cho chúng ta cần giải quyết. Mặt khác, nước ta không những là nước đang
phát triển, mà còn là nước xã hội chủ nghĩa, do đó thách thức về kinh tế từ tác
động của toàn cầu hoá lại càng phức tạp hơn. Hiện nay trên bình diện chung,
khoảng cách về trình độ phát triển của Việt Nam so với các nước NICs là
khoảng 30 năm, với Thái Lan khoảng 20 năm, với Trung Quốc khoảng 10
năm, đới với các nước phát triển chắc còn xa hơn nữa. Đó là sản phẩm của
lịch sử, song không vì thế mà cuộc cạnh tranh kinh tế lại nhân nhượng chúng
ta; mặc dù hơn 20 năm qua chúng ta đã nổ lực rất lớn, có nhiều bước phát
triển vượt bậc, song tình hình về khoảng cách phát triển vẫn chưa cải thiện

được nhiều, thậm chí có một số mặt khoảng cách chênh lệch còn lớn hơn.
Nguy cơ tụt hậu về kinh tế biểu hiện rõ rệt, khi sức cạnh tranh của Việt
Nam còn yếu, năm 2000 Việt Nam đứng thứ 53/59, và năm 2001 đứng thứ
62/69 những nước có hoạt động ngoại thương khá. Máy móc, trang thiết bị
khoa học, công nghệ thuộc tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nước
ta còn ở trình độ thấp hơn các nước trung bình của thế giới từ 1 đến 3 thế hệ,
nên ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm; chính vì
năng suất lao động thấp, giá thành cao, nên việc tiếp cận, chiếm lĩnh thị
trường khu vực và thế giới của sản phẩm Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn,
nhiều mặt hàng phải chịu thua thiệt, không những trên thị trường quốc tế mà
còn phải chịu lép vế ngay ở thị trường trong nước. Việc gia nhập WTO là một
thuận lợi lớn, nhưng đồng thời là một thách thức đối với chúng ta. Khi gia
nhập WTO chúng ta phải chia sẽ thị trường trong nước với các đối tác nước


17

ngoài, kể cả các lĩnh vực mà lâu nay các nhà đầu tư trong nước chiếm lĩnh,
chúng ta phải giảm thuế nhập khẩu, sản xuất trong nước phải đương đầu với
việc không được nhà nước bảo trợ như trước đây. Các doanh nghiệp, trong đó
có cả doanh nghiệp nhà nước quản lý, khó tránh khỏi sự phá sản do hiểu biết
không đầy đủ về hội nhập quốc tế.
Cách mạng khoa học, công nghệ cùng với sự phát triển của kinh tế trí
thức tạo thời cơ và vận hội cho nước ta đi tắt đón đầu, để tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường rút ngắn. Nhưng những vấn
đề đặt ra cho việc đi tắt đón đầu không hề đơn giản; trước hết là vấn đề yêu
cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân lực, trong khi đó đối với nước ta, lao
động giản đơn là cơ bản, kỷ thuật tay nghề còn thấp, mức lương cơ bản chưa
cao tính ổn định nghề nghiệp còn nhiều phức tạp ... đó là những nhược điểm
cơ bản mà chúng ta chưa thể nhanh chống khắc phục được. Bên cạnh đó để

rút ngắn tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần thu
hút vốn và đầu tư nước ngoài; nhưng sự cạnh tranh giữa các nước, đặc biệt là
các nước Châu Á và Đông Nam Á, thì sự cạnh tranh về vốn, thu hút đầu tư
ngày càng trở nên gay gắt hơn, nhất là từ khi Trung Quốc trở thành thành viên
của WTO. Vấn đề vay vốn, công nghệ và sử dụng vốn cho có hiệu quả cũng
là một thách thức lớn đối với chúng ta. Nhìn chung, hiệu quả sử dụng vốn cho
các dự án còn thấp và chưa được chú ý đúng mức; hiệu quả kinh tế của dự án
chưa cao, đầu tư vào dự án không đúng mục đích, bên cạnh đó vốn đầu tư còn
bị thất thoát bởi tệ quan liêu, tham nhũng.
Do tác động của toàn cầu hoá, sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng
lớp dân cư, giữa các vùng miền ngày càng gia tăng, đó là những vấn đề nan
giải do mặt trái của quá trình toàn cầu hoá đem lại. Mặc dù bản chất của chế
độ ta khác với các nước tư bản; Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách
kinh tế - xã hội đúng đắn, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo đạt hiệu


18

quả cao, song chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn được mặt trái của toàn cầu
hoá, trong đó vấn đề thất nghiệp gia tăng, sự phân hoá giàu nghèo kéo theo
những vấn đề xã hội phức tạp khác. Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của toàn
cầu hoá, đối với các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường để bảo đảm vừa tăng
trưởng nhanh, vừa ổn định bền vững là một thách thức lớn đối với nước ta.
Một thách thức cơ bản, mang tính tổng hợp nữa là việc giữ vững nền
kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, là một thách
thức lớn đối với nước ta. Xương sống của quá trình toàn cầu hoá hiện nay là
do hơn 60.000 công ty xuyên quốc gia, với hơn 500.000 chi nhánh ở khắp nơi
trên thế giới hợp thành; các công ty này có tham vọng cùng nhau thống trị nền
kinh tế thế giới, trong khi đó một nền kinh tế nhỏ bé như nước ta rất khó có
thể đương đầu với các chính sách xâm nhập bành trướng của các công ty này,

đặt ra vấn đề bảo đảm nền kinh tế độc lập tự chủ là một thách thức lớn. Thực
tế ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp trong nước bị mất thị trường trong
nước đã xảy ra; nhiều doanh nghiệp liên doanh vì nhiều lý do đã chuyển thành
công ty 100% vốn nước ngoài, nếu tình trạng này còn tiếp tục sẽ làm gia tăng
nguy cơ mất độc lập về kinh tế. Việc giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ còn
gặp nhiều khó khăn bởi còn nhiều yếu tố khác, như sức cạnh tranh yếu, phụ
thuộc vào vốn nước ngoài, khoa học kỹ thuật, công nghệ và chịu sức ép trong
ký kết các cam kết quốc tế. Do vậy chúng ta cần nhận thức rằng, việc đảm
bảo nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện toàn cầu hoá, là một việc làm
hết sức khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt nổ lực chủ quan mới
giành được thắng lợi.
Thứ hai, thách thức về chính trị, thách thức về chính trị là những thách
thức đối với sự ổn định chính trị của đất nước, đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng, chính quyền nhà nước và đối với an ninh quốc gia. Đồng thời cũng là
thách thức lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, vì độc


19

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong 4 nguy cơ mà hội nghị giữa nhiệm kỳ
BCHTW khoá VII nêu lên, trong đó có 3 nguy cơ thuộc lĩnh vực chính trị, 1
nguy cơ thuộc lĩnh vực kinh tế nhưng có ý nghĩa chính trị hết sức sâu sắc.
Những năm 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, lợi dụng cơ hội
đó, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức chống phá các nước xã
hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm, đây là thách thức
chính trị lớn nhất đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Những tác động đó còn ảnh hưởng đến tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và
khu vực của nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Mặt khác trong quá
trình hội nhập kinh tế thế giới, vì lợi ích của sự nghiệp xây dựng đất nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ động hội nhập, chấp nhận luật
chơi của toàn cầu hoá, trong đó tác động mặt trái của nó không chỉ về kinh tế
mà cả về chính trị, tư tưởng, điều này chúng ta cần phải nhận thức rất rõ. Quá
trình toàn cầu hoá là một quá trình khách quan, song hiện nay cơ bản là do
chủ nghĩa tư bản chi phối, vì vậy toàn cầu hoá không đem lại mọi cơ hội và
lợi ích cho các nước như nhau, trái lại các nước phải chịu sức ép, những điều
kiện mà chủ nghĩa tư bản áp đặt: ví du như lợi dụng vấn đề viện trợ kinh tế,
vay vốn ODA, vấn đề đầu tư ... để can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước, thông qua các hoạt động kinh tế để thực hiện mục đích chính trị, can
thiệp vào chủ quyền quốc gia các dân tộc. Đối với nước ta, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có cũng
cố được độc lập dân tộc mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội, ngược lại, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc. Những
thách thức đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng chính là những
thách thức đe doạ nền độc lập dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động quốc tế, đứng đầu là đế


20

quốc Mỹ đang ra sức chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó
Việt Nam là một trọng điểm. Lợi dụng chiêu bài nhân quyền, dân chủ, tự do
tôn giáo ...để thực hiện chiến lược xoá bỏ tất cả các chế độ chính trị không
phục tùng sự thống trị của chúng. Quá trình toàn cầu hoá, Mỹ và phương tây
không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”, đặc biệt chiến lược ấy
còn nguy hiểm hơn nhiều khi gắn liền với kinh tế, vì vậy chúng ta phải thấy
được những toan tính của chủ nghĩa đế quốc sử dụng các biện pháp kinh tế để
thực hiện âm mưu xâm phạm độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc.
Những diễn biến của tình hình thế giới trở nên đặc biệt phức tạp kể từ
sau sự kiện 11/9/2001. Lợi dụng chiêu bài chống khủng bố, Mỹ ra sức can

thiệp vào công việc nội bộ của các nước, bất chấp cả luật pháp quốc tế, vì vậy
chúng ta phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi
âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, lợi dung kinh tế để thực hiện mục tiêu chính trị.
Tóm lại, thách thức về chính trị là thách thức rất lớn, nhưng việc đẩy
lùi nguy cơ, vượt qua thử thách cơ bản phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của
chúng ta. Ngày nay thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều, cơ sở vật
chất kỷ thuật của nền kinh tế được tăng cường; đất nước còn nhiều tiềm năng
lớn về tài nguyên, lao động, nhân dân ta có phẩm chất truyền thống tốt đẹp;
tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; Đảng ta có đường lối đổi mới đúng
đắn. Với những nhân tố chủ quan như vậy, chúng ta hoàn toàn có khả năng
tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua những thách thức, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, thách thức về văn hoá: Đây cũng là một trong những thách
thức rất đáng kể. Thực tế cho thấy bất cứ các công ty xuyên quốc gia nào
muốn đầu tư vào nước khác, thì trước tiên họ phải tìm hiểu về văn hoá, phong
tục tập quán, ngôn ngữ, lịch sử địa lý, tín ngưỡng tôn giáo ... ở các quốc gia


21

mà họ đầu tư vào sản xuất. Quá trình toàn cầu hoá kéo theo sự lan tràn lối
sống văn hoá phương tây, là một thách thức lớn đối với nền văn hoá nước ta.
Cùng với toàn cầu hoá và sự hội nhập kinh tế thế giới, là toàn cầu hoá về văn
hoá, ngôn ngữ, lối sống và quan niệm giá trị, là đòn tấn công mạnh mẽ của
văn hoá phương tây đối với các dân tộc, các nước đang phát triển, chậm phát
triển. Sự rối loạn văn hoá tinh thần và sự rạn nứt quan niệm giá trị toàn cầu,
nổ ra cùng một lúc với hàng loạt các hiện tượng tội phạm xã hội, kết hợp với
sự tràn lan của các tà giáo và thế lực xã hội đen, là một thách thức đe doạ sự
ổn định an ninh, chính trị, xã hội ở nước ta hiện nay. Mặt khác, quá trình hội

nhập kinh tế thế giới, làm cho văn hoá dân tộc, văn hoá truyền thống bị xói
mòn, nghiêm trọng nhất là văn hoá chính trị bị xói mòn, ý thức hệ bị lủng
đoạn, điều đó sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực tế cho thấy, các nước phương tây, lấy toàn
cầu hoá làm công cụ, ra sức truyền bá những quan niệm về giá tri, văn hoá, tư
tưởng của họ, thực hiện chính sách “thực dân văn hoá”, can thiệp vào công
việc chính trị, ngoại giao, làm suy yếu ý chí dân tộc, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc, biến họ thành nước lệ thuộc. Theo cách đó, họ hy vọng sẽ giành
được thắng lợi triệt để, và lâu dài hơn, so với dùng sức mạnh quân sự. Du
nhập ý thức hệ tư sản, đã trở thành một trong những biện pháp cơ bản để một
số nước lớn phương tây, thực hiện diễn biến hoà bình đối với các nước khác,
thậm chí trở thành mối hiểm hoạ gây nên những biến động ở các nước. Trào
lưu toàn cầu hoá tạo cơ hội thuận lợi cho các nước phương tây sử dụng hệ
thống truyền thông hiện đại, nhằm thực hiện tuyên truyền đa nguyên về chính
trị, tư nhân hoá về kinh tế, phi chính trị hoá Quân đội, phân trị hoá lãnh thổ và
phương tây hoá lối sống. Đó là những thách thức về văn hoá mà chúng ta phải
nắm bắt cơ hội, nhận rõ những thách thức, để vượt qua thử thách, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


22

Thứ tư, thách thức về môi trường sinh thái: Đây là thách thức đối với
tất cả các quốc gia, các khu vực, và cả thế giới. Hiện nay thách thức này là
một trong những vấn đề toàn cầu bức bách nhất; nếu không có biện pháp hữu
hiệu của cộng đồng quốc tế, sẽ đe doạ đến mạng sống của con người, và sự
tồn tại của hành tinh chúng ta.
Thứ năm, thách thức về xã hội: Đây cũng là một thách thức hết sức
nghiêm trọng đối với tất cả các nước, cũng như nước ta hiện nay. Cùng với
toàn cầu hoá, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, như đại dịch HIV - AIDS,

nạn tham nhũng, nạn buôn lậu, nạn tà giáo, sự di dân bất hợp pháp, sự gia
tăng tội phạm có tổ chức, nạn khủng bố ...đó thực sự là những thách thức đối
với nền văn minh thế giới, cũng như là vấn đề xã hội còn nhấc nhối ở nước ta,
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực hiện nay.
Như vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới
đang đặt ra hàng loạt vấn đề hết sức khó khăn cho tất cả các nước đang phát
triển, cũng như nước ta hiện nay. Đó chính là những vấn đề toàn cầu mà nhân
loại đang và sẽ đối mặt. Nhận thức đầy đủ các vấn đề này, và tìm ra lối thoát,
vượt qua thử thách là một đòi hỏi cấp thiết của cách mạng nước ta hiện nay.
Vì vậy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, nêu cao tinh thần cách mạng tiến
công, vượt qua thử thách, thực hiện tốt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Triển vọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế
giới, khu vực và những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập hiện nay
2.1. Triển vọng của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới
và khu vực hiện nay.
Trong thời gian tới, dưới tác động sâu rộng của quá trình toàn cầu hoá
và sự chuyển đổi nhanh chống của cách mạng khoa học - công nghệ, hơn thế
nữa, do có được những kinh nghiệm trong xây dựng đất nước, nhất là sau hơn


23

20 năm đổi mới, Việt Nam có những thuận lợi nhất định trong việc phát huy
nội lực, và tiếp thu những nhân tố thời đại, có triển vọng để phát triển. Mặc
dù đi vào công nghiệp hoá muộn hơn, nhưng nhờ “lợi thế của người đi sau”,
Việt Nam có điều kiện để học hỏi, đúc rút kinh nghiệm từ những thành công,
thất bại của các nước đi trước, đặc biệt ta đã có thể hiểu được những yếu tố
phù hợp, và những yếu tố không phù hợp của xu thế toàn cầu hoá, để chọn
phương thức phát triển một cách hợp lý. Những thành tựu mới về khoa học,

kỹ thuật, những đòi hỏi mới của kinh tế tri thức, những cách thức quản ký
hiện đại, cũng như những bài học trong xử lý các quan hệ quốc tế phức tạp ...
chắc chắn sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho việc giải quyết những bài toán vĩ mô
của sự phát triển của đất nước.
Trên thực tế, do xu thế vận động tiến tới cân bằng quyền lực giữa các
nước lớn, và do thực tế tương quan lực lượng giữa các nước chưa đạt tới sự
cân bằng đó, nên Việt Nam, cũng như hầu hết các nước đang phát triển khác,
có thể sử dụng vũ khí “cân bằng lợi ích” một cách mềm dẻo để tạo thế và lực
cho mình, giữ vững chủ quyền quốc gia và phát triển kinh tế. Xu thế tự do hoá
mậu dịch, sự chuyển dịch các dòng đầu tư, dịch vụ, cùng sự tác động ngày
càng sâu sắc của mạng thông tin toàn cầu, đang tạo khả năng tiếp nhận các
thông tin mới, các tri thức khoa học và công nghệ mới, các nguồn vốn lớn, để
Việt Nam chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, tìm kiếm sự
phát triển.
Hiện nay, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã được nâng cao
nhiều so với những thập kỷ trước. Chúng ta đã tạo dựng được các mối quan
hệ về kinh tế, chính trị và xã hội, kể cả quan hệ an ninh với nhiều nước, nhất
là với các nước Đông Á và Đông Nam Á. Việt Nam đã chủ động tham gia hội
nhập khu vực và thế giới như AFTA, APEC, ARF, WTO. Ở khu vực Đông
Nam Á, mặc dù có sự khác biệt về hệ tư tưởng, song Việt Nam đã tạo dựng


24

được lòng tin, duy trì cục diện hoà bình, hợp tác và phát triển. Tiếng nói Việt
Nam trong Đông Nam Á cũng như trong các diễn đàn quốc tế đã có trọng
lượng hơn trước nhiều. Trong bối cảnh ASEAN mở rộng, tăng thêm uy tín,
tiếp tục được các nước lớn coi trọng, vị thế của Việt Nam tới đây sẽ càng
ngày càng chinh phục được các đối tác quốc tế. Các bên đối tác, mặc dù có
thể không tán thành định hướng phát triển của Việt Nam (thậm chí ngấm

ngầm và công khai thực hiện “diễn biến hoà bình” chống lại chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam như Hoa Kỳ), song tất cả đều buộc phải tôn trọng sự lựa
chọn của Việt Nam khi tiến hành các quan hệ song phương hoặc đa phương.
Từ Hoa kỳ đến các nước thân Hoa Kỳ, từ các nước EU đến Nhật Bản, từ nước
Nga hâu Xô viết đến các nước thuộc SNG, tất cả đều hoặc là ủng hộ sự lựa
chọn của Việt Nam, hoặc là tôn trọng và coi sự lựa chọn đó là công việc nội
bộ của Việt Nam. Đây là nhân tố mới thể hiện chiến lược, sách lược đúng
đắn, khôn khéo của Đảng ta đối với sự phát triển đất nước. Trong những năm
tới, đương nhiên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cũng vẫn không
ngừng công khích Việt Nam, dùng các chiêu bài nhân quyền và tôn giáo để
tìm cách can thiệp vào chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, trên
thực tế, những người có cảm tình với Việt Nam sẽ ngày một nhiều thêm, và
bản thân các chính phủ có tư tưởng chống đối Việt Nam sẽ buộc phải tôn
trọng Việt Nam hơn, đây là thuận lợi tạo triển vọng lớn cho chúng ta hội nhập
kinh tế thế giới trong thời gian tới.
Cần phải kể đến một lợi thế chính trị to lớn đối với sự phát triển đất
nước trong thời gian tới, là trải qua những năm tháng đấu tranh xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nền chính trị của chúng ta đã trở thành một thế lực có ý
nghĩa: nhân dân ta gắn bó với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa, rất nhạy bén
với biến động chính trị, thái độ vừa nguyên tắc vừa mềm dẻo trong quan hệ
với các nước lớn và nhỏ, với bạn và với các đối tác khác. Trong quan hệ với


25

Hoa Kỳ, Trung Quốc, ASEAN, Nga ... Việt Nam đã tạo dựng được vị thế
chiến lược có lợi cho sự phát triển; các bên đối tác, kể cả các nước lớn không
thể giản đơn xử lý các quan hệ một cách vụ lợi. Từ những cơ sở trên, chúng ta
có thể dự báo rằng, trong thời gian tới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh, tình trạng kém phát triển sẽ dần

được khắc phục. Đến hết thập kỷ thứ nhất của thế kỷ XXI, nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam sẽ phát triển tương đương với kinh tế thị trường khu vực;
các chế tài cơ bản của thị trường quốc tế lúc đó đều được thực hiện ở Việt
Nam. Đến đầu thập ky thứ hai, tổng thu nhập quốc nội (GDP) của Việt Nam
sẽ đạt khoảng 50 tỷ đô la Mỹ, tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ chiếm khoảng
50% và tỷ lệ người thu nhập dưới 1 đô la/ ngày lúc đó sẽ giảm xuống khoảng
45% cư dân.
Quan hệ quốc tế của nước ta thời gian tới cũng có nhiều triển vọng tốt
đẹp. Trong bối cảnh chiến lược mới ở khu vực, giữa Việt Nam và các nước
ASEAN ngày càng xuất hiện nhiều điểm tương đồng, lợi ích của Việt Nam
ngày càng có liên hệ chặt chẽ với lợi ích của ASEAN, do xu thế chung của sự
phát triển của khu vực đã kéo các nước xích lai gần nhau hơn. Trong khoảng
hai thập kỷ tới, quan hệ Việt Nam ASEAN chắc chắn sẽ ngày càng được tăng
cường, các mặt quan hệ như kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, và cả chính
trị nữa đều sẽ có bước phát triển. Hiện nay Việt Nam giữ vị trí ngày càng
quan trọng trong ASEAN, do đó làm tăng thêm các giá trị mới cho quan hệ
hợp tác. Các nước ASEAN đã thấy cần sự có mặt của Việt Nam trong hợp tác
kinh tế, trong chiến lược an ninh khu vực, và đặc biệt là trong cân bằng quan
hệ với Trung Quốc, Nga, Mỹ ...Vì vậy chúng ta cần tranh thủ khai thác những
điểm tương đồng, có chính sách để Việt Nam góp phần quan trọng của mình
cho một khu vực thịnh vượng, đồng thời vẫn giữ được độc lập, tự chủ của
mình trong khu vực.


×