Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI THAM GIA HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.92 KB, 68 trang )

BAN TỔNG HỢP

TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO KINH TẾ-XÃ HỘI QUỐC GIA

NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM KHI THAM GIA HỘI NHẬP


Chương I:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH
CỦA DOANH NGHIỆP

1. Tài chính và vai trò của tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp
với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao
gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước là mối quan hệ phát sinh khi doanh
nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà nước góp vốn vào doanh
nghiệp
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể
hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài
chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể
phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại, doanh
nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phiếu cho các nhà tài trợ. Doanh
nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm
thời chưa sử dụng.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế, doanh
nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hóa,
dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp


tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động, v.v… Điều
quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu
hàng hóa và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định
ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất
kinh doanh (SXKD), giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa
quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thể hiện thông
qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức (phân phối thu
nhập), chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí, v.v…
1.2. Vai trò của tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp
- Huy động và bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động SXKD
của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường nảy sinh các nhu cầu vốn
ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động SXKD thường xuyên của doanh nghiệp cũng
như cho đầu tư phát triển. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể hiện ở
chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ, tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp
huy động vốn từ bên trong và bên ngoài, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt
động của doanh nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy
2


sinh nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ
bên ngoài. Do vậy, vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng
hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn bảo
đảm cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và có hiệu quả, tăng cường quy mô
SXKD với chi phí huy động vốn ở mức thấp nhất.
- Tổ chức sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tiết kiệm và hiệu quả.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ
chức sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đánh

giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro
của các dự án đầu tư, từ đó góp phần lựa chọn dự án đầu tư tối ưu. Việc huy động
kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm bắt
được các cơ hội kinh doanh. Mặt khác, việc huy động tối đa số vốn hiện có vào
hoạt động kinh doanh có thể giảm bớt và tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn
gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được các khoản tiền
trả lãi vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ doanh nghiệp, cùng với việc sử
dụng các hình thức thưởng, phạt vật chất một cách hợp lý sẽ góp phần quan trọng
thúc đẩy người lao động gắn bó với doanh nghiệp, từ đó nâng cao năng suất lao
động, cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Giám sát, kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ các mặt hoạt động SXKD của
doanh nghiệp.
Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ, tình hình tài chính và thực hiện các chỉ
tiêu tài chính, lãnh đạo và các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá tổng hợp
và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp; phát hiện kịp thời những
tồn tại hay khó khăn vướng mắc trong SXKD, từ đó có thể đưa ra các quyết định để
điều chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh.
1.3. Một số căn cứ đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp
1.3.1. Vốn
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến
hành các hoạt động SXKD.
Nguồn vốn là toàn bộ số vốn của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn
khác nhau. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở
hữu và nợ. Mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy
theo tính chất của chúng. Thành phần và tỷ trọng từng nguồn vốn so với tổng
nguồn vốn tại một thời điểm gọi là cơ cấu nguồn vốn. Một cơ cấu nguồn vốn hợp lý
phản ánh sự kết hợp hài hòa giữa nợ phải trả với vốn chủ sở hữu trong điều kiện
nhất định.
Một trong những tiêu chí để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp là
nguồn vốn. Khi nguồn vốn của doanh nghiệp được huy động, phân phối và sử dụng

một cách có hiệu quả, thì tình hình tài chính của doanh nghiệp có căn cứ để được
đánh giá là tốt.
1.3.2. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
3


Tài sản của doanh nghiệp bao gồm: Tài sản lưu động (TSLĐ) và đầu tư ngắn
hạn, tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư dài hạn.
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: Là những tài sản thuộc quyền sở hữu và
sử dụng của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong
một chu kỳ kinh doanh hoặc trong thời gian một năm. Tài sản lưu động tồn tại dưới
hình thái tiền (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng chỉ có giá trị như tiền, vàng
bạc đá quý), giá trị vật tư hàng hoá, các khoản phải thu, các khoản đầu tư tài chính
ngắn hạn và tất cả những tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt trong thời gian
một năm.
Những tư liệu lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các
tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động. Trong điều kiện
nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, để hình thành TSLĐ, các doanh nghiệp phải bỏ ra
một số vốn đầu tư ban đầu nhất định. Vì vậy, cũng có thể nói vốn lưu động của
doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm các TSLĐ của doanh
nghiệp.
Một chức năng trọng yếu của tài sản lưu động là nhằm tạo cho doanh nghiệp
khả năng thanh khoản cần thiết để duy trì khả năng thanh toán trong cả những giai
đoạn suy thoái kinh tế. Mức độ và thành phần của tài sản lưu động chịu sự chi phối
của những tình trạng khó khăn có thể xảy ra và mức độ khắc nghiệt do môi trường
kinh doanh đem lại. Vì thế, tài sản lưu động và vốn lưu động là căn cứ quan trọng
để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp. Kết cấu vốn lưu động phản ánh
thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số vốn lưu động
của doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng
không giống nhau. Trong các doanh nghiệp sản xuất, tỷ trọng tài sản lưu động dạng

nguyên vật liệu, nhiên liệu dự trữ thường có tỷ trọng lớn. Song trong các doanh
nghiệp thương mại, tài sản lưu động tồn kho chủ yếu là sản phẩm hàng hóa chờ tiêu
thụ. Trong doanh nghiệp, tồn kho dự trữ thường chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng giá
trị tài sản của doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là nhờ có dự trữ tồn kho đúng
mức, hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp không bị gián đoạn sản xuất, không bị thiếu
sản phẩm hàng hóa để bán, đồng thời lại sử dụng tiết kiệm và hợp lý vốn lưu động.
Việc phân tích kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau
sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà
mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp
quản lý vốn lưu động có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp nói riêng và nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp nói chung.
1.3.3. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Là toàn bộ giá trị còn lại của tài sản cố
định, giá trị chi phí xây dựng cơ bản dở dang, các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn
và các khoản đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp.
Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó so với tổng
nguyên giá các loại TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Mỗi loại
hình doanh nghiệp khác nhau có một kết cấu TSCĐ khác nhau. Kết cấu TSCĐ giữa
4


các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau hoặc thậm chí trong cùng
một ngành sản xuất cũng không hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt hoặc biến động
của kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp trong các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, khả năng thu hút vốn đầu tư, khả năng tiêu
thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất…
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, tỷ trọng của TSCĐ thường lớn. Muốn kinh
doanh có hiệu quả, doanh nghiệp nói chung và loại hình doanh nghiệp sản xuất nói
riêng cần phải đặc biệt quan tâm đến việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào trong sản xuất nhằm giảm chi phí sản xuất, từ đó giảm được giá bán sản

phẩm đồng thời cũng phải nâng cao được chất lượng sản phẩm. Đối với các doanh
nghiệp thương mại, tỷ trọng TSCĐ chiếm ít hơn so với tỷ trọng TSLĐ. Loại hình
doanh nghiệp này thường đòi hỏi phải có số vốn lưu động lớn, vòng vốn được quay
nhanh… mà họ lại không tập trung vào vốn cố định, TSCĐ. Như vậy, mỗi loại hình
doanh nghiệp khác nhau sẽ có một kết cấu TSCĐ nhất định để phù hợp với từng
doanh nghiệp và thông qua đó phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật,
năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài cũng như khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Đầu tư dài hạn của doanh nghiệp là quá trình sử dụng vốn tiền tệ mua sắm,
xây dựng, hình thành các tài sản cố định hữu hình và vô hình, hình thành lượng vốn
lưu động thường xuyên cần thiết phù hợp với một quy mô kinh doanh nhất định. Ở
đây cũng cần thấy rằng đầu tư dài hạn của một doanh nghiệp không chỉ đầu tư về
TSCĐ mà nó còn bao hàm cả việc đầu tư cho nhu cầu tương đối ổn định về vốn lưu
động cần thiết, đầu tư có tính chất dài hạn vào các hoạt động khác để thu lợi nhuận
như đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu của các chủ thể khác. Đầu tư dài hạn cũng chỉ
rõ số vốn tiền tệ mà doanh nghiệp sử dụng có tính chất dài hạn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.4. Một số tỷ số tài chính
Thông qua phân tích các tỷ số tài chính, các doanh nghiệp có thể đánh giá khá
chính xác tình hình tài chính của mình tại thời điểm hiện tại. Các tỷ số tài chính
được chia thành một số nhóm chủ yếu như sau:
1.3.4.1. Các tỷ số thanh khoản
Các tỷ số thanh khoản đo lường khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính
ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Tỷ số luân chuyển tài sản lưu động (The current Ratio - Rc)
Tỷ số này được xác định theo công thức:
Tài sản lưu động
c
R=
Các khoản nợ ngắn hạn

Các khoản nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian
ngắn (thường là 1 năm).
Tỷ số luân chuyển TSLĐ cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể
chuyển đổi thành tiền để bảo đảm thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Do đó, nó đo
lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi giá trị của tỷ số này giảm, chứng tỏ
5


khả năng trả nợ của doanh nghiệp đã giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những
khó khăn tài chính tiềm tàng. Khi tỷ số luân chuyển TSLĐ có giá trị cao cho thấy
doanh nghiệp có khả năng thanh khoản cao. Tuy nhiên, khi tỷ số này có giá trị quá
cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào TSLĐ, có thể làm giảm
lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trong nhiều trường hợp tỷ số này phản ánh không chính xác khả năng thanh
khoản. Bởi nếu hàng hoá tồn kho là những loại hàng khó bán thì doanh nghiệp rất
khó biến chúng thành tiền để trả nợ. Bởi vậy cần phải quan tâm đến tỷ số thanh
toán nhanh.
- Tỷ số thanh toán nhanh: (The quick Ratio – Rq)
Tỷ số này cho biết khả năng thanh khoản thực sự của doanh nghiệp và được
tính toán dựa trên các TSLĐ có thể chuyển đổi nhanh thành tiền để đáp ứng những
yêu cầu thanh toán cần thiết.
Tỷ số thanh toán nhanh được xác định theo công thức:
Tài sản lưu động – Hàng hoá tồn kho
q
R =
Các khoản nợ ngắn hạn
Độ lớn của tỷ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh
toán của món nợ phải thu, phải trả trong kỳ. Nhìn chung, nếu tỷ số này quá nhỏ thì
doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ vì vào lúc cần doanh
nghiệp có thể buộc phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản với giá

thấp để trả nợ.
1.3.4.2. Các tỷ số hoạt động
Các tỷ số này đo lường mức độ hoạt động liên quan đến mức tài sản của
doanh nghiệp, chúng gồm 4 tỷ số:
- Tỷ số vòng quay hàng tồn kho (Inventory Ratio – RI)
Tỷ số này đo lường mức doanh số bán liên quan đến mức tồn kho của các loại
hàng hoá thành phẩm, nguyên vật liệu.
Tỷ số vòng quay hàng tồn kho được tính theo công thức:
Giá vốn hàng bán
I
R = Hàng hoá tồn kho bình quân
Nếu giá trị của tỷ số này thấp chứng tỏ rằng các loại hàng hoá tồn kho quá cao
so với doanh số bán. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được
đánh giá càng tốt, bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho nhưng vẫn đạt
được doanh số cao. Từ đó có cơ sở để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp
là tốt hay xấu.
- Kỳ thu tiền bình quân (Average Collection period – ACP)
Kỳ thu tiền bình quân là số ngày bình quân mà 1 đơn vị tiền tệ hàng hoá bán
ra được thu hồi. Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau:
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân một ngày
Số ngày trong kỳ thu tiền bình quân thấp, chứng tỏ doanh nghiệp không bị
đọng vốn trong khâu thanh toán, không gặp phải những khoản nợ “khó đòi”. Ngược
6


lại, nếu tỷ số này cao, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân tích chính sách bán
hàng để tìm ra nguyên nhân tồn đọng nợ. Trong nhiều trường hợp, do công ty muốn
chiếm lĩnh thị phần thông qua bán hàng trả chậm, hay tài trợ cho các chi nhánh, đại

lý nên dẫn tới có số ngày thu tiền bình quân cao. Như vậy kỳ thu tiền bình quân cao
hay thấp chưa thể có kết luận chắc chắn về tình hình tài chính mà còn phải xem xét
lại các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như mục tiêu mở rộng thị trường,
chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Mặt khác, dù chỉ tiêu này có thể được đánh
giá là khả quan, nhưng doanh nghiệp cũng cần phải phân tích kỹ hơn vì tầm quan
trọng của nó và kỹ thuật tính toán đã che giấu đi các khuyết tật trong việc quản trị
các khoản phải thu.
- Hiệu quả sử dụng tài sản cố định (The fixed assets utilization Ratio – RF)
Tỷ số này đo lường mức doanh thu thuần trên TSCĐ của doanh nghiệp. Công
thức tính tỷ số này như sau:
Doanh thu thuần
Hiệu quả sử dụng TSCĐ =
Giá trị TSCĐ
Tỷ số này cao phản ánh tình hình hoạt động tốt của công ty đã tạo ra mức
doanh thu thuần cao so với TSCĐ. Mặt khác, tỷ số này còn phản ánh khả năng sử
dụng hữu hiệu các loại tài sản .
- Tỷ số hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản (The total assets utilization Ratio –
RA)
Tỷ số này cho thấy hiệu quả sử dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh
nghiệp, hoặc thể hiện một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp đã đem lại bao nhiêu
đồng doanh thu. Công thức tính tỷ số này như sau:
Doanh thu thuần
Hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản =
Tổng tài sản có
Tỷ số này cao phản ánh tình hình sử dụng tổng tài sản của doanh nghiệp hợp
lý và có hiệu quả. Tỷ số này thấp chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng các trang thiết bị
chưa có hiệu quả và đây là tín hiệu để các doanh nghiệp tự đánh giá và đưa ra các
biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng này, từ đó mới có thể kinh doanh tốt
hơn và nâng cao được năng lực tài chính của mình.
1.3.4.3. Các tỷ số về đòn cân nợ

Đòn cân nợ làm gia tăng tiềm năng tạo ra lợi nhuận và đồng thời cũng làm
tăng rủi ro cho chủ sở hữu. Rủi ro của các chủ nợ cũng gia tăng cùng đòn cân nợ,
bởi khi số nợ càng nhiều thì khả năng vỡ nợ của doanh nghiệp càng cao, do đó
nguy cơ không thu hồi được nợ của các chủ nợ càng tăng. Nhóm các tỷ số về đòn
cân nợ gồm có ba tỷ số:
- Tỷ số nợ
Tỷ số nợ là tỷ số giữa tổng số nợ trên tổng tài sản của doanh nghiệp
Tổng số nợ
D
R = Tổng tài sản
Tổng số nợ bao gồm toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn tại thời điểm
lập báo cáo tài chính. Tỷ số này nếu quá cao chứng tỏ quy mô vốn tự có của doanh
7


nghiệp thấp trong khi số nợ quá cao, tức là chi phí lãi suất trả cho các khoản vay
cũng lớn. Nếu doanh nghiệp không tính toán đầy đủ về khả năng thanh toán lãi vay
cũng như khả năng thanh toán nợ khi đáo hạn khoản vay (nhất là phải xem xét các
kỳ hạn vay hợp lý, tránh phải trả các khoản vay vào cùng một thời điểm sẽ ảnh
hưởng trầm trọng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, thậm chí là phá sản).
Ngược lại, nếu tỷ số này quá thấp lại thể hiện doanh nghiệp chỉ hoạt động SXKD
chủ yếu dựa trên vốn tự có, mà chưa phát huy được nguồn lực từ bên ngoài.
- Tỷ số nợ/ vốn cổ phần (RD/E)
Tỷ số nợ/ vốn cổ phần là tỷ số giữa tổng số nợ trên tổng vốn riêng của doanh
nghiệp.
Tổng số nợ
D/E
R = Tổng vốn cổ phần
Tổng vốn cổ phần bao gồm tổng giá trị của tất cả các khoản mục thuộc quyền
sở hữu của các chủ sở hữu. Tỷ số này phản ánh cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp.

- Khả năng thanh toán lãi vay (RT)
Chi phí trả tiền lãi vay là một khoản chi tương đối ổn định và có thể tính toán
trước. Khoản tiền mà doanh nghiệp dùng để chi trả lãi vay là thu nhập trước thuế và
trả lãi. Bởi vậy, tỷ lệ này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng thu nhập trước
thuế của doanh nghiệp.
Công thức tính tỷ số này là:
EBIT
T
R =
Chi phí trả lãi
Thu nhập trước thuế và trả lãi (EBIT) phản ánh số tiền mà doanh nghiệp có
thể sử dụng để trả lãi vay. Nếu khoản tiền này quá nhỏ hay có giá trị âm thì doanh
nghiệp khó có thể trả được lãi. Mặt khác, tỷ số này cũng thể hiện khả năng sinh lời
trên các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.3.4.4. Các tỷ số lợi nhuận
- Tỷ số lợi nhuận thuần trên doanh thu (RP)
Tỷ số này phản ánh cứ một đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu phần trăm
lợi nhuận. Công thức tính tỷ số này được thiết lập như sau:
Lợi nhuận thuần x 100
P
R =
Doanh thu thuần
Lợi nhuận thuần là khoản lời ròng sau khi đã trừ hết các chi phí, nộp thuế lợi
tức.
- Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu: Tỷ số lợi nhuận trên vốn cổ phần thường
(ROE). Tỷ số này đo lường mức lợi nhuận trên vốn đầu tư của các chủ sở hữu.
Công thức này được thiết lập như sau:
Lợi nhuận thuần
ROE =
Vốn cổ phần thường

Các nhà đầu tư rất quan tâm đến tỷ số này của doanh nghiệp bởi đây là khả
năng thu nhập mà họ có thể nhận được nếu họ quyết định đặt vốn vào công ty.
- Suất sinh lời của tài sản: ROA.
8


Tỷ số này được tính theo công thức:
Lợi nhuận thuần
ROA =
Tổng tài sản
Tỷ số này mang ý nghĩa: một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
ròng. Hệ số càng cao càng thể hiện sự sắp xếp, phân bổ và quản lý tài sản càng hợp
lý và hiệu quả.
Các tỷ số lợi nhuận phản ánh khả năng sinh lời của các họat động đầu tư của
doanh nghiệp hay hiệu quả SXKD của doanh nghiệp. Các tỷ số lợi nhuận phản ánh
năng lực tài chính của doanh nghiệp trên phương diện hiệu quả sử dụng vốn. Các tỷ
số này cao hay thấp chứng tỏ năng lực quản lý và sử dụng các nguồn tài chính của
doanh nghiệp cao hay thấp. Doanh nghiệp muốn vay vốn từ ngân hàng hay các tổ
chức tín dụng khác, cũng như khi phát hành cổ phiểu, trái phiếu trên thị trường
chứng khoán nhằm huy động vốn dài hạn phục vụ SXKD, để thu hút được các nhà
đầu tư đầu tư vào doanh nghiệp, thì ngân hàng và các nhà đầu tư phải thấy được
khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp, bảo đảm khả năng thu lãi suất và thu
hồi vốn cho vay (đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng), khả năng thu lợi tức
và thu hồi vốn đầu tư (đối với các nhà đầu tư chứng khoán). Các tỷ số về lợi nhuận
là một trong những cơ sở để các ngân hàng và các nhà đầu tư xem xét đầu tư vốn
vào doanh nghiệp.
1.3.4.5. Các tỷ số giá trị của doanh nghiệp
- Tỷ số giá bán/ thu nhập của cổ phần (Rp/E)
Tỷ số Rp/E được tính toán như sau:
Giá bán cổ phần ở thời điểm tính toán

D
R =
EPS năm gần nhất
- Tỷ số giá trị thị trường/ giá trị kế toán (RM/B)
Tỷ số RM/B được tính toán như sau:
Giá bán cổ phần trên thị trường
M/B
R =
Giá trị kế toán của cổ phần
Giá trị của các tỷ số này càng cao thể hiện uy tín và danh tiếng của công ty
trên thị trường càng cao. Nhờ đó, khả năng tiếp cận, thu hút vốn từ các nguồn huy
động vốn đối với doanh nghiệp càng được mở rộng.
2. Phân loại nguồn vốn và các phương thức huy động vốn
2.1. Phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp
Việc phân loại các nguồn vốn của doanh nghiệp được dựa trên nhiều góc độ.
Xét trên góc độ quyền sở hữu thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình
thành từ hai nguồn: nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả.
2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp (doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) thì chủ sở hữu là Nhà nước, doanh nghiệp cổ phần thì
chủ sở hữu là người góp vốn…). Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì vốn chủ
sở hữu do các thành viên đóng góp và hình thành vốn điều lệ. Khi doanh nghiệp
9


đang hoạt động thì ngoài vốn điều lệ còn có một số nguồn khác cùng thuộc nguồn
vốn chủ sở hữu như: Lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài
chính…
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp gồm 3
bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, và tăng vốn bằng phát

hành cổ phiếu mới.
2.1.1.1.Vốn góp ban đầu
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi được thành lập đều phải có một số vốn ban
đầu nhất định do các chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp thì phải xem xét đến hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở
hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
2.1.1.2. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy
nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì
doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng nguồn vốn. Nguồn vốn tích
lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở
rộng SXKD của doanh nghiệp.
2.1.1.3. Phát hành cổ phiếu
Cổ phiếu là chứng từ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Phát hành cổ phiếu
được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp.
Để huy động vốn, công ty sẽ bán cổ phiếu cho cổ đông tùy theo số tiền cần có.
Nếu định bán rộng rãi ra cho dân chúng, thì công ty cần phải đăng ký cổ phiếu với
Sở giao dịch chứng khoán, được gọi là niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng
khoán. Lúc đó, cổ phiếu có thêm một tên mới là chứng khoán. Nếu chỉ bán cho vài
người thì không phải đăng ký cổ phiếu. Tùy theo tình hình tài chính của công ty,
nếu làm ăn khấm khá, công ty sẽ mua lại số cổ phiếu đó để cất giữ.
2.1.2. Các khoản nợ phải trả
Như đã nói ở trên, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận: Vốn
chủ sở hữu và nợ. Để bổ sung vốn cho quá trình SXKD, doanh nghiệp có thể sử
dụng nợ từ các nguồn: Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua
phát hành trái phiếu.
2.1.2.1. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ

đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với
các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung
ứng các nguồn vốn. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay vốn
ngân hàng để bảo đảm nguồn tài chính cho các hoạt động SXKD, đặc biệt là bảo
đảm có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
10


Không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà
không vay vốn ngân hàng hoặc sử dụng tín dụng thương mại.
Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể phân loại theo thời hạn vay, bao
gồm: Vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên, có nơi tính từ 5 năm trở lên), vay
trung hạn (từ 1 năm đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan
niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước và có
thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại.
Tùy theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại cho
vay thành các loại như: Cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu
động, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có thể phân chia khác như cho vay theo
ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng cũng có một số hạn
chế nhất định. Đó là những hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng
và chi phí sử dụng vốn (lãi suất).
* Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng cần đáp
ứng được những yêu cầu bảo đảm an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp
phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin mà ngân hàng yêu cầu. Trước
tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan
đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch SXKD của doanh nghiệp vay vốn.
* Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, các ngân
hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến

nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều
trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được những điều kiện vay, kể cả
những thủ tục pháp lý về giấy tờ…, do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này
khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
* Sự kiểm soát của ngân hàng: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì
doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình
sử dụng vốn vay. Nhìn chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh
nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp, điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có
cảm giác bị kiểm soát.
* Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất
vay vốn ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời
kỳ. Nếu lãi suất vay vốn quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng
vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại, còn
gọi là tín dụng của người cung cấp. Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ
SXKD giữa các doanh nghiệp, việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở
doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kiện thành
phẩm của doanh nghiệp thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp
thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định
thì cả hai đều có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thương mại.
11


Để bảo đảm người mua chịu trả nợ đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người
bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận
quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi
tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại”
hay “thương phiếu”.
Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với
các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp,

nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20%
nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
2.1.2.2. Phát hành trái phiếu công ty
Trái phiếu là một loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm vốn
gốc và lãi) của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Trái
phiếu là tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu công ty. Trái phiếu còn được gọi là trái khoán. Việc lựa
chọn phát hành loại trái phiếu nào là rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả
lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trái phiếu
được phát hành phải phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình
trên thị trường tài chính.
a. Trái phiếu có lãi suất cố định
Trái phiếu có lãi suất cố định là loại trái phiếu phổ biến nhất trong các loại trái
phiếu doanh nghiệp.
Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, cần phải tính đến mức độ hấp
dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào một số yếu tố như:
- Lãi suất của trái phiếu: Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong tương
quan so sánh với thị trường lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là sự cạnh tranh
của các công ty khác và trái phiếu Chính phủ. Một ràng buộc khác là chi phí lãi vay
mà công ty phải trả cho các trái chủ. Nếu đưa thêm các yếu tố khuyến khích vào
trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất.
- Kỳ hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố rất quan trọng không những đối với
công ty phát hành mà đối với cả nhà đầu tư. Khi phát hành, doanh nghiệp phải căn
cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý.
- Uy tín doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút
được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh
nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và
vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy
động vốn.
Trong việc phát hành trái phiếu, cũng cần lưu ý đến mệnh giá vì nó có thể liên

quan đến sức mua của dân chúng. Đặc biệt ở Việt Nam khi phát hành trái phiếu,
doanh nghiệp cần xác định một mức mệnh giá vừa phải để nhiều người có thể mua
được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường.
b. Trái phiếu có lãi suất thay đổi
12


Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực chất loại lãi suất này phụ thuộc vào
một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Chẳng hạn, lãi suất LIBOR (London
Interbank Offered Rate) hoặc lãi suất cơ bản (Prime Rate).
Trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định,
doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động
của lạm phát kéo theo sự dao động của lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn
được hưởng một lãi suất thỏa đáng khi so sánh tình hình thị trường. Vì vậy, một số
người ưu thích trái phiểu thả nổi. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một số nhược
điểm như:
- Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều
này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính.
- Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải
thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
c. Trái phiếu có thể thu hồi
Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi,
tức là những doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như
vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết.
Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại
trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu không
bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng.
Loại trái phiếu có thể thu hồi có những đặc điểm:
- Có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần
thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu, tức là giảm số vốn vay.

- Doanh nghiệp có thể thay nguồn vốn tài chính do phát hành trái phiếu loại
này bằng một nguồn tài chính khác thông qua việc mua lại các trái phiếu đó.
d. Chứng khoán có thể chuyển đổi
Các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty Mỹ, thường phát hành những chứng
khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi
và lựa chọn cho phép các bên (doanh nghiệp, nhà đầu tư) có thể lựa chọn cách thức
đầu tư có lợi và thích hợp.
Một số hình thức chuyển đổi:
- Giấy bảo đảm: Người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ
phiếu thường, được quy định trước với giá cả và thời gian xác định.
- Trái phiếu chuyển đổi: Là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành
một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì
người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
2.2. Các phương thức huy động vốn cho cho doanh nghiệp
2.2.1. Phương thức huy động nguồn vốn chủ sở hữu (huy động vốn từ nội tại
doanh nghiệp)
2.2.1.1. Tăng vốn góp
Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà có những hình thức khai thác làm
tăng nguồn vốn góp ban đầu. Ví dụ như DNNN thì do chủ sở hữu là Nhà nước nên
13


việc tăng vốn góp ban đầu sẽ phụ thuộc vào cơ chế đầu tư của Nhà nước. Hiện nay,
so với yêu cầu phát triển chung và nhất là để đáp ứng các yêu cầu mới trong quá
trình hội nhập thì tốc độ tăng trưởng của các DNNN còn chậm, hiệu quả sử dụng
vốn và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp, chưa tương xứng với tiềm lực và
lợi thế sẵn có.
Một trong những hình thức huy động nguồn vốn góp ban đầu trong các
DNNN là thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp (cổ phần hóa, giao bán
khoán kinh doanh, sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp).

2.2.1.2. Tăng nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia – nguồn vốn nội bộ là một phương thức
tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh
nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc bên ngoài.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại có thể thực hiện được nếu như doanh
nghiệp đã, đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Việc sử dụng
nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại cũng khác nhau ở từng loại hình doanh
nghiệp. Đối với các DNNN thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng
sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích
tái đầu tư của Nhà nước. Đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên
quan đến một số yếu tố nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm
cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông
không nhận được tiền cổ tức nhưng bù lại họ lại có quyền sở hữu số vốn cổ phần
tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với
việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ
cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác lại làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời
kỳ ngắn hạn do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn.
2.2.2. Các phương thức huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp
Ngoài việc tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể huy động
thêm nhiều kênh huy động vốn từ thị trường tài chính.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán các loại tích sản tài
chính hay các công cụ vốn hoặc vốn. Đối với doanh nghiệp, thị trường tài chính là
nơi mà doanh nghiệp có thể huy động nguồn ngân quỹ mới hay đầu tư những khoản
tài chính nhàn rỗi tạm thời và là nơi xác lập giá trị công ty.
Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Để huy
động được vốn từ các thị trường này, doanh nghiệp cần thông qua các trung gian tài
chính.
2.2.2.1. Phương thức huy động từ các trung gian tài chính
Trung gian tài chính đảm nhiệm chức năng trung chuyển tư bản giữa các chủ
thể tiết kiệm và những người sử dụng. Các trung gian tài chính không chỉ phục vụ

như những người hỗ trợ giữa các chủ thể tiết kiệm và những người sử dụng tư bản
mà còn tập trung những khoản tiết kiệm của nhiều người, nhiều doanh nghiệp và
nhiều tổ chức trong nền kinh tế, tạo thành những nguồn tài chính có quy mô lớn.
Đây là một trong những nguồn huy động vốn cơ bản của doanh nghiệp.
14


Các trung gian tài chính có thể được phân chia thành một số loại như sau:
* Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là loại định chế tài chính lớn
nhất trong các trung gian tài chính. Các ngân hàng thương mại là nơi nhận tiền gửi
thông qua việc mở các tài khoản tiết kiệm và tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, thực
hiện các nghiệp vụ tài trợ, bảo lãnh, thanh toán phục vụ các doanh nghiệp và cá
nhân. Ngân hàng sử dụng phần lớn lượng tiền huy động được để đầu tư vào các loại
chứng khoán có tính thanh khoản cao như công trái quốc gia, trái phiếu kho bạc,
trái phiếu công ty,… Duy trì một lượng tiền mặt ở mức đủ để bảo đảm thanh
khoản, thực hiện các giao dịch cho các doanh nghiệp và cá nhân vay.
Có một thực tế là để huy động vốn từ việc vay ngân hàng, doanh nghiệp cần
phải có tài sản hoặc các loại giấy tờ có giá trị khác để thế chấp. Điều này sẽ gây
khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V).
Thêm vào đó, việc huy động vốn từ ngân hàng cũng không linh hoạt bằng một số
định chế tài chính khác như các công ty đầu tư mạo hiểm, hoặc các công ty cho
thuê tài chính.
* Hiệp hội tiết kiệm và cho vay: Là loại trung gian tài chính chuyên thu hút tiền
gửi tiết kiệm của các cá nhân để cho vay dài hạn nhằm tài trợ mua nhà ở, bất động
sản hoặc các loại hàng hóa tiêu dùng lâu bền. Tuy nhiên, các hoạt động tài trợ của
hiệp hội này thường được cho vay dưới hình thức cầm cố.
Chính hình thức cho vay này sẽ gây ra một số khó khăn cho các doanh nghiệp,
đặc biệt là các DNN&V, vì các doanh nghiệp này thường không có nhiều tài sản để
thế chấp.
* Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ: Là loại trung gian tài chính có rất nhiều đặc

điểm tương đồng với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay. Ngân hàng thu hút tiền gửi
của công chúng và chủ yếu cho các doanh nghiệp, các cá nhân vay để mua nhà và
các loại bất động sản.
* Hiệp hội tín dụng: Là một tổ chức hợp tác xã tín dụng, tổ chức liên kết các
thành viên là những người trong cùng tổ chức nghề nghiệp hay tín ngưỡng. Nguồn
ngân quỹ chủ yếu là tiền gửi của các thành viên, nguồn ngân quỹ này được sử dụng
để cho vay trong nội bộ nhằm tài trợ mua xe, nhà ở và nhiều loại tài sản khác. Do
đặc điểm của hiệp hội là chỉ cho vay trong nội bộ nên các doanh nghiệp ngoài hiệp
hội sẽ khó có cơ hội tiếp cận với nguồn vay này.
* Quỹ trợ cấp và hưu bổng: Được thành lập để tạo nguồn thu nhập cho những
người về hưu và không còn khả năng làm việc. Các quỹ này nhận tiền đóng góp
của công nhân, của chủ doanh nghiệp và sử dụng nguồn ngân quỹ này đầu tư vào
các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc hay trái phiếu đô thị, đầu tư vào cổ
phần, trái phiếu của các doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp có thể huy động vốn
từ quỹ này bằng việc phát hành trái phiếu.
* Công ty tài chính: Công ty tài chính phát hành các loại trái phiếu, cổ phiếu và
vay tiền của các ngân hàng thương mại để tài trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân
vay. Những khoản cho vay của các công ty tài chính thường chủ yếu dành cho
những khách hàng có mức độ rủi ro tín dụng cao, mà các ngân hàng thương mại
15


thường từ chối cho vay. Để bù đắp cho mức độ rủi ro cao, lãi suất tài trợ của công
ty tài chính thường cao hơn các định chế khác.
Ưu điểm của công ty tài chính là các doanh nghiệp có phương án kinh doanh
với mức độ rủi ro cao vẫn có khả năng tiếp cận với nguồn vốn này trong khi các
ngân hàng thương mại đã từ chối cho vay. Chính ở đặc điểm này đã khiến cho mức
lãi suất khi huy động từ công ty tài chính cao hơn các định chế tài chính khác.
* Quỹ hỗ tương: Là loại định chế tài chính chuyên tập hợp nguồn tài chính của
những người tiết kiệm nhỏ và đầu tư vào các loại chứng khoán tùy theo mục tiêu và

chính sách do quỹ đặt ra.
Một số quỹ có chính sách đầu tư vào những loại cổ phần của những công ty có
mức tăng trưởng cao, song mức chia lợi tức hàng năm thấp nhưng đổi lại các chủ
đầu tư hy vọng giá trị cổ phần của họ sẽ tăng nhanh chóng. Ngược lại, một số quỹ
đầu tư vào những cổ phần được chia lợi tức cao, nhưng có mức lợi nhuận tiềm năng
từ giá cổ phần tăng lên thấp. Nhiều quỹ đầu tư vào những cổ phần nước ngoài và
nhiều quỹ phân tán danh mục đầu tư của họ vào các loại trái phiếu công ty, cổ phần
công ty và công trái quốc gia.
Một đặc điểm của các quỹ hỗ tương là các quỹ này thường nắm giữ một phần
giá trị của danh mục đầu tư dưới dạng tiền mặt. Có hai lý do cho sự tồn tại tiền mặt
ở các quỹ này: Thứ nhất, quỹ luôn cần tiền mặt để bảo đảm khả năng thanh toán
cho các chứng khoán do những người chủ quỹ bán lại cho quỹ và thứ hai, là tiền
thu được từ hoạt động kinh doanh chứng khoán của quỹ có thể chưa được đầu tư
kịp thời. Đây cũng là một trong những lợi thế của các quỹ này khi các doanh
nghiệp quyết định vay vốn từ loại hình này.
* Công ty bảo hiểm: Có thể chia các công ty bảo hiểm thành hai loại: Bảo hiểm
nhân thọ và bảo hiểm trách nhiệm và tài sản.
- Các công ty bảo hiểm nhân thọ thu phí bảo hiểm hàng năm của những người
được bảo hiểm và đầu tư vào những khoản tiền này vào các loại trái phiếu, cổ phiếu
công ty, cho vay thế chấp tài sản hay tài sản hay tài trợ tín dụng tiêu dùng và thực
hiện nhiều nhiệm vụ tài chính khác.
- Các công ty bảo hiểm trách nhiệm và tài sản thu phí bảo hiểm của những
người được bảo hiểm và những chủ sở hữu các loại tài sản được bảo hiểm. Một
phần phí bảo hiểm được công ty đầu tư vào các loại chứng khoán công ty và trái
phiếu do Chính phủ phát hành.
Một khó khăn của doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn này là cũng cần phải
có tài sản hoặc các giấy tờ có giá trị để thế chấp.
* Công ty thuê mua: Là loại định chế tài chính chuyên huy động các nguồn
ngân quỹ trung – dài hạn từ công chúng đầu tư, từ các chủ thể tiết kiệm khác và từ
các ngân hàng để tài trợ cho các hợp đồng thuê mua máy móc thiết bị của các

doanh nghiệp.
Nguyên nhân chính thúc đẩy doanh nghiệp tiếp cận với hoạt động cho thuê tài
chính là do nó có tính chất an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên giao dịch.
Thêm vào đó, việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự
16


bảo đảm tài sản có trước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp
tín dụng mới, giải tỏa được áp lực về tài sản bảo đảm nếu phải vay ở ngân hàng,
hoặc các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản để vay vốn
ngân hàng.
2.2.2.2. Phương thức huy động vốn từ thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là thị trường sử dụng các thông tin dữ liệu có liên
quan đến mức sinh lời tiềm năng và coi đó như một chuẩn mực đầu tư, là cơ chế
chuyên giao dịch các loại chứng khoán.
Trên thị trường chứng khoán, để huy động vốn doanh nghiệp có thể phát hành
trái phiếu và cổ phiếu.
a. Phát hành trái phiếu
Trái phiếu của các doanh nghiệp khác nhau có những đặc điểm khác nhau và
những đặc điểm này chi phối giá trị của trái phiếu.
Ở Việt Nam, ngày 19/5/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2006/NĐCP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Nghị định này ra đời đã mở ra một kênh
mới để huy động vốn cho doanh nghiệp. Nghị định này có ưu điểm là tất cả các
doanh nghiệp chỉ cần có thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm kể từ ngày doanh
nghiệp chính thức đi vào hoạt động, có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm
phát hành được kiểm toán và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi đều
có quyền phát hành trái phiếu. Chính vì vậy, việc ban hành Nghị định đã khuyến
khích các doanh nghiệp trực tiếp tham gia huy động vốn trên thị trường để phục vụ
mục tiêu đầu tư phát triển của doanh nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mô vốn tự có.
Nghị định này cũng quy định, riêng đối với các trái phiếu bổ sung vốn tự có
do các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước và trái phiếu của các DNNN,

phương án phát hành phải được Bộ Tài chính chấp nhận, còn lại chỉ cần các tổ chức
và cá nhân có thẩm quyền thông qua và công bố công khai cho các nhà đầu tư biết.
Doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay, tự trả và tự chịu
trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay. Số tiền thu được từ phát hành trái phiếu
được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư; cơ cấu lại các khoản vay trung và dài
hạn.
Để tăng sức hấp dẫn của đợt phát hành hoặc để giảm bớt gánh nặng trả nợ
hàng năm của doanh nghiệp phát hành, doanh nghiệp phát hành cũng có thể ấn định
mức lãi suất cuống phiếu cao hơn hoặc thấp hơn mức lãi suất mà thị trường đòi hỏi.
b. Phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu là một phương thức huy động vốn dài hạn của doanh
nghiệp.
Để phát hành cổ phiếu mới, doanh nghiệp cần phải tính đến các chí phí như:
Chi phí in ấn, chi phí quảng cáo, hoa hồng… Các chi phí này nhiều khi chiếm tới
10% tổng giá trị phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp.
Khi quyết định phát hành cổ phiếu ra công chúng, các doanh nghiệp cũng cần
tính đến nhu cầu trên thị trường chứng khoán, nếu không sẽ dễ rơi vào tình trạng
tăng cung nhưng cầu về cổ phiếu không tăng sẽ dễ dẫn đến giá cổ phiếu giảm.
17


Ngoài ra, vấn đề chống thôn tính, bảo vệ công ty trước sự xâm thực bằng cổ
phiếu của các công ty khác cũng là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát
hành cổ phiếu phải xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải tính đến tỷ lệ cổ phần
tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của công ty.
2.2.2.3. Thông qua thị trường bất động sản
Một nguồn huy động vốn khác mà doanh nghiệp doanh nghiệp có thể khai
thác để huy động vốn là thông qua thị trường bất động sản.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện các giao dịch mua bán, cho thuê, thế chấp
góp vốn bằng thế chấp giá trị quyền sử dụng đất vào các dự án liên doanh để huy

động vốn cho quá trình SXKD. Tuy nhiên, hiện nay, trên thị trường bất động sản
Việt Nam có đến 70% các giao dịch không đăng ký với các cơ quan quản lý nhà
nước, nên tác động của việc huy động vốn bằng hình thức này vẫn còn nhiều hạn
chế.
2.2.2.4. Thông qua Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Fund)
"Venture Capital" thường được hiểu như là "nguồn vốn đầu tư mạo hiểm".
Đầu tư mạo hiểm có nghĩa là đầu tư vào các công ty mà không cần phải có một
khoản đặt cọc hay ký quỹ nào. Các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm ("venture
capitalist") chủ yếu dựa trên sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành công doanh
nghiệp của người sáng lập và đội ngũ giám đốc của công ty. Do đó, nếu các
chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm đầu tư vào một công ty nào thì có nghĩa là họ sẽ
đồng tham dự vào việc kiểm soát điều hành công ty đó. Bản thân nhà đầu tư sẽ trở
thành một cổ đông thuộc công ty đó; hỗ trợ các giải pháp điều hành tiên tiến để
thúc đẩy sự phát triển kinh doanh. Điều này cũng có nghĩa là họ sẽ đối mặt với rủi
ro bị mất khoản đầu tư trong trường hợp công ty bị phá sản. Tuy nhiên, rủi ro cao
thì sẽ được bù đắp bởi lợi nhuận cao khi công ty đó thành công. Do vậy, các nhà
đầu tư thường chỉ đầu tư vào những thị trường mới, ít người đầu tư nhằm giảm
thiểu khả năng cạnh tranh và đạt mức lợi nhuận cao.
Một số nhà đầu tư thường tìm đến với những lĩnh vực kinh doanh đặc thù của
từng quốc gia (như tại VIỆT NAM có thiết kế hàng nội thất, sản xuất phần mềm)
hoặc những khu vực có nền kinh tế đang phát triển. Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư
mạo hiểm thường trở thành người đỡ đầu cho các công ty mới hình thành, còn thiếu
vốn – thiếu uy tín để vay vốn đầu tư, hoặc chọn ra những công ty danh tiếng trước
đây nhưng nay bị sa sút để đầu tư phục hồi lại vị trí của họ trong ngành nghề đó. So
với ngân hàng, quỹ đầu tư mạo hiểm có nhiều ưu điểm hơn như: Ngoài hỗ trợ về
vốn, họ có thể sát cánh cùng doanh nghiệp trong triển khai dự án; hỗ trợ chuyên gia
giỏi trong quản lý, kinh doanh, am hiểu luật; quyền lợi của nhà đầu tư gắn liền với
sự thành công hay thất bại của dự án. Vì vậy, các quỹ đầu tư mạo hiểm đóng vai trò
quan trọng trong việc đổi mới quản lý, công nghệ.
2.2.2.5. Nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế (IFC)

Trên thế giới có rất nhiều tổ chức tài chính chuyên về hỗ trợ khu vực kinh tế tư
nhân, trong đó được biết đến nhiều nhất là Công ty Tài chính Quốc tế (IFC). Công
18


ty Tài chính Quốc tế (IFC) là bộ phận phụ trách khu vực tư nhân thuộc nhóm Ngân
hàng Thế giới. Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy đầu tư vào khu vực tư nhân tại các
nước đang phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. IFC
cấp vốn cho các dự án đầu tư bằng tiền của mình và qua huy động vốn trên thị
trường tài chính quốc tế. IFC cũng cung cấp trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho chính
phủ và doanh nghiệp.
Điểm đặc biệt trong hoạt động của IFC là bản thân tổ chức này không tạo ra
các dự án mới, mà IFC chỉ đầu tư vào hoặc hỗ trợ cho các dự án, công ty hiện có
trên thị trường. Để thực hiện chương trình tài trợ vốn, IFC sẽ xem xét, tìm kiếm các
công ty hoạt động tốt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính, tư vấn..., sau đó
hỗ trợ tài chính dưới hai hình thức: Một là sử dụng các ngân hàng như là khâu
trung gian trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân; hai là hỗ trợ
kỹ thuật cho các công ty trên các mặt quản lý hoạt động tài chính, quản lý rủi ro,
tăng cường vốn... IFC hiện cũng đang xem xét việc thành lập một quỹ đầu tư hoặc
trực tiếp cấp vốn cho các dự án do các công ty tư nhân thực hiện hoặc có thể đứng
ra làm trung gian kêu gọi các tổ chức tài chính khác.
Ở Việt Nam, Công ty Tài chính Quốc tế IFC trợ giúp phát triển khu vực tư
nhân thông qua tài chính của dự án, bằng việc huy động vốn trên các thị trường tài
chính quốc tế, và thông qua các hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp và Chính phủ

Chương II:

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC
TÀI CHÍNH CHO DOANH NGHIỆP


Vấn đề tăng cường năng lực tài chính cho doanh nghiệp không chỉ là vấn đề
được đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Xem xét quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của một số nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc với quá trình gia nhập
WTO, tăng cường tiềm lực tài chính cho doanh nghiệp, bảo đảm khả năng cạnh
tranh cho doanh nghiệp trên thị trường toàn cầu hóa là vấn đề được nhấn mạnh ở
nhiều quốc gia trong khu vực.
1. Những khó khăn chung về năng lực tài chính của doanh nghiệp ở một số
nước châu Á
1.1. Hạn chế về quy mô vốn
Đánh giá về năng lực tài chính của các doanh nghiệp ở một số nước châu Á,
các chuyên gia kinh tế thường nhấn mạnh đến những hạn chế về khả năng tài chính
của các DNN&V. Nếu như các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính mạnh và khả
năng tiếp cận, huy động vốn khá dễ dàng, dẫn đến khả năng thích ứng và phát triển
của các doanh nghiệp này trong nền kinh tế hội nhập hiện nay là khả quan thì
19


ngược lại, các DNN&V bên cạnh việc nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ở
quy mô nhỏ, các doanh nghiệp này còn gặp phải những khó khăn trong quá trình
tiếp cận nguồn vốn và vay vốn để mở rộng SXKD.
1.2. Hạn chế về tiếp cận các nguồn vốn
Nguồn vay vốn không chính thức: Đó là vay từ những cá nhân, các tổ chức
cho vay nóng; vay từ người thân, bạn bè; từ các hiệp hội quay vòng tín dụng và các
cửa hiệu cầm đồ. Một hiện trạng phổ biến ở các nước đang phát triển ở châu Á đó
là các doanh nghiệp vẫn đang dựa nhiều vào nguồn huy động vốn phi chính thức. Ở
Trung Quốc, hầu hết các doanh nghiệp dựa vào đầu tư của chủ sở sữu và nguồn
tiền nội sinh trong quá trình phát triển. Việc này chỉ có thể duy trì trong điều kiện
tăng trưởng nhanh chóng và sẽ không kéo dài khi mà các doanh nghiệp trở lại với
tốc độ phát triển bình thường. Hơn thế nữa, không chỉ các DNN&V, mà ngay cả
các doanh nghiệp tư nhân có quy mô vốn tương đối lớn cũng thường dựa vào cơ

chế cấp vốn phi chính thức hoặc các quỹ tự có để mở rộng SXKD. Họ vay vốn từ
những người cho vay tư nhân, từ các hợp tác xã cho vay, các tổ chức cho vay nóng
và các hiệp hội quay vòng tín dụng... Do nền kinh tế đang ngày càng phát triển, quy
mô các hình thức cấp vốn phi chính thức này ở Trung Quốc cũng tăng lên và hệ
thống tài chính phi chính thức phát triển thành rất nhiều dạng. Với hình thức huy
động vốn phi chính thức, quy mô vốn vay rất hạn chế, rủi ro tín dụng đối với người
cho vay và người đi vay đều ở mức khá cao. Vì vậy mà tiềm lực về tài chính của
doanh nghiệp nếu thông qua kênh huy động vốn này sẽ cải thiện không đáng kể và
chỉ là biện pháp tức thời, ngắn hạn.
Các kênh huy động vốn chính thức: Đó là từ các tổ chức tín dụng như: Ngân
hàng, các quỹ tiết kiệm và tín dụng, các hiệp hội tín dụng… Đặc điểm của kênh
huy động vốn chính thức là khả năng cung cấp các khoản vay trung và dài hạn lớn
do các tổ chức tín dụng một mặt có lượng vốn điều lệ lớn, mặt khác là trung gian
tài chính, có khả năng tập trung vốn nhàn rỗi từ dân cư.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp ở các nước châu Á có khả năng tiếp cận rất hạn
chế đối với các nguồn tài chính chính thức. Theo báo cáo của các chuyên gia kinh
tế tại Diễn đàn các nhà lãnh đạo cao cấp các tổ chức tài chính phát triển diễn ra
năm 2005 tại Cuala Lămpơ, trên thực tế gần 1/2 số DNN&V trong khu vực châu Á
– Thái Bình Dương không hề vay vốn từ ngân hàng, trong khi con số điều tra về số
lượng doanh nghiệp có nhu cầu cấp thiết về các khoản vay dài hạn là 2/3 trong tổng
số DNN&V. Theo kết quả một số cuộc điều tra được tiến hành ở Campuchia, thì
lượng vốn mà các ngân hàng thương mại trong nước cung cấp cho các DNN&V chỉ
chiếm 1% lượng vốn hoạt động và chiếm 1,7% tổng số vốn đầu tư 1. Ở Trung Quốc,
cho đến năm 2004, nguồn tín dụng chính thức dành cho doanh nghiệp tư nhân chỉ
chiếm dưới 20% nguồn vốn cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước.
Sự hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của doanh nghiệp ở các
nước đang phát triển châu Á là do tồn tại sự phân biệt đối xử từ phía ngân hàng đối
1

Financial for Small and Medium sized Enterprises – 9 – 12/5/2006, Tokyo, Japan – SME finance in Cambodia.


20


với các doanh nghiệp. Các DNN&V, các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thường
không được hưởng sự ưu ái của các ngân hàng so với các doanh nghiệp có quy mô
lớn, các DNNN. Các cuộc điều tra đều cho thấy ở hầu hết các quốc gia châu Á, các
ngân hàng thương mại lớn trong nước đều không mấy hào hứng với việc cho các
DNN&V, doanh nghiệp ngoài Nhà nước vay vốn. Nguyên nhân dẫn đến sự phân
biệt này có thể chia thành những nguyên nhân chính:
+ Từ phía ngân hàng: Sự e ngại của các ngân hàng thương mại đối với việc
cung cấp các khoản vay cho các DNN&V do các ngân hàng cho rằng cơ sở kinh
doanh của DNN&V không vững chắc, các bản kê khai tài chính hay các báo cáo tài
chính không đáng tin cậy, quá trình vay tín dụng chưa lâu hoặc là mức thế chấp
không đủ và quan trọng nhất là việc ngân hàng không có đủ thông tin về doanh
nghiệp…
+ Về đặc trưng của dữ liệu về doanh nghiệp: Thứ nhất, dữ liệu của các
doanh nghiệp chủ yếu là các thông tin định tính, rất khó để có thể lượng hóa và xác
minh độ chân thực. Ví dụ như thông tin về các đặc điểm tính cách và độ tin cậy của
người chủ doanh nghiệp là một loại thông tin khá quan trọng phục vụ cho việc xác
định rủi ro tín dụng. Thông tin này đòi hỏi ngân hàng phải đối thoại trực tiếp với
người chủ doanh nghiệp, hơn thế nữa lại rất khó trao đổi giữa các ngân hàng với
nhau. Thứ hai, các thông tin định lượng như các bảng cân đối kế toán và bảng
quyết toán lợi nhuận của doanh nghiệp thì khá là hạn chế. Thêm vào đó, các ngân
hàng đều có một tâm lý chung đó là những thông tin định lượng này còn có xu
hướng thiếu tính chính xác, một phần bởi vì các doanh nghiệp chưa hiểu rõ về các
tiêu chuẩn kế toán trong quá trình lập báo cáo tài chính và một phần bởi chính các
tiêu chuẩn kế toán đó còn chưa hoàn thiện. Ngoài ra, các ngân hàng còn cho rằng
doanh nghiệp không trung thực về các số liệu tài chính và thường là sử dụng không
hiệu quả khoản vay. Thứ ba, nhiều doanh nghiệp “nhạy cảm” hơn đối với các biến

động và các cú sốc kinh tế so với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Và những
thông tin như vậy thì không được phản ánh đầy đủ trong cả thông tin định tính cũng
như thông tin định lượng về doanh nghiệp. Ví dụ như doanh số của nhiều doanh
nghiệp tồn tại dưới dạng các khoản phải thu từ các doanh nghiệp có mối quan hệ
kinh doanh với họ. Trong trường hợp các doanh nghiệp có mối quan hệ kinh doanh
với họ bị phá sản, thì có nguy cơ là các doanh nghiệp đó cũng phá sản theo. Những
thông tin như thế ngân hàng khó có thể nhận thấy được qua dữ liệu về doanh
nghiệp.
Hiện nay tại các nước đang phát triển ở châu Á, sự thiếu hụt thông tin về
doanh nghiệp chính là trở ngại lớn nhất, khiến cho các ngân hàng đánh giá mức độ
rủi ro tín dụng rất cao đối với các khoản vốn vay cung cấp cho DNN&V, các
doanh nghiệp ngoài Nhà nước, gây nên tình trạng các ngân hàng ưu tiên nhiều hơn
cho các doanh nghiệp có quy mô lớn, DNNN.
+ Từ phía doanh nghiệp: Thứ nhất, các chủ doanh nghiệp thường không chủ
động trong việc giao tiếp với các tổ chức tài chính. Họ luôn cho rằng các ngân hàng
đều nghi ngờ về độ tin cậy tín dụng của các doanh nghiệp, thậm chí là về khả năng
21


lãnh đạo kinh doanh của họ. Thứ hai, các chủ doanh nghiệp thường không chủ
động cung cấp, công khai hóa các thông tin tài chính của mình. Thường các báo
cáo tài chính của các doanh nghiệp này hoặc có thể là không chân thực hoặc là
không chính xác. Do ở nhiều nước, các doanh nghiệp thường rất cẩn trọng với cơ
quan thuế và vì thế họ không cung cấp các bảng cân đối kế toán thực tế và các số
liệu kế toán khác một cách chính xác. Ngoài ra còn phải kể đến sự yếu kém của các
doanh nghiệp trong sổ sách tài chính, thậm chí như ở Campuchia, còn có những
doanh nghiệp không có sổ sách tài chính. Điều này cũng đồng nghĩa với việc ngân
hàng không có cơ sở để xác định khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Kết quả là
ngân hàng tăng lãi suất cho vay và chỉ cung cấp các khoản vay cho các doanh
nghiệp có đủ thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng. Thứ ba, hầu hết các doanh

nghiệp đều không sẵn lòng thế chấp cho ngân hàng. Trong trường hợp các
DNN&V, họ không có một quá trình quan hệ vay vốn lâu dài với ngân hàng trong
khi lại chỉ có quy mô tài sản nhỏ, không đủ để thế chấp cho giá trị khoản vay. Trên
thực tế, các yêu cầu về thế chấp quy định đối với các doanh nghiệp thường rất cao,
trong khi việc định giá tài sản thế chấp lại quá thấp và danh mục các tài sản có thể
được thế chấp lại quá ít; hoàn toàn đối ngược với thực tế là các DNNN thậm chí
còn không cần thiết phải thế chấp để vay vốn. Ở các nước đang phát triển châu Á,
thường hệ thống đăng ký tài sản hoặc là không có, hoặc là kém phát triển nên
thường có rất ít loại tài sản được đăng ký để sau đó có thể sử dụng làm vật thế chấp
ở ngân hàng. Thậm chí, các ngân hàng còn đòi hỏi các chủ doanh nghiệp thế chấp
bằng chính tài sản cá nhân của họ. Vì vậy, phần lớn các nguồn vốn của các quỹ tín
dụng và ngân hàng đều đổ vào các DNNN, các doanh nghiệp có quy mô lớn.
1.3. Hạn chế về hệ thống tài chính chưa phát triển
Ở hầu hết các quốc gia này, hệ thống ngân hàng và các chi nhánh ngân hàng
thương mại chưa đủ để cung cấp các dịch vụ rộng khắp cả nước. Thông tin về các
nguồn tài chính sẵn có không đến được với doanh nghiệp, hạn chế khả năng vay
vốn của doanh nghiệp. Theo một nghiên cứu về chiến lược thúc đẩy xuất khẩu đối
với các doanh nghiệp thực hiện ở Myanma tháng 1/2006, 100% số doanh nghiệp
được điều tra đều cho rằng hệ thống tài chính của nước này còn thiếu các tổ chức
tài chính cung cấp các khoản vay cho doanh nghiệp và khẳng định đó chính là rào
cản lớn nhất đối với hoạt động xuất khẩu của họ. Hay theo báo cáo của cuộc Khảo
sát về giới hạn của doanh nghiệp do GTZ thực hiện năm 2005 tại Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào, một trong số các khó khăn, thách thức đối với sự phát triển của
doanh nghiệp ở nước này đó là hệ thống tài chính chậm phát triển với sự yếu kém
của ngành dịch vụ tài chính.
Về mặt số lượng, hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng còn
chưa phát triển rộng rãi đã giảm khả năng vay tín dụng của các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, vấn đề quan trọng hơn đó là sự yếu kém trong hoạt động của hệ thống tài
chính. Ở một số quốc gia châu Á, rất nhiều ngân hàng hầu như không có động lực
22



nào để đưa ra một cơ chế giải quyết các rào cản trong việc cung cấp khoản vay cho
doanh nghiệp. Ở một mức độ nào đó, thì nguyên nhân chính là ở chỗ hệ thống các
ngân hàng hầu như được bảo hộ, bảo vệ khỏi sự cạnh tranh trên thị trường. Một tỷ
lệ lớn trong hệ thống ngân hàng là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Các ngân
hàng này ít chịu áp lực đòi hỏi phải phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính mới,
đa dạng hóa dịch vụ cung cấp hay thu lợi nhuận cao. Các ngân hàng thường hoạt
động phục vụ các mục tiêu về ngành và các mục tiêu phát triển của Chính phủ.
Ngoài ra, mức lãi suất trần quy định cũng khiến cho các ngân hàng gặp khó khăn
khi đánh giá tín dụng đối với các khoản vay của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ
thống pháp lý yếu kém và các định chế hợp đồng chưa chặt chẽ cũng gây khó khăn
cho ngân hàng trong việc thu hồi tiền từ những người đi vay vi phạm. Vì vậy mà ở
các nước này, các sản phẩm dịch vụ tài chính không phong phú, đa dạng như ở các
nước phát triển.
Hay như ở Trung Quốc, hệ thống tài chính của Trung Quốc thời gian qua
hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Nhà nước. Các doanh nghiệp tư
nhân ở Trung Quốc bị trói chặt bởi chính sách của Chính phủ, trong khi các DNNN
lại được hưởng các ưu đãi rất cao vì vậy mà các doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều
khó khăn trong việc giành được tín dụng.
Một điểm hạn chế khá phổ biến trong hệ thống tài chính ở các nước này còn
là khả năng thẩm định tín dụng yếu kém. Như đã phân tích ở trên, một trong những
nguyên nhân chính đó là sự thiếu hụt thông tin về doanh nghiệp, cụ thể hơn là
thông tin tài chính của doanh nghiệp. Ngoài các đặc điểm liên quan đến doanh
nghiệp dẫn đến sự thiếu hụt này, thì về phía bản thân hệ thống tài chính, đó là do
thiếu các hướng tiếp cận một cách có hệ thống tới tài chính doanh nghiệp ở các thể
chế tài chính, chưa có sự phát triển của một hệ thống liên ngân hàng, nhằm trao đổi
thông tin về các doanh nghiệp, thiếu một cơ chế chia sẻ thông tin về doanh nghiệp.
Ngoài ra, do hầu hết các ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước và sự can thiệp của
Nhà nước vào quá trình phân bổ tín dụng, các ngân hàng được sự hỗ trợ, bảo đảm

trực tiếp hoặc gián tiếp từ phía Nhà nước, vì vậy mà các kỹ năng phân tích tín dụng
cũng chưa được quan tâm phát triển thường xuyên ở các ngân hàng này. Năng lực
thẩm định tín dụng yếu kém, dẫn đến chi phí giao dịch tăng cao, một mặt càng
khiến cho các ngân hàng “e ngại” cung cấp các khoản vay cho các DNN&V hay
các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, còn các doanh nghiệp này lại càng ngại đi vay
vốn từ ngân hàng.
Thị trường tài chính ở các nước đang phát triển châu Á còn có nhiều bất cập.
Trên thị trường vốn, nhu cầu về các khoản vay trung và dài hạn vẫn không được
đáp ứng đủ. Các doanh nghiệp chủ yếu cần các khoản vay trung và dài hạn để trang
trải cho các yêu cầu tăng cường năng lực công nghệ, tăng tài sản cố định để mở
rộng SXKD. Tuy nhiên, ở các nước này, trung bình chỉ 1% các khoản vay cho các
DNN&V là các khoản vay trung hay dài hạn (2 năm hoặc hơn 2 năm), trong khi đó

23


70% các khoản vay có thời hạn dưới 1 năm 2 . Do thiếu hụt các khoản vay trung và
dài hạn, nhiều doanh nghiệp vẫn đang phải tiếp tục hoạt động SXKD với một dây
chuyền trang thiết bị sản xuất không phù hợp, trong hệ thống nhà xưởng chật hẹp.
Trong cuộc khảo sát về giới hạn của doanh nghiệp tại Lào cũng đưa ra nhận định
các DNN&V ở nước này thiếu trầm trọng các khoản vay trung và dài hạn.
Một đặc điểm khác của thị trường tài chính ở các nước đang phát triển đó là
vấn đề thông tin không cân xứng (Asymmetric information). Thông tin không cân
xứng xảy ra khi một trong những đối tác của giao dịch có được ít thông tin hơn các
đối tác khác. Người đi vay hiểu biết tốt hơn về bản chất và rủi ro trong công ty hay
dự án đầu tư hơn là người cho vay, còn người cho vay lại hiểu biết hơn về chi phí
thực sự của vốn trên thị trường bên ngoài. Sự bất cân xứng về thông tin có thể dẫn
đến một sự lựa chọn nghịch. Kết quả là những công ty hoạt động tốt sẽ phát hành
rất ít chứng khoán và nhiều dự án có khả năng sinh lời cao sẽ không được thực
hiện. Trong khi đó, những dự án đưa lại lợi nhuận không cao của các doanh nghiệp

chất lượng hoạt động thấp lại được tài trợ. Sự lựa chọn nghịch khiến cho thị trường
tài chính bất ổn định, hoạt động không hiệu quả, hạn chế một nguồn tiếp cận vốn
đối với các doanh nghiệp có chất lượng họat động tốt.
Về kênh huy động vốn qua thị trường chứng khoán, một mặt, thị trường
chứng khoán ở các nước này mở cửa chưa lâu và chưa phát triển mạnh mẽ, hệ
thống các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán
còn nhiều bất cập, mặt khác, do năng lực, hiểu biết của các doanh nghiệp về thị
trường chứng khoán còn hạn chế, các doanh nghiệp cũng chưa tận dụng được tiềm
năng về huy động vốn trên thị trường này. Ngay ở Trung Quốc, trước đây, các
doanh nghiệp tư nhân vốn đã không được ưu đãi trong việc tiếp cận các nguồn tín
dụng ngân hàng, lại không được phép tham gia thị trường chứng khoán, đã hạn chế
rất nhiều khả năng tăng vốn của doanh nghiệp.3
Nếu như ở các nước phát triển, các quỹ đầu tư mạo hiểm sẵn sàng cung cấp
vốn cho các doanh nghiệp khát vốn, vực dậy các doanh nghiệp yếu, sắp phá sản,
giúp họ kinh doanh thành công, là một nguồn huy động vốn khá hiệu quả cho các
doanh nghiệp, thì ở các nước đang phát triển châu Á, hoạt động của các quỹ đầu tư
mạo hiểm còn chưa mạnh mẽ. Hiện nay, một số quốc gia còn tồn tại nhiều rào cản
pháp lý đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài. Trong khi các quỹ đầu tư
mạo hiểm trong nước chỉ nắm giữ số vốn có hạn, thì những quỹ đầu tư mạo hiểm
nước ngoài nắm giữ hàng tỷ USD, có ưu thế về khả năng thanh toán bằng tiền mặt
rất lớn. Hoạt động đầu tư mạo hiểm chưa có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
cũng hạn chế doanh nghiệp tiếp cận thêm một nguồn huy động vốn.
Nhìn chung, đặc điểm chung của doanh nghiệp ở các nước đang phát triển
châu Á là hạn chế về năng lực tài chính của các doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là
2

Relationship banking and SMEs in Asian Transaction Economies – Tracy Yang – Research School of Pacific and
Asian Studies, Australian national University – May 2006.
3
Barry Eichengreen, Michael Mussa, Giovanni Dell’ Arricia, Enrica Detragiache, Gian Maria Milesi – Ferretti,

Andrew Tweedie (1999), “Liberalizing Capital Movements: Some Analytical Issues” – IMF, February 1999.

24


DNN&V, dẫn đến hạn chế doanh nghiệp về khả năng mở rộng quy mô SXKD, tăng
cường năng lực khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực nhằm tăng năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp này trước sức ép cạnh tranh rất gay gắt trên thị
trường thế giới thời kỳ toàn cầu hóa. Những hạn chế này xuất phát từ những khó
khăn nội tại của doanh nghiệp với quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, lợi nhuận giữ lại để
đầu tư vào mở rộng SXKD do đó còn thấp và xuất phát từ những nguyên nhân
khách quan, chủ quan khác hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn vốn đối với doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, trong những năm qua, nhiều quốc gia châu Á, đặc biệt là Trung
Quốc, đã hội nhập kinh tế quốc tế một cách thành công, với sự khẳng định vị thế
của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Tăng cường năng lực tài chính, từ đó
tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp khả năng
thích ứng và không ngừng tăng trưởng, phát triển trong thời kỳ hội nhập là một vấn
đề được đặt ra đối với Chính phủ, doanh nghiệp các nước này và đã có những kinh
nghiệm thành công nhất định.
2.

Những kinh nghiệm tăng cường năng lực tài chính của doanh nghiệp ở
một số quốc gia châu Á

2.1.
Các giải pháp tăng quy mô vốn tự có cho doanh nghiệp
2.1.1. Giải pháp hỗ trợ trực tiếp tăng quy mô vốn
Trong giai đoạn hiện nay, giải pháp hỗ trợ trực tiếp để tăng quy mô vốn cho
doanh nghiệp từ phía Nhà nước không được áp dụng nhiều. Tuy nhiên, ở một số

nước đang phát triển ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ,… Chính phủ các nước này
vẫn áp dụng biện pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp cho doanh nghiệp, trong đó chủ
yếu là các DNNN và các DNN&V. Chính phủ Trung Quốc lập ra các quỹ nhằm hỗ
trợ vốn cho doanh nghiệp. Ấn Độ có các chương trình hỗ trợ trực tiếp khu vực
DNN&V, trong đó có hỗ trợ tài chính trực tiếp, tạo điều kiện để doanh nghiệp tham
gia các hợp đồng mua sắm của Chính phủ, giúp doanh nghiệp tăng cường doanh
thu, tăng lợi nhuận từ đó có thể phát triển khả năng tài chính.
Ngoài ra, ở Thái Lan, Chính phủ nước này đã rất coi trọng việc giải quyết bài
toán nợ cho các doanh nghiệp. Chính phủ Thái Lan thành lập một Uỷ ban xem xét
vấn đề nợ của các doanh nghiệp, đã ra quy tắc nhằm tạo cơ sở cho các chủ nợ và
con nợ gặp nhau đàm phán, khuyến khích xử lý nợ một cách tự nguyện. Nhờ đó,
đối với các doanh nghiệp có các khoản nợ khó đòi, biện pháp này đã giúp doanh
nghiệp tăng khả năng tài chính.
Tuy nhiên, Chính phủ các nước đều đã bỏ dần các biện pháp hỗ trợ trực tiếp,
nhất là về vốn đối với doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tự chủ trong huy
động vốn, tăng cường tiềm lực tài chính nói riêng cũng như tự chủ trong hoạt động
SXKD nói chung, thúc đẩy tăng hiệu quả SXKD cho doanh nghiệp. Mặt khác, hạn
chế hỗ trợ trực tiếp cũng là lành mạnh hóa quan hệ tài chính cho doanh nghiệp, tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng, không có sự thiên vị đối với các DNNN như trước đây.
25


×