Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN: TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.05 KB, 28 trang )

Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN: TRIẾT HỌC
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, triết
học nhị nguyên, các hình thức chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học.
1. Vấn đề cơ bản của triết học.
- Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân
con người và vị trí của con ngừoi trong thế giới đó.
- Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức,
giữa con người và thế giới tự nhiên.
- VĐCB có 2 mặt: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước? Con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không?
+ Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đã chia triết học thành 2 trường phái lớn: Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
+Mối quan hệ giữa con người và thế giới cũng chia triết học thành 2 phái: Khả tri luận –
bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng tri thức của con người và bất khả tri luận
– phủ nhận tất cả khả năng đó.
2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy vật
- Có nguồn gốc từ nhận thức - Có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa
và nguồn gốc xã hội
học
- Xem xét phiến diện và
- Qua thực tiễn và khái quát hóa tri thức của nhân loại
tuyệt đối hóa thần thánh hóa trong nhiều lĩnh vực.
Nguồn gốc
một mặt, một đặc tính nào
- Là hệ thống tri thức lý luận chung nhất


đó của quá trình nhận thức.
- Có mỗi liên hệ mật thiết
với tôn giáo
Hình thức cơ - CNDT chủ quan và CNDT - CNDV chất phác, CNDV siêu hình và CNDV biện
bản
khách quan:
chứng:
+ CNDT chủ quan: phủ
+ CNDV chất phác: hình thức sơ khai của CNDV,lý
nhận sự tồn tại khách quan
giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một hoặc
của hiện thưc, khẳng định
một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là bản
mọi sự vật, hiện tượng là
nguyên của thế giới; lấy bản thân vật chất của giới tự
“phức hợp những cảm giác” nhiên để giải thích về thế giới.
của cá nhân
+ CNDV siêu hình: hình thức cơ bản thứ 2 của
+ CNDT chủ quan: thừa
CNDV, là phương pháp tư duy siêu hình trong việc
nhận tinh thần khách quan, ý nhận thức về thế giới, chưa p.ánh đúng về mối liên hệ
thức khách quan có trươc và phổ biến và sự phát triển.
tồn tại độc lập với thế giới tự + CNDV biện chứng: hình thức cơ bản thứ 3, do
nhiên, con người.
C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập; CNDVBC phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ
1


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii


biến và sự phát triển, cung cấp công cụ vĩ đại cho
hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách
mạng. Hệ thống quan điểm của CNDVBC đc xây
dựng trên cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất,
ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức.

 CNDT cho rằng ý thức có trước vật chất còn CNDV cho rằng vật chất có trước ý

thức.
3. Triết học nhị nguyên.
- Là một thuyết triết học thừa nhận sự tồn tại của hai thực thể.
Câu 2: Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất, các phương thức, hình thức
tồn tại của vật chất. Ý nghĩa phương pháp luận của những vấn đề trên.
Quan niệm của triết học Mác-Lênin
Ý nghĩa phương pháp luận
Vật chất
- “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để - Chống lại tất cả các quan
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con điểm của chủ nghĩa duy
người trong cảm giác,đc cảm giác của chúng tâm về phạm trù vật chất.
ta chép lại, chụp lại , phản ánh và tồn tại
- Đấu tranh, khắc phục triệt
không lệ thuộc vào cảm giác”
để tính trực quan, siêu hình,
+ “VC là một phạm trù triết học”: khái quát
máy móc trong quan niệm
thuộc tính cơ bản nhất,phổ biến nhất của mọi về vất chất của các nhà triết
tồn tại vật chất.
học tư sản,

+ VC tồn tại khách quan: tồn tại độc lập và
- Giải quyết đc sự khủng
ko phụ thuộc vào ý thức của con người.
hoảng trong quan điểm về
+ ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất của các nhà triết
vật chất, vật chất là cái đc ý thức phản ánh.
học và khoa học theo quan
điểm chủ nghĩa duy vật siêu
hình.
- Khẳng định thế giới khách
vật chất khách quna là vô
cùng, vô tận.
- Làm phong phú thêm kho
tàng tri thức nhân loại.
Phương
- Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật
- sự phân loại hình thức và
thức tồn tại chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và diễn
phương thức vận động có
của vật chất ra trong vũ trụ, từ vị trí đơn giản cho đến tư
bản đã đặt cơ sở cho sự
(vận động) duy.
phân loại các khoa học
- Vật chất luôn gắn liền với vận động.
tương ứng đối với đối
- Thông qua vận động mà các dạng cụ thể của tượng nghiên cứu của
vật chất mới biểu hiện đc sự tồn tại.
chúng
2



Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

- Vận động tồn tại khách quan
- VĐ đc chia thành 5 hình thức cơ bản: vận
động cơ học, vđ vật lý, vđ hóa học, vđ sinh
học, vđ xã hội.
- Mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận
động khác nhau và đc đặc trưng bởi hình thức
vận động cao nhất mà nó có.
Hình thức
- không gian: mọi dạng cụ thể của vật chất
tồn tại của
đều tồn tại ở một vị trí nhất định, tồn tịa
vật chất
trong các mối tương quan nhất định. Ko gian
(không gian có 3 chiều: cao, rộng, dài.
và thời
- Thời gian: sự tồn tại của sự vật được thể
gian)
hiện ở quá trình biến đổi (nhanh hay
chậm).tgian có 1 chiều: từ quá khứ đến tương
lai.
- ko có vật chất tồn tại ngoài ko gian và thời
gian và ngược lại.
- ko gian và thời gian tồn tại khách quan, bị
vật chât quy định.

1.
a.


-


-

- Chỉ ra cơ sở của khuynh
hướng phân nhành và hợp
thành của khoa học.
- Là cơ sở để chống lại
khuynh hướng sai lầm
trong nhận thức là quy hình
thức vận động cao vào hình
thức vận động thấp và
ngược lại.

Câu 3: Quan niệm của triết học Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức,
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của mối
quan hệ này.
Nguồn gốc của ý thức : ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên: ( có 2 yếu tố cơ bản nhất)
Bộ óc người:
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người
Ý thức là chức năng của bộ óc
Ý thức là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc.
Bộ óc càng hoàn thiện thì ý thức con người càng phong phú và sâu sắc → khi bộ óc bị
tổn thương thì quá trình phát triển năng lực của nhận thức, tư duy ( quá trình tiến hóa của
loài người) và đời sống tinh thần của con người bị rối loạn.
Mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động,
sáng tạo.

Là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện
Thế giới khách quan đc phản ánh (thông qua hoạt động của các giác quan) đã tác động
đến bộ óc người → ý thức được hình thành
Phản ánh: + là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
+ Là thuộc tính của tất cả cách dạng vật chất
3


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

+ p.á vật lý hóa học: hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô
sinh, đc thể hiện qua nhữn biến đổi kết cấu, vị trí, tính chất.. p.á này mang tính thụ động.
+ p.á sinh học: đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh,đc thể hiện qua quá trình
kích thích.
+ p.á tâm lý: pá của đvật có hệ thần kinh trung ương
+ p.á năng động sáng tạo: hthức p.ánh cao nhất,đc thực hiện ở bộ óc người,
qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người, có tính chủ động ( có ý thức )
• Nguồn gốc xã hội của ý thức
- Lao động và ngôn ngữ là yếu tố cơ bản và trực tiếp của nguồn gốc xã hội của ý thức
- Lao động: (mang tính xã hội)
+ quá trình con người tác động vào thế giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho
nhu cầu tồn tại và phát triển của mình
+ quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể người , làm giới tự nhiên bộc lộ thuộc tính, kết
cấu, quy luật vận động
- Ngôn ngữ:
+ hệ thống tín hiệu vất chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Ko có ngôn ngữ
thì ý thức ko thể tồn tại và phát triển+ nhờ ngôn ngữ mà con người còn khái quát, tổng
kết,đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác
- Ngôn ngữ gắn liền với lao động

- Mối quan hệ giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp,
trao đổi -> ngôn ngữ ra đời và phát triển ngay trong quá trình lao động
→ nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất của ý thức là lao động, sau và đồng
thời với lao động là ngôn ngữ.
2. Bản chất của ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan
- Tính năng động, sáng tạo:
+ thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp
nhận thông tin, chọn lọc thông tin, lưu giữ và xử lý thông tin và trên cơ sở thông tin đã có
nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin đc tiếp nhận
(nguyên lý tảng băng)
+ Thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả thuyết, ý tưởng... trong đời sống tinh
thần của mình hay khái quất bản chất quy luật, xây dựng các mô hình tư tưởng trong các
hoạt dộng của con người
- Hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan:
+ Ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định về nội dung
và hình thức biểu hiện, nhưng bị cải biến qua lăng kính chủ quan của con người
+ C.Mác “ ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người
và được cải biến đi trong đó”
- Là hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội
+ Ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên,xã
hôi, đc quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội.
4


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:


-

-

-

-

Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý
thức, ý thức ko hoàn toàn thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người
a, Vai trò của vật chất với ý thức
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao (bộ óc người)
Con người là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất và là sản phẩm
của thế giới vật chất
Nguồn gốc tự nhiên, xã hội của ý thức là yếu tố chứng minh cho “ vật chất có trước ý
thức"
Nội dung của ý thức đc quyết định bởi vật chất vì ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất,
là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
Sự vận động và phát triển của ý thức bị các yếu tố thuộc lĩnh vực vật chất như quy luật
sinh học, xã hội quyết định → vật chất ko chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định
hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức
b, Vai trò của ý thức đối với vật chất
Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Bằng việc định hướng cho hoạt động của con người thì ý thức có thể quyết định hành
động của con người.
c, Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thẹc tế khách quan, tôn trọgn khách quan: xuất phát từ tính khách quan của

vật chất,có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật, nhận thức
và hành động theo quy luật.
Phát huy tính năng động chủ quan: phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý
thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng
động sáng tạo ấy.
Câu 4: Trình bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.

Khái niệm

Nguyên lý mối liên hệ phổ biến

Nguyên lý về sự phát triển

- mối liên hệ: chỉ sự quy định, sự
tác động và chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các
mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện
tượng trong thế giới
- mối liên hệ phổ biến: chỉ tính phổ
biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng, chỉ các mối liên hệ
tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng

- quan điểm siêu hình: phát triển là
sự tăng, giảm thuần túy về số
lượng,xem sự phát triển là quá trình
tiến lên liên tục, ko trải qua những
bước quanh co phức tạp
- quan điểm theo phép biện chứng:

chỉ quá trình vận động của sự vật,
hiện tượng kèm theo khuynh hướng
đi lên từ trình độ thấp đến cao, kém

5


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

- giữa các sự vật, hiện tượng của thế
giới vừa tồn tại những mối liên hệ
đặc thù, vừa có những mới liên hệ
phổ biến ở những phạm vi nhất định

Tính chất

- tính khách quan: sự quy định, tác
động và làm chuyển hóa lẫn nhau
của các sự vật, hiện tượng là cái vốn
có của nó, tồn tại khách quan, con
người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt
động thực tiễn

hoàn thiện đến hoàn thiện hơn ( ko
đồng nhất với khái niệm “vận
động”) , là quá trình phát sinh và
giải quyết mâu thuẫn khách quan
vốn có của sự vật, hiện tượng, là
quá trình thống nhất giữa phủ định

các nhân tố tiêu cực và kế thừa,
nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật,
hiện tượng cũ trong hình thái của
sự vật, htg mới.
- tính khách quan: biểu hiện trong
nguồn gốc của sự vận động và phát
triển, là quá trình bắt nguồn từ bản
thân sự vật,hiện tượng,là quá trình
giải quyết mâu thuẫn của sự vật,
hiện tượng đó → phát triển là thuộc
tính tất yếu, khách quan

- tính phổ biến: ko có bất cứ sự vật,
hiện tượng hay quá trình nào tồn tại
tuyệt đối biệt lập,cũng như ko có bất
cứ sự vật, hiện tượng nào ko phải là
một cấu trúc hệ thống → bất cứ sự
tồn tại nào xũng là một hệ thống

- tính phổ biến: thể hiện ở các quá
trình phát triển diễn ra trong mọi
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy;
trong mọi sự vật, hiện tượng, quá
trình. Trong quá trình biến đổi có
thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra
đời của cái mới, phù hợp với quy
luật khách quan

- tính đa dạng, phong phú: các sự
vật, hiện tượng hay quá trình khác

nhau đều có những mối liên hệ cụ
thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại và phát
triển của nó nhưng cùng một mối
liên hệ nhất định trong những điều
kiện cụ thể khác nhau, ở giai đoạn
khác nhau trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng thì
cũng có những tính chất và vai trò
khác nhau.

- tính đa dạng, phong phú: phát
triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật, hiện tượng nhưng lại có
quá trình phát triển ko hoàn toàn
giống nhau, tồn tại ở những không
gian và thời gian khác nhau nên sự
vật, hiện tượng phát triển khác
nhau. Đồng thời trong quá trình
phát triển của mình thì sự vật, hiện
tượng còn chịu nhiều sự tác động
của các sự vật, hiện tượng khác và
sự tác động này có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển hoặc thụt lùi
tạm thời.

6


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii


Ý nghĩa
phương pháp
luận

- từ tính khách quan và phổ biến thì
cần có quan điểm toàn diện: đòi hỏi
trong nhận thức và xử lý các tình
huống thực tiễn cần phải xem xét sự
vật, hiện tượng trong mối quan hệ
biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
yếu tố, các mặt của sự vật, hiện
tượng và sự tác động qua lại giữa sự
vật, hiện tượng khác. Trên cơ sở đó
có thể nhận thức đúng về sự vật,
hiện tượng và xử lý có hiệu quả các
vấn đề của đời sống thực tiễn.
- từ tính đa dạng phong phú thì cần
kết hợp với quan điểm lịch sử – cụ
thể: trong việc nhận thức và xử lý
các tình huống trong hoạt động thực
tiễn cần phải xét đến những tính
chất đặc thù của đối tượng nhận
thức và tình huống phải giải quyết
trong thực tiễn, tránh và khắc phục
những quan điểm phiến diện, siêu
hình,quan điểm chiết trung,ngụy
biện

- là cơ sở lý luận khoa học để định

hướng việc nhận thức thế giới và
cải tạo thế giới, trong nhận thức và
thực tiễn cần phải có quan điểm
phát triển
- quan điểm phát triển đòi hỏi phải
khắc phục tư tưởng bảo thủ, đình
trệ, định kiến, đối lập với sự phát
triển
- để nhận thức và giải quyết vấn đề,
cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo
khuynh hướng đi lên của nó, cần
phải có quan điểm lịch sử – cụ thể
trong nhận thức và giải quyêts vấn
đề của thực tiễn, phù hợp với tính
chất phong phú, đa dạng, phức tạp
của nó
- phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mac-Lênin giữ một vai trò
đặc biệt quan trọng trong nhận thức
và thực tiễn.

Câu 5: Trình bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận
động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Phương thức chung của các quá trình
đó là những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay
đổi về lượng và ngược lại, những sự thay đổi về lượng chất lại tao ra những biến đổi mới
về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất
yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự

vật, hiện tượng.
1. Khái niệm chất, lượng
• Chất:
- Là một phạm trù của triết học, tồn tại khách quan
- Chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng
7


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii


-

2.



-

-

3.
-

Là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng
khác
Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng
Chất của sự vật, hiện tượng đc xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành, bởi cấu trúc và
phương thức liên kết giữa chúng thông qua các mối liên hệ cụ thể
Mỗi sự vật hiện tượng có nhiều chất

Lượng
Là một phạm trù của triết học, tồn tại khách quan
Chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số
lượng, các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ,nhịp điệu của các quá trình vận
động,phát triển của sự vật, hiện tượng
Một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các
phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật, hiện tượng đó.
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng,
chúng tắc động lẫn nhau một cách biện chứng
Sự thay đôi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất nhưng ko phải hoàn toàn
Độ:
Là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật,
hiện tượng.
Là một phạm trù triết học
Chỉ tính quy định,mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng
Điểm nút
Là một phạm trù triết học
Là giới hạn mà khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến những sự thay
đổi về chất
Bước nhảy
Là một phạm trù triết học
Là sự chuyển hóa tất yếu trong quấ trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
Là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển, đồng thời cũng là điểm khởi đầu cho
một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự
vật, hiện tượng
→ Ph.Angghen: “những thay đổi đơn thuần về lượng đến mức độ nhất định sẽ
chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”
Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông
qua bước nhảy, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng

của sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận
thức toàn diện về sự vật, hiện tượng
8


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm
thay đổi về chất, đồng thời có thể phát duy tác động của chất mới theo hướng làm thay
đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.
- Trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh( hành động bất
chấp quy luật,chủ quản, ko tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng trong thực hiện những
bước nhảy liên tục về chất ), tư tưởng bảo thủ hữu khuynh(sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ,
trì trệ, ko dám thực hiện bước nhảy mặc dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm
phát triển đơn thuần là sự tiến hóa về lượng).
- Phải có sự vận dụng linh hoạt trong các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng
điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể; nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy
quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
Câu 6: Trình bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan trọng
nhất- hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động
lực của sự vận đông, phát triển.
a. Nội dung của quy luật
- Tất cả các sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức những mặt
đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật. Phép biện
chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, sự

thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của các mặt đối lập để diễn đạt mối quan hệ
giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật-tạo thành nguồn
gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật
- Mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
-

 Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt

đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “sự thống nhất”
lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn
định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát
triển
 Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải
quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập quy định sự thay đổi vào
các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay
gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó
thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra
đời thay thế
b. ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của sự vật và là khách
quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng cách
phân tích sự vật tìm ra các mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác
động lẫn nhau giữa chúng
9


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

-


Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và tìm ra cách
giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn-phù hợp với từng loại mâu thuẫn, trình
độ phát triển mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi.

Câu 7: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật này.
a. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
- Trong thế giới hiện tượng, vật chất các sự vật luôn luôn biến chuyển thay đổi, sinh ra, tồn
tại và mất đi. Sự vật cũ mất đi được thay bằng những sự vật, hiện tượng mới, sự thay thế
đó được gọi là sự phủ định. Sự phủ định sự vật này là một quy trình tất yếu trong quá
trình vận động và phát triển sự vật mà không phải phủ định là xoá bỏ hoàn toàn cái cũ
như các nhà siêu hình học nhìn nhận.
- Theo triết Mác, phủ định phải là phủ định biện chứng, tức là sự phủ định tạo tiền đề, điều
kiện cho sự phát triển liên tục, từ cái cũ thành cái mới, hoàn thiện, phức tạp và cao cấp
hơn cái cũ. Tuy nhiên, phủ định biện chứng là sự phủ định tự thân, từ sự phát triển tự thân
nên phủ định biện chứng mang những đặc trưng cơ bản sau:


Tính Khách Quan: các sự vật luôn luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát
triển do sự đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn bên trong của các sự vật. Từ đấu tranh
các mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển không ngừng, do vậy, phủ định biện chứng luôn
mang tính khách quan trong quá trình vận động và phát triển.



Tính Kế Thừa. Phủ định là phát triển tự thân của sự vật nên nó không phải thủ tiêu cái cũ
mà là gạt bỏ những cái xấu, không tốt, lạc hậu để tiếp thu, chọn lọc những cái hay, cái
đẹp khi hình thành cái mới. Do vậy, cái mới đó được hình thành từ cơ sở chọn lọc của cái

cũ. Cái mới là mới từ cái cũ và cái cũ là cũ của cái mới. Giữa cái cũ và cái mới có mối
liên hệ và khắng khít với nhau. Đó chính là tính kế thừa của phép phủ định biện chứng.

Trong quá trình phủ định biện chứng, phủ định đồng thời cũng là khẳng định, phủ định
mặt xấu, tiêu cực còn khẳng định những mặt tích cực, tốt đẹp. Do vậy, cái mới có mặt là
một phần tất yếu, xuất phát từ cái cũ nhưng khác chất cái cũ. Và tất nhiên, quy trình phủ
định biện chứng cần phải đảm bảo được ba điều kiện sau:1) Tính thời đại. 2) Tính dân
tộc. 3) Tính mỹ thuật.
b. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
- Trong quá trình vận động và phát triển, sự vật mới được ra đời trên cơ sở khẳng định và
phủ định sự vật cũ. Khi hai mặt mâu thuẫn đấu tranh với nhau mà vượt qua giới hạn độ
thì sự vật mới ra đời, phủ định biện chứng có mặt. Thế nhưng sự vật không dừng lại ở đó
mà nó lại tiếp tục đấu tranh giữa các mặt mâu thuẫn mới và một lần nữa cái mới đó bị cái
mới hơn phủ định. Quá trình phủ định hai lần đó được gọi là Phủ định của phủ định và từ
đây “sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển”.[1]
-

10


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

-

-

-

Quá trình phủ định cái phủ định của sự vật đó làm xuất hiện những sự vật mới là kết quả
tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực mới được bổ sung và từ những lần khẳng định và phủ

định trước đó. Quy luật phát triển liên tục, điểm kết thúc của chu kỳ này lại là điểm bắt
đầu của một chu kỳ mới. Do vậy, kết quả phủ định cái phủ định luôn luôn bao giờ cũng
có hình thức mới hơn, có nội dung toàn diện và phong phú hơn những cái ban đầu.
Tuy nhiên, sự tiến lên của sự vật không theo con đường thẳng tắp mà được diễn ra theo
hình “xoắn ốc”. Bởi “sự phát triển theo đường “xoắn ốc” là biểu thị sự rõ ràng, đầy đủ
các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại,
tính tiến lên”.[2]
Khi nghiên cứu về Quy luật phủ định của phủ định chúng ta không nên máy móc trong
nhận thức. Nghĩa là chúng ta không nên khăng khăng cho rằng sự vật, hiện tượng phải đủ
hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Thực ra, có nhiều sự phát triển
còn cần nhiều hơn cả con số hai lần phủ định như thế, hai lần là con số tối thiểu, chẳng
hạn quá trình biến đổi trứng thành con tằm. Do vậy, trong vấn đề nhận thức quy luật này,
chúng ta cần phải linh hoạt, không được máy móc. Không nên lấy cái cố định để ràng
buộc cái bất định, nếu làm như thế là đi sai với quy luật và đó là một sai lầm.

Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định trên, chúng ta rút ra được một số ý
nghĩa phương pháp luận sau:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức được tính đúng đắn và tất yếu
của sự vật bởi phát triển là khuynh hướng chung, do đó cái mới bao giờ cũng chiến thắng.
Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường đường thẳng mà con đường xoắn ốc:
quanh co, phức tạp với nhiều chu kỳ và giai đoạn trung gian.
- Sự vật ra đời sau luôn là cái mới, cái tiến bộ hơn cái trước thế nhưng không phải lúc nào
cũng như vậy, có nhiều lúc, cái mới lại là cái thụt lùi so với cái cũ, thế nhưng sự thụt lùi
đó là những bước thụt lùi trong quá trình phát triển chung của nó.
- Nhận thức được quy luật này chúng ta sẽ biết cách tác động phù hợp sao cho sự vật phát
triển nhanh hay chậm, tránh được những nhận thức sai lầm, chủ quan duy ý chí và bảo
thủ trong công việc và trong các hiện tượng xã hội. Đồng thời cần phải chống thái độ phủ
định sạch trơn hoàn toàn không có gì, coi thường giá trị truyền thống mà cần phải biết
phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.

Câu 8: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này
a. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Trong lịch sử triết học đã có 2 quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng:
- Phái duy vật cho rằng, “cái riêng” chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn
tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. Cái chung không phụ thuộc vào
cái riêng mà còn sinh ra cái riêng. Theo Platon, cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh
viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính tạm thời
c.

11


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

-

-







b.
-

-


-

Phái duy tâm cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những tên gọi
trống rỗng, do tư tưởng con người bịa đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan
điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm
Cả quan niệm của phái duy vật và phái duy tâm đều sai ở chỗ họ đã tách rời cái chung
khỏi cái riêng, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không
thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng
Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách
quan giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại
của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng
nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm
chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn vì cái chung phản ánh
những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
Do vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát
triển của cái riêng
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển
của sự vật. Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng cái
đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái
chung, cái phổ biến, nhưng về sau nữa, khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị dần
mất đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa cái đơn nhất thành cái chung là
biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sư chuyển hóa cái chung
thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của

mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật,
hiện tượng riêng lẻ không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài
cái riêng
Cái chung là cái sâu sắc, bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức nhằm nhìn ra cái
chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để tạo ra cái riêng. Trong hoạt
động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung(không hiểu biết lý luận), sẽ
không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng. Mặt khác,
cái chung là biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tùy theo cái
riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp
Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định “cái đơn nhất” có
thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơn nhất’, nên
trong hoạt động thực tiễn và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho
con người trở thành “cái chung” và “cái chung” bất lợi thành “cái đơn nhất”.
12


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

a.
-




-

-

b.
-


-

-

Câu 9: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Ý nghĩa
phương pháp luận của mối quan hệ này.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân phải có trước kết quả
Một nguyên nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra kết quả
nhất định và mọi kết quả nhất định bao giờ cũng được sinh ra bởi nguyên nhân xác định,
nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây ra
càng khác nhau bấy nhiêu
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ phức tạp
Thứ nhất: Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào
hoàn cảnh cụ thể
Thứ hai: Cùng một kết quả có thể được gây ra bên những nguyên nhân khác nhau tác
động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên
nhân với sự hình thành kết quả sẽ khác nhau tùy vào hướng tác động của nó
Nếu nguyên nhân tác động lên sự vật cùng môi trường thì chúng sẽ gây lên ảnh hưởng
cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại nếu các nguyên nhân khác nhau tác động
lên các sự vật theo hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí tiêu diệt hoàn
toàn tác dụng của nhau
Tác động trở lại của kết quả với nguyên nhân, kết quả có thể tạo được nguyên nhân. Mối
quan hệ nhân quả là một chuỗi sự nối tiếp giữa nguyên nhân và kết quả. Không có
nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng
Trong những điều kiện nhất định nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa cho nhau,
trong mối quan hệ này là nguyên nhân và trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại
Ý nghĩa phương pháp luận
Tính nhân quả là tính khách quan và là quy luật con người có thể nhận thức, vận dụng nó

để đạt được mục đích của mình, tạo điều kiện cho nguyên nhân đi đến kết quả và ngược
lại, đồng thời hạn chế hoặc tiêu diệt những nguyên nhân, những điều kiện sinh ra hiện
tượng xấu
Cải tạo sự vật hay xóa bỏ sự vật chính là cải tạo hay xóa bỏ nguyên nhân sinh ra nó
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có
vị trí rất khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng
ta cần phải phân loại, xác định vai trò,vị trí của từng loại nguyên nhân để có những biện
pháp giải quyết đúng đắn
Tìm nguyên nhân xuất hiện cùa một hiện tượng nào đó, phải tìm trong chính hiện tượng
đó và phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ trước đó.

Câu 10: Trình bày quan niệm của triết học Mác – Lê nin về bản chất của nhận thức,
về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận
về vấn đề này.
a. Quan điểm của triết học Mác - Lê nin về bản chất của nhận thức:
13


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sang tạo thế giới khách quan
vào bộ óc của con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sang tạo ra những tri thức về thế giới
khách quan. Quan điểm về nhận thức của duy vật biện chúng được xuất phát từ các
nguyên tắc cơ bản:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập, khách quan với ý thức của con người.
- Thừa nhận khả năng nhận thức của con người là vô hạn.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.
- Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Nhận thức là một quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác, sáng tạo thế giới
khách quan vào đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.

b. Thực tiễn:
Chân lý là những tri thức đúng đắn phù hợp với hiện tượng khách quan và được thực tiễn
kiểm định. Thực tiễn là cơ sở, muc đích của chân lý, là tiêu chuẩn của chân lý.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn biểu diễn dưới nhiều hình thức song có thể quy về 3 hình thức cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở của tất cả các hình thức khác. Đây là hoat động con
người sử dụng công cụ lao động tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất.
- Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động cộng đồng người, các tổ chức khác nhằm cải
biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
- Hoạt động quan sát và thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động
thực tiễn.
Trong 3 hình thức hoạt động thì hđ SXVC là hđ cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người trong mọi thời kỳ lịch sử, nó có vai trò quyết định
đối với các hđ khác song giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau . HĐ CT –
XH & thực nghiệm KH có tác dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy hđ sản xuất vật chất phát
triển
c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức

-

+ Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các sự vật, hiện tượng mới bộc lộ những thuộc tính,
những mối liên hệ và quan hệ đem lại tài liệu về hiện tượng khách quan cho nhận thức.
Cho nên thực tiễn là cơ sở của nhận thức.
+ Thực tiễn là điểm xuất phát của nhận thức, chính những đòi hỏi của thực tiễn đã đề ra
yêu cầu, nhiệm vụ, cách thức, phương hướng của nhận thức
Thực tiễn làm cơ quan cảm giác con người ngày càng hoàn thiện, năng lực tư duy lô gic
không ngừng được củng cố và phát triển.
Thực tiễn tạo ra phương tiện làm cho nhận thức ngày càng mở rộng,hiện đại,có tác dụng

“nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Thực
tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt trong nhận thức. Nhận thức phải trải qua
nhận thức mới xét được quan niêm đúng hay sai.
14


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta luôn quán triệt quan điểm thực

-

a.













tiễn, quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn , đi sâu vào thực
tiễn, hoạt đọng thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm,

chủ quan, duy ý chí, giáo điều máy móc, quan lieu.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa thực tiễn sẽ rơi vào thực dụng kinh nghiệm XHCN.
Câu 11. Phân tích luận điểm của Lênin: từ trực quan sinh động đến tư duy trừ
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đượng biện chứng của sự
nhận thức chân lý, nhận thức thực tại khách quan. Ý nghĩa phương pháp luận của
luận điểm trên.
Phân tích luận điểm của Lênin
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu tiên, gắn liền với thực
tiễn và thông qua các giác quan trong đó:
Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật, hiện tượng
tác động vào các giác quan, gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện
các cảm giác. Cảm giác là hình ảnh phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng như màu sắc, mùi, vị, độ rắn... nó là cơ sở để hình thành nên tri giác
Tri giác là hình thức kế tiếp sau cảm giác. Tri giác không phản ánh từng thuộc tính riêng
lẻ, mà phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với
nhau: tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Cũng giống như cảm giác,
tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cánh trực tiếp thông qua các giác quan.
Biểu tượng là hình thức cao nhất của trực quan sinh động.
Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng
là hình ảnh về sự vật được lưu giữ trong chủ thể nhận thức khi sự vật không còn hiện
diện trực tiếp trước chủ thể. Con người không cần quan sát trực tiếp sự vật mà vẫn hình
dung ra chúng dựa trên sự tiếp xúc nhiều lần trước đó. Do đó ở biểu tượng, nhận thức đã
ít nhiều mang tính chất gián tiếp. Biểu tượng là khâu trung gian giữa trực quan sinh động
và tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức gồm
các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý:
Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng.
Nó phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản và phổ biến của một lớp các sự vật, hiện
tượng nhất định.

Khái niệm được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là kết quả của sự khái quát
những tri thức do trực quan sinh động đem lại.
Phán đoán là sự vận dụng các khái niệm trong ý thức con người để phản ánh mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng cũng như các thuộc tính, tính chất của chúng.
Có rất nhiều loại phán đoán khác nhau: phán đoán khẳng định, phán đoán phủ định, phán
đoán phổ biến, phán đoán đặc thù và phán đoán đơn nhất.
15


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

 Suy lý là quá trình lôgíc của tư duy tuân theo quy luật nhất định để tạo ra một tri thức

mới từ những phán đoán tiền đề.Tính chân thực của phán đoán kết luận phụ thuộc vào
tính chân thực của phán đoán tiền đề cũng như tính hợp quy luật của quá trình suy luận.
• Mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
- Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp,
phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại, nhận
thức lý tính là giai đoạn cao, phản ánh khách thể một cách gián tiếp, khái quát đem lại
những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức,
dựa trên cơ sở thực tiễn và hoạt động thần kinh cao cấp. Giữa chúng có sự tác động qua
lại: nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động
trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính
và nhận thức lý tính hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò của nhận
thức cảm tính) và chủ nghĩa duy lý (đề cao vai trò của nhận thức lý tính).

-


Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân lý hay là sai lầm. Ngoài ra,
mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
Thực tiễn không ngừng vận động biến đổi và phát triển, vì vậy, nhận thức lý tính phải
quy lại thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp.
Mục đích cuối cùng của nhận thức là để phục vụ hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội.
Một vòng của quá trình nhận thức được bắt đầu từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Kết thúc vòng này, cũng là sự bắt đầu của
vòng mới của nhận thức mới sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Sự vận động của quy luật chung
trong quá trình vận động phát triển nhận thức chính là quá trình con người, loài người
ngày càng tiến dần tới chân lý. Cứ thế, nhận thức của con người là vô tận.

b. Ý nghĩa phương pháp luận
- Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của quá trình nhận thức của con người. Nhận thức

-

-

của con người phải xuất phát từ thực tiễn và giải quyết những yêu cầu của thực tiễn đòi
hỏi.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt
được chân lý, đồng thời phải tự vận dụng chân lý vào thực tiễn để phát triển thực tiễn,
nâng cao hiệu quả hoạt động, cải biên tự nhiên và xã hội.
Nhận thức của chúng ta phải phát triển từ nhận thức cảm tính lên lý tính, phải không
ngừng tư duy trừu tượng để có tri thức mới. Chúng ta phải tích cực, không ngừng tổng
kết để rút ra lý luận mới

16



Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

-

-

-

1.
a.
-

-

b.
-

-



+
+

Phải từ thực tế từ kinh nghiệm và tổng kết thành lý luận do đó định ra đường lối chính
sách đúng phù hợp với thực tiễn. Ngược lại cũng phải biết vận dụng quy luật lý luận và
điều kiện hoàn cảnh cụ thể thành giáo điều dập khuôn máy móc tránh thoát ly thực tế.
Hai giai đoạn nhận thức gắn bó với chặt chẽ không tách rời.

+ Nếu tuyệt đối nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy cảm.
+ Nếu tuyệt đối hóa nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy lý.
Chống chủ nghĩa duy cảm tức là tuyệt đối vai trò của cảm tính, đồng thời chống duy lý
tuyệt đối hóa lý tính.
Câu 12: Nêu các quan niệm sản xuất vật chất, phương thức sản xuất, lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất. Trình bày nội dưng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. ý nghĩa của việc nắm vững mối quan hệ
này đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Khái niệm
Sản xuất vật chất:
Là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm cải biến
các dạng vật chất của tự nhiên để tạp ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại phát
triển của con người và xã hội.
Là hoạt động đặc trưng của con người. sxvc mang tính khách quan, tính lịch sử, tính xã
hội và tính sang tạo.
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch
sử nhất định của xã hội loài người.Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản
xuất nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết
định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất hữu cơ của hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khoẻ thể chất, kinh nghiệm,
kỹ năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động
để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Lực lượng sản
xuất nói lên năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục tự
nhiên. Nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ.
Trong lực lượng sản xuất gồm hai yếu tố cơ bản

Người lao động
Tư liệu sản xuất
Đối Tượng lao động (bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào
nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình)
Tư liệu lao động
17


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii




Công cụ lao động ( vật dụng con người sáng tạo ra)
Tư liệu lao động khác
Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau, chúng có quan hệ hữu
cơ với nhau trong đó yếu tố con người - người lao động giữ vị trí hàng đầu(Mở rộng: yếu
tố người lao động quan trọng vì Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao
động là chủ thể,. Đối tượng lao động và tư liệu lao động hợp thành tư liệu sản xuất là
khách thể của sản xuất. Không thể sản xuất được nếu thiếu tư liệu sản xuất. Nhưng, nếu
không có sức lao động của con người thì tư liệu sản xuất không thể phát huy được tác
dụng.Trong khi đưa tư liệu lao động và đối tượng vào sản xuất, sức lao động biến chúng
thành tư liệu sản xuất hiên thực. Do đó, chỉ có lao động của con người mới là yếu tố tích
cực, sáng tạo; là chủ thể của sản xuất. Lao động tạo ra những tư liệu sản xuất ngày càng
hiện đại và cũng chính lao động làm hoàn thiện bản thân con người. Vì thế, nhân tố con
người mãi mãi là yếu tố cơ bản số một của sản xuất). Trong tư liệu sản xuất công cụ lao
động là yếu tố quan trọng, có tính chất động nhất vì nó thường xuyên được cải tiến.
c. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu đối với

tư liệu sản xuất, ở quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ về mặt phân phối
sản phẩm sản xuất ra. Như vậy, quan hệ sản xuất gồm ba quan hệ:
- Quan hệ giữa con người với con người về sở hữu đối với tư liệu sản xuất;
- Quan hệ giữa con người với con người về tổ chức, quản lý sản xuất;
- Quan hệ giữa con người với con người về phân phối sản phẩm sản xuất.
Ba quan hệ trên trong quan hệ sản xuất thống nhất với nhau. Tuy nhiên, trong ba quan hệ
này thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm tư
liệu sản xuất trong tay, người ấy sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như
phân phối sản phẩm. Chính quan hệ sở hữu cũng quy định tính đặc trưng cho từng quan
hệ sản xuất của từng xã hội.
Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu tư nhân là hình thức mà trong đó
một thiểu số cá nhân nhất định sở hữu đại bộ phận những tư liệu sản xuất cơ bản của xã
hội, như hình thức sở hữu này lợi ích cá nhân tri phối quá trình sản xuất. Sở hữu xã hội là
hình thức sở hữu của cá nhân liên kết thành các tập thể sở hữu. Hoặc tư liệu xã hội cộng
sản nguyên thủy các công xã thời cổ, sở hữu XHCN. Trong sở hữu xã hội, lợi ích tập thể
của xã hội chi phối nền sản xuất xã hội.
( Mở rộng: Do vậy, quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh tế xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác. Mặc dù vậy, quan hệ tổ chức quản lý sản
xuất và quan hệ phân phối sản phẩm có ảnh hưởng quan trọng tới quan hệ sở hữu. Chúng
có thể góp phần củng cố hoặc phá hoại quan hệ sở hữu.

18


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát triển
lịch sử không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là quan
hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.)
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời nhau của phát triển
sản xuất.Chúng tác động lẫn nhau một cách biện chứng
- LLSX quyết định QHSX
- QHSX không chịu sự tác động một chiều của LLSX, nó có tính độc lập tương đối và nó
tác động lại LLSX
⇒ Mặc dù QHSX có thể tác động trở lại LLSX nhưng xét đến cùng nó vẫn chịu sự tác động
của LLSX
a. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức trong phát triển sản

xuất. Nội dung quyết định hình thức.
- Khi một phương thức sản xuất mới ra đời ở đó LLSX và QHSX là thống nhất với nhau.
Lúc này QHSX phù hợp với trình độ của LLSX ( QHSX đang “tạo địa bàn đầy đủ” cho
LLSX phát triển)
- Tuy nhiên Sự phù hợp này luôn có tính tương đối. do Lực lượng sản xuất là yếu tố động,
trong quá trình lao động con người không ngừng cải tiến công cụ do kinh nghiệm luôn
được tích lũy do nhu cầu sản xuất không ngừng tăng lên. Trong khi đó QHSX có khuynh
hướng bảo thủ, ổn định.
- Sự thường xuyên vận động phát triển của LLSX tới một độ nào đó sẽ trở nên mâu thuẫn
với QHSX đã trở nên lạc hậu.
- Mâu thuẫn cẽ ngày càng trở nên gay gắt và đạt đến đỉnh điểm khi QHSX trở thành
“Xiềng xích” của LLSX.
- Sự phát triển LLSX tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu cần thay đổi QHSX hiện có.
- Sự thay đổi QHSX chỉ có thể triệt để khi thông qua cách mạng xã hội
b. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất không chịu sự tác động của lực lượng sản xuất một cách thụ động mà
có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất có thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Khi quan hệ
sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển

- Nhưng khi quan hệ sản xuất phù hợp không phù hợp với lực lượng sản xuất thì trở thành
xiềng xích trói buộc đối với lực lượng sản xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng.
Sự không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có thể xảy ra theo 2 xu
hướng vượt quá hoặc lạc hậu so với lực lượng sản xuất.
19


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở chỗ, quan hệ
sản xuất quy định mục đích của nền sản xuất. Trên cơ sở đó tác động đến thái độ của
người lao động, tới tính tích cực ứng dụng khoa học, kỹ thuật hay cải tiến công cụ lao
động, v.v của người lao động. Từ đó tác động tới lực lượng sản xuất.
⇒ Kết luận : Mặc dù QHSX có thể tác động trở lại LLSX nhưng xét đến cùng nó vẫn chịu
sự tác động của LLSX
3. Ý nghĩa của quan hệ này với sự đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất rút ra ý
nghĩa phương pháp luận sau:
Thứ nhất: Đây là quy luật cơ bản và phổ biến của xã hội . Quy luật cơ bản nghĩa là quy
luật này quyết định các quy luật khác, các quy luật khác muốn giải quyết triệt để thì phải
trở về quy luật này.
- Trong quá trình xây dựng đường lối phát triển kinh tế, cần ưu tiên, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển; đặc biệt là ưu tiên phát triển con người và khoa học kỹ thuật,
công nghệ nhằm tạo ra hiệu quả, năng suất lao động.
- Muốn lực lượng sản xuất phát triển nhằm nâng cao năng suất lao động, thì đòi hỏi phải
tích cực cải tạo những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, lạc hậu kìm hãm, trói buộc lực
lượng sản xuất phát triển.VÍ DỤ : Xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp,
mệnh lệnh hành chính, cơ chế xin cho chuyển nhanh sang cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Trong quan hệ sản xuất cần thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý,

phân phối sản phẩm nhằm thu hút, kích thích người lao động tham gia tích cực vào quá
trình sản xuất, tạo ra năng suất lao động, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ 2: Nắm vững quy luật này giúp ta hiểu được chính sách, hiểu được con đường đi lên
chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam. Nước ta đang ở thời kỳ quá độ từ một nước sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu tiến thẳng lên một phương thức sản xuất cao hơn phát triển sản xuất
cộng sản bỏ qua phương thức sản xuất TBCN
Vận dụng quy luật này Ở Việt Nam: trước đổi mới, trong đổi mới.
• Trước đổi mới, chúng ta vận dụng không đúng quy luật này:
+ Chúng ta xây dụng Quan hệ sản xuất không trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất,cụ thể là đưa vào hợp tác xã quy mô cấp cao quá nhanh, cải tạo công thương
nghiệp ồ ạt mang tính chiến dịch.
+ Quan hệ sản xuất tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo thì chúng ta lại coi nhẹ lợi
ích cá nhân người lao động, dẫn đến triệt tiêu động lực bên trong của người lao động
hoạt động sáng tạo.
Những vấn đề trên chúng ta đã vận dụng không đúng quy luật này nên dẫn đến nền sản
xuất trì trệ, cản trở.
• Trong đổi mới, chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội. Là
Vận dụng sáng tạo quy luật này ở các căn cứ sau:
- Ở Việt Nam hiện nay, lực lượng sản xuất nhiều trình độ khác nhau (trình độ thủ công,
trình độ nửa cơ khí, cơ khí, tự động hóa) và không đồng đều , từ đây đòi hỏi Quan hệ sản
-

20


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

-

-


-

-

xuất phải nhiều hình thức để phù hợp.Ví dụ: Đa hình thức sở hữu:Tổ chức lao động trong
liên doanh liên kết, có nhiều hình thức phân phối không chỉ theo lao động như trước mà
phân phối thương mại,hoa hồng, cổ phần…
Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng chủ nghĩa xã hội,
đây là chiến lược lâu dài để khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế , nhanh
chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân.Cơ cấu kinh tế đa dạng nhiều thành phần sẽ là động lực thúc đẩy kinh tế phát
triển.
Câu 13: Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ý nghĩa của việc nắm vững mối quan
hệ này đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
1. Khái niệm
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của toàn bộ xã
hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong một xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất
định người ta tiến hành sản xuất bằng nhiều công cụ sản xuất ở các trình đọ khác nhay.
Do đó tồn tại nhiều kiểu QHSX khác nhau. Có ba loại cơ bản:quan hệ sản xuất thống trị,
quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới (mầm mống quan hệ sản của xã hội
tương lai).
Trong mối quan hệ của các quan hệ sản xuất của cơ sở hạ tầng, thì quan hệ sản xuất thống
trị bao giờ cũng giữ vai trò qui định, chi phối các quan hệ sản xuất khác.
Đặc trưng, bản chất của một cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Ví dụ:
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam phản ánh bản chất kinh tế - xã hội
hiện nay ở nước ta. Tương ứng với các kiểu quan hệ sản xuất trong một cơ sở hạ tầng là
các thành phần kinh tế khác nhau. Ví dụ: trong cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam bao
gồm rất nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế quốc

doanh, thành phần kinh tế tư nhân của người sản xuất nhỏ, thành phần kinh tế tư nhân tư
bản…
Trong xã hội có giai cấp thì cơ sở hạ tầng mang tính giai cấp. Bởi, nó đều phản ánh và
bảo vệ lợi ích cho những giai cấp khác nhau.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội: chính trị, pháp quyền, đạo đức,
triết học, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ và những thiết chế tương ứng: giai cấp, chính
đảng, nhà nước, giáo hội và các tổ chức xã hội khác được hình thành trên cơ sở hạ tầng
nhất định.
Trong các thiết chế khác nhau của KTTT, thì nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị là các bộ phận quan trọng nhất trong xã họi có giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, phản ánh tính giai
cấp ở trong cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì bộ phận thể hiện quyền
lực xã hội quan trọng nhất là nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị thể hiện quyền
thống trị xã hội của nó về mặt chính trị, pháp luật và các mặt quan hệ xã hội khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
CSHT quyết định KTTT
21


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

KTTT không chịu sự tác động một chiều của CSHT, nó có tính độc lập tương đối và nó
tác động lại CSHT
⇒ Mặc dù KTTT có thể tác động trở lại CSHT nhưng xét đến cùng nó vẫn chịu sự tác động
của CSHT
-

a) Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

Kinh tế quyết định chính trị

CSHT quyết định bộ mặt của KTTT: kết cấu tổ chức của KTTT đơn giản, gọn nhẹ hay
cồng kềnh thì đều do CSHT quyết định
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ, cơ sở
hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì đồng
thời thống trị về mặt tinh thần. Các mâu thuẫn về mặt chính trị tư tưởng xét đến cùng là
do mâu thuẫn về mặt kinh tế.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng
tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, hoặc giữa các
hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng
do nó sinh ra cũng sẽ mất theo và cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì một kiến trúc thượng
tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện.
Sự thay đổi CSHT dẫn đến sự thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp.Yếu tố thay đổi đầu
tiên, quan trọng nhất trong KTTT là yếu tố nhà nước. Trong XH có giai cấp sự thay đổi
đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, cách mạng XH.
Một khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng mất theo. Song, có
những nhân tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại rất lâu trong xã hội
mới, nhất là về mặt tư tưởng.
b) Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại cơ sở hạ tầng;
nhưng nhà nước, pháp luật và hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị tác động một
cách trực tiếp và quan trọng nhất trong xã hội có giai cấp đối kháng. KTTT sử dụng công
cự ở trong tay(đặc biệt là nhà nước) để tìm mọi cách duy trì CSHT thống trj, xóa bỏ
CSHT tàn dư của XH trước, ngăn chặn CSHT mầm mống.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng cũng có thể thúc đẩy
sự hoàn thiện và phát triển của cơ sở hạ tầng, đồng thời cũng có thể kìm hãm sự phát
triển của cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng cơ sở hạ tầng và thực
hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì nó củng cố bảo vệ và thúc đẩy
sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Ngược lại, nó phản ánh không đúng đối với cơ sơ hạ tầng
và không thực hiện đúng các chức năng của nó đối với cơ sở hạ tầng thì lại kìm hãm sự
phát triển của cơ sở hạ tầng

3. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các
kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm
22


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự thống
nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất
định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh tế do sự tác
động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó là hệ thống các qui luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hệ thống các qui luật
kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các qui luật kinh tề tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội
chủ nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà
nước không chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các thành
phần kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả các thành phần
kinh tế khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Trong đó, kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối với quá
trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút
phần lớn những người sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng phát huy
được mọi tiềm năng kinh tế góp phần vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội.
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng định lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi
chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh, v.v... Tư tưởng Hồ Chí Minh là
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta

trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
mang bản chất giai cấp công nhân, đội tiền phong của nó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, bảo đảm cho nhân dân ta là người chủ thật sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực xã hội
thuộc về xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi
khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trong
cuộc phát triển kinh tế và văn hóa phục vụ ngày càng cao của đời sống nhân dân. Các tổ
chức, thiết chế xã hội, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa đều hướng về mục tiêu chung làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ và văn minh.
Câu 14: khái niệm và kết cấu hình thái kinh tế - xã hội. Tại sao nói sự phát triển các
hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?
1.Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội:
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội
ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
XH đó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và với một KTTT được xây dựng trên
quan hệ sản xuất ấy.
2.Kết cấu
Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống, một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp,
trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng
tầng.trong
sự
liên
hệ
tác
động
qua
lại
23



Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii

Lực lượng sản xuất – là quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình sản xuất - là nền
tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi HTKT-XH. Xét đến cùng, lực lượng sản xuất quyết định
sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Bản thân các lực lượng sản
xuất không phải là sản phẩm riêng của một thời đại nào mà là sản phẩm của cả một quá
trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua các thời đại, là sự tiếp biến không ngừng của
lịch sử.
Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất - là những quan
hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác, không có những mối
quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Quan hệ sản xuất là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác.
Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng và trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy
trì

phát
triển

sở
hạ
tầng
sinh
ra
nó.
Ngoài các quan hệ cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng,
trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội còn có những quan hệ dân tộc, gia đình,..
3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế–xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội: lực lượng sản xuất quan hệ sản

xuất và kiến trúc thượng tầng không tách rời nhau, mà liên hệ biện chứng với nhau hình
thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.
Do tác động của quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động và
phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên
không phụ thuộc và ý trí, nguyện vọng chủ quan của con người.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố bảo
đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên của xã hội qui định khuynh hướng phát triển từ
thấp. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn
trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và được thay
thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế - xã hội mới cao
hơn ra đời. Như vậy, sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, sự chuyển
biến từ hình thái đó lên hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự phát triển thay thế
các hình thái kinh tế - xã hội.
Xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp
thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hạ tầng, trên đó hình thành nên kiến trúc
thượng tầng tương ứng. vì vậy khi QHSX thay đổi trực tiếp dẫn đến sự thay đổi của
CSHT, và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng đóng vai trò
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến
trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất
24


Trung Anh,Phan Dinh,Thu Thủy,Phương Maii


của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế
thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu
thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư
tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong
đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền,
triết học, tôn giáo, v.v.. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở
hạ tầng quyết định. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng
cũng thay đổi theo.Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái
kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản
thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội
Nguồn gốc của sự phát triển xã hội là do sự phát triển của sản xuất. Trong xã hội có giai
cấp đối kháng, do lợi ích của mình, giai cấp thống trị đã duy trì, bảo vệ quan hệ sản xuất
cũ bằng tất cả sức mạnh hiện có, đặc biệt dùng bộ máy nhà nước thống trị để chống lại
lực lượng của các giai cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến. Vì vậy muốn
thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản
xuất tiếp tục phát triển phải gạt bỏ sự cản trở của giai cấp thống trị, phải thông qua cuộc
đấu tranh giai cấp. Vì giai cấp thống trị có cả bộ máy quyền lực nhà nước để chống lại
các lực lượng tiến bộ, cho nên cuộc đấu tranh giai cấp ấy dẫn tới cách mạng xã hội.
Kết luận
Lịch sử loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội,
nhưng lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, không thể xem quá trình lịch sử là một công
thức hoặc như một đường thẳng. sự phát triển HTKT-XH là do hai quy luật trên, không
phải do ý muốn chủ quan của con người.Thực tế lịch sử diễn ra những hình thức quá độ
khác nhau của các dân tộc, một số dân tộc phải trải qua tuần tự các hình thái kinh tế-xã
hội, một số dân tộc lại bỏ qua một số hình thái để đạt được những bước phát triển nhanh
hơn.
Nhân loại hiện nay đang và sẽ trải qua hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình
thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa có ba giai đoạn phát triển: Thời kỳ quá độ từ tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa Cộng Sản.
Câu 15: Trình bày khái niệm, kết cấu tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Mối quan hệ

biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc
xâu dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay.
1.
a.
b.
-

Khái niệm, kết cấu:
Tồn tại xã hội:
Là toàn bộ những sinh hoạt vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất của một xã hội
Gồm: Phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên và dân cư.
Ý thức xã hội:
Là mặt tinh thần của đời sống xã hội gồm quan điểm, tình cảm,tâm trạng,…của xã hội
nảy sinh từ tồn tại xã hội trong những đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xã hội biểu hiện thông qua ý thức cá nhân. Tuy nhiên ý thức cá nhân không bao
giờ phản ánh đầy đủ ý thức xã hội.
25


×