MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
I. Lý do lựa chọn đề tài .............................................................................. 1
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài ........................................................... 3
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................... 3
IV. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 3
V. Nội dung của đề tài ................................................................................ 3
CHƯƠNG I ĐÓI NGHÈO VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH XOÁ ĐÓI
GIẢM NGHÈO............................................................................................... 4
1.1 Một số khái niệm và chuẩn mực về đói nghèo.................................. 4
1.1.1 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực về đói nghèo của thế giới ...... 4
1.1.2 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đói nghèo của Việt Nam ....... 8
1.2 Nguyên nhân của đói nghèo .............................................................. 11
1.2.1 Nguyên nhân khách quan ........................................................... 11
1.2.2 Nguyên nhân chủ quan ............................................................... 13
1.3 Ảnh hưởng của đói nghèo và sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo
.................................................................................................................... 14
1.3.1 Ảnh hưởng của đói nghèo ........................................................... 14
1.3.2 Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ......................................... 16
1.4 Các chính sách của nhà nước nhằm xoá đói giảm nghèo ............... 16
1.4.1 Chương trình 134-135 ................................................................. 21
1.4.2 Nghị quyết 30 a của Chính Phủ .................................................. 23
1.4.3 Chương trình xây dựng nông thôn mới ...................................... 25
1.5 Chương trình hỗ trợ của các tổ chức quốc tế ................................. 27
1.6 Các chương trình và thành tựu đạt được của Phú Thọ trong công
cuộc xoá đói giảm nghèo .......................................................................... 31
1.6.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu ..................................... 31
1.6.2 Tình hình phát triển kinh tế xã hội trong những năm qua ....... 33
1.6.3 Những khó khăn và thực trạng đói nghèo của tỉnh ................... 36
1.6.4 Những thành tựu đạt được từ các dự án xoá đói giảm nghèo của
tỉnh Phú Thọ.......................................................................................... 39
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO TRONG NĂM QUA CỦA
XÃ PHƯƠNG TRUNG HUYỆN ĐOAN HÙNG TỈNH PHÚ THỌ ....... 44
2.1 Những đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của xã Phương Trung
.................................................................................................................... 45
2.1.1 Đặc điểm về tự nhiên ................................................................... 45
2.1.2 Đặc điểm về kinh tế xã hội ........................................................... 48
2.2 Thực trạng phát triển kinh tế xã hội của xã giai đoạn 2006-2010 . 49
2.2.1 Nông nghiệp ................................................................................. 52
2.2.2 Lâm nghiệp .................................................................................. 53
2.2.3 Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ........................................ 54
2.2.4 Chăn nuôi .................................................................................... 55
2.2.5 Thương mại dịch vụ ..................................................................... 56
2.3 Thực trạng hạ tầng kinh tế xã hội xã so với chuẩn các tiêu chí xây
dựng nông thôn mới ................................................................................. 56
2.4 Thực trạng đói nghèo trong những năm gần đây của xã Phương
Trung ......................................................................................................... 63
2.4.1 Khái quát tình hình đói nghèo của huyện Đoan Hùng ............. 63
2.4.2 Tình hình đói nghèo của xã Phương Trung trong những năm
gần đây ................................................................................................... 64
CHƯƠNG III THỰC HIỆN DỰ ÁN TRỒNG CHÈ NHẰM MỤC TIÊU
XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI XÃ PHƯƠNG TRUNG HUYỆN ĐOAN
HÙNG TỈNH PHÚ THỌ ............................................................................. 68
3.1 Căn cứ của đề xuất ............................................................................. 68
3.1.1 Chiến lược tập trung phát triển cây chè của tỉnh Phú Thọ ....... 70
3.1.2 Điều kiện tự nhiên của vùng dự án............................................. 71
3.2 Nội dung dự án đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích chè trên địa
bàn huyện Đoan Hùng ............................................................................. 73
3.2.1 Đầu tư thâm canh ........................................................................ 75
3.2.2 Đầu tư mới, mở rộng diện tích .................................................... 75
3.3 Nguồn vốn đầu tư cho dự án ............................................................. 76
3.4 Hiệu quả của dự án đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo trên địa
bàn ............................................................................................................. 77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 81
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................... 87
TÓM TẮT LUẬN VĂN ............................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 89
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND
: Uỷ ban nhân dân
ECSAP
: Uỷ ban kinh tế Châu á thái bình dương liên hiệp quốc
GDP
: Thu nhập quốc dân
PQLT
: Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống
HDI
: Chỉ số về phát triển con người
PNUD
: Chương trình phát triển liên hiệp quốc
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
HĐND
: Hội đồng nhân dân
MDG
: Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
BHYT
: Bảo hiểm y tế
PCPNN
: Tổ chức phi chính phủ nước ngoài
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
PTNT
: Phát triển nông thôn
CNH-HĐH
: Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
BVTV
: Bảo vệ thực vật
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do lựa chọn đề tài
Đói nghèo là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, nó không chỉ là một
thực tế đang diễn ra ở đất nước ta mà còn là một tồn tại mang tính phổ biến
trong khu vực và trên toàn thế giới, ngay cả ở những nước phát triển cao vẫn
còn một bộ phận dân cư sống ở mức nghèo khổ. Vào những năm cuối của thế
kỷ 20 trên toàn thế giới vẫn còn hơn 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ
trong đó có khoảng 800 triệu người sống ở các quốc gia thuộc khu vực Châu
á- Thái Bình Dương. Bước vào thiên niên kỷ mới đói nghèo vẫn là một trong
những trở ngại và thách thức lớn nhất của nhân loại trên bước đường phát
triển hướng tới tương lai. Tuy nhiên mức độ và tỷ lệ dân cư đói nghèo là rất
khác nhau giữa các nước, các khu vực trên thế giới. Điều đó phản ánh sự
khác nhau về trình độ phát triển của các quốc gia mà trước hết là trình độ
phát triển của các quốc gia của nền kinh tế ở mỗi quốc gia đó.
Việt Nam là một trong những nước nghèo của thế giới với gần 80%
dân cư sống ở khu vực nông thôn và khoảng 70% lực lượng lao động làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Do sự phát triển chậm của lực lượng sản
xuất, sự lạc hậu về kinh tế, xuất phát điểm của chúng ta thấp, lực lượng lao
động chưa qua đào tạo còn nhiều đặc biệt là lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp. Do đó mà trình độ phân công lao động xã hội chưa cân đối và mức
tăng trưởng xã hội thấp chưa thực sự bền vững.
Với chủ trương phát triển một nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN có sự điều tiết của nhà nước. Đây vừa là nhiệm vụ chiến lược của
công cuộc phát triển kinh tế xã hội đồng thời là phương tiện để đạt được mục
tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh" mà muốn đạt
được mục tiêu đó thì trước hết phải xoá bỏ được đói nghèo và lạc hậu. Bởi
nhà nước không chỉ đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho nhân dân mà còn phải xoá
1
bỏ tận gốc các nguyên nhân gây ra đói nghèo. Để tập trung được các nguồn
lực và triển khai đồng bộ thống nhất và hiệu quả các giải pháp thì chính sách
xoá đói giảm nghèo phải trở thành chương trình mục tiêu quốc gia phù hợp
với định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm hỗ trợ trực tiếp
cho các xã nghèo, hộ nghèo. Các điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất
tăng thu nhập, ổn định đời sống, tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
Chủ trương của Đảng là tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từ đó mà
xác định chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo vừa có tính cấp bách
trước mắt vừa có tính lâu dài. Cũng như các tỉnh khác trong cả nước- Phú
Thọ là một tỉnh có tỷ lệ nghèo đói khá cao và đang từng bước thực hiện
chương trình xoá đói giảm nghèo để giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống thấp. Điều đó
được thể hiện trong các chủ trương đường lối chính sách phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh. Đoan Hùng là huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ chủ trương xoá
đói giảm nghèo được huyện uỷ ra nhiều nghị quyết được UBND huyện các
ban ngành đoàn thể của huyện, các xã trong huyện và toàn dân tổ chức thưc
hiện có hiệu quả từng bước giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức thấp nhất.
Phương Trung là xã miền núi của huyện Đoan Hùng nằm cách huyện lỵ
khoảng 15km về phía bắc là một xã còn rất khó khăn song trong những năm
qua Đảng bộ và nhân dân xã Phương Trung đã nỗ lực phấn đấu không ngừng
trong việc thực hiện các giải pháp chương trình phát triển kinh tế xã hội, xác
định và thực hiện các dự án phù hợp và là thế mạnh của địa phương góp phần
làm giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức thấp nhất.
Xã Phương Trung là nơi tôi đang công tác thực trạng đói nghèo của một
bộ phận nhân dân trong xã luôn là nỗi trăn trở của Đảng bộ và nhân dân địa
phương. Với mục đích vận dụng các kiến thức về khoa học quản lý, lãnh đạo
và quản lý, vận dụng lý thuyết vào thực tế tại đơn vị tôi đã chọn đề tài :
" Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu xoá đói
giảm nghèo trên địa bàn xã Phương Trung huyện Đoan Hùng tỉnh Phú
2
Thọ" làm luận văn tốt nghiệp. Thông qua đề tài này tôi cũng mạnh dạn đưa ra
những ý kiến đề xuất và kiến nghị góp một phần nhỏ bé nhằm khắc phục hiện
trạng đói nghèo của địa phương trong thời gian tới.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Phân tích đánh giá hiện trạng đói nghèo của xã Phương Trung so với các xã
trong huyện Đoan Hùng. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp để tổ chức thực
hiện thành công một số giải pháp phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu xoá
đói giảm nghèo.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng đói nghèo của xã Phương Trung và các
giải pháp phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên địa
bàn xã
Phạm vi nghiên cứu: Tại xã Phương Trung- huyện Đoan Hùng- Tỉnh Phú
Thọ
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
dựa trên cơ sở lý luận về khoa học quản lý, lãnh đạo và quản lý, vận dụng lý
thuyết vào thực tế tại đơn vị hành chính nhà nước UBND xã Phương TrungHuyện Đoan Hùng- Tỉnh Phú Thọ
V. Nội dung của đề tài
Luận văn gồm ba chương
Chương I: Đói nghèo và các chương trình xoá đói giảm nghèo
Chương II: Thực trạng đói nghèo trong những năm qua của xã Phương Trung
huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ
Chương III: Thực hiện dự án trồng chè nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo tại
xã Phương Trung huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ
Kết luận
3
CHƯƠNG I
ĐÓI NGHÈO VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1 Một số khái niệm và chuẩn mực về đói nghèo
Một hệ quả luôn đi kèm với sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập là
vấn đề đói nghèo. Quy mô và mức độ đói nghèo ở bất kỳ một quốc gia nào
đều phụ thuộc vào hai yếu tố: Thu nhập quốc dân bình quân và mức độ bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập. Rõ ràng là với bất kỳ mức thu nhập quốc
dân bình quân đầu người cho trước nào, việc phân phối càng không bình
đẳng bao nhiêu thì số người nghèo đói càng nhiều hơn bấy nhiêu. Tương tự
với bất kỳ một hình thái phân phối thu nhập cho trước nào nếu thu nhập bình
quân đầu người càng thấp thì mức độ đói nghèo càng cao.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo, quan niệm chung cho rằng:
Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu tối
thiểu của cuộc sống như ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục vv…Tình trạng đói nghèo
ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về mức độ, số lượng và tỷ lệ đói nghèo
theo thời gian và không gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức
sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy đói nghèo
luôn là vấn đề bức xúc trên toàn thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Những nuớc giàu có nền kinh tế phát triển cũng phải đối mặt với vấn đề đói
nghèo. Việc giải quyết vấn đề đói nghèo phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau trong đó có các yếu tố khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực về đói nghèo.
1.1.1 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực về đói nghèo của thế giới
Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ và nhận định "nghèo khổ"
theo 4 khía cạnh về thời gian, không gian về giới và môi trường.
4
- Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống dưới
mức chuẩn trong một thời gian dài để phân biệt với số người nghèo khổ tình
thế chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do thiên
tai, dịch bệnh, rủi ro.
- Về không gian: Nghèo đói chủ yếu diễn ra ở nông thôn nơi có đông dân
sinh sống. Bên cạnh đó tình trạng đói nghèo ở thành thị cũng có xu hướng
tăng.
- Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới, những hộ gia đình
nghèo nhất là những hộ do phụ nữ làm chủ. Trong những hộ nghèo đói do
đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
- Về môi trường: Phần lớn những người đều sống ở vùng sinh thái khắc
nghiệt, ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đang ngày
càng trầm trọng hơn. Tổ chức liên hiệp quốc không trực tiếp đưa ra khái niệm
đói nghèo của dân cư mà đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối như sau:"Nghèo
tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu cầu
cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống là những đảm bảo về
cuộc sống ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp xã hội, vệ sinh, y tế
và giáo dục."
Tổ chức ESCAP ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đưa ra khái niệm về
đói nghèo như sau: "Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu
này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và
phong tục tập quán của địa phương. Con người dù có sống ở chế độ xã hội
nào thì cũng cần có những nhu cầu tối thiểu cần thiết. Trong số các nhu cầu
đó thì nhu cầu về ăn, ở, mặc và đi lại được coi là những nhu cầu thiết yếu
nhất để đảm bảo cuộc sống. Tuỳ theo mức độ đảm bảo nhu cầu tối thiểu mà
nghèo đói của dân cư được chia thành nghèo hoặc rất nghèo. Sự thoả mãn
những nhu cầu cơ bản trên tuỳ thuộc vào sự thừa nhận của xã hội, trình độ
phát triển kinh tế và phong tục quán của từng địa phương.
5
Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo của một quốc gia bắt đầu bằng việc vạch
ra giới hạn nước giàu và nước nghèo trên thế giới. Giới hạn đói nghèo được
biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người
(GDP). Từ căn cứ đó đã thống kê được nước giàu nhất và nước nghèo nhất
hàng năm. Liên hiệp quốc đánh giá sự đói nghèo của một quốc gia bắt đầu từ
việc vạch ra giới hạn nước giàu nước nghèo. Để đánh giá sự nghèo đói của
một quốc gia cũng như hộ gia đình Liên hiệp quốc căn cứ vào mức thu nhập
và chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLT).
Từ đó khi đánh giá nước giàu nước nghèo các nhà nghiên cứu trên thế
giới đã đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống. Dựa vào chỉ số này
để đánh giá sự đói nghèo thông qua các chỉ tiêu sau:
- Tuổi thọ
- Tỷ lệ tỷ vong của trẻ sơ sinh
- Tỷ lệ xoá mù chữ
Trong những năm gần đây tổ chức UNDP đưa ra thêm chỉ số về phát triển
con người (HDI) bao gồm 3 chỉ tiêu chính sau:
- Tuổi thọ
- Tỷ lệ tỷ vong của trẻ sơ sinh
- Thu nhập
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới thì trong năm 2001 trên toàn thế giới
có 1,1 tỷ người tương ứng với 21% dân số thế giới có ít hơn 1 đô la Mỹ tính
theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo.
Phần lớn những người này sống tại Châu Á thế nhưng thành phần những
người nghèo trong dân cư tại Châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên
của Liên hiệp quốc trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã
nhất trí với mục tiêu cho đến năm 2015 giảm một nửa số những người có ít
hơn 1 đô la Mỹ. Điểm 1 của những mục đích phát triển thiên niên kỷ. Theo
thông tin của Ngân hàng thế giới vào tháng 4 năm 2004 thì có thể đạt được
mục đích này nhưng không phải ở tất cả các nước. Trong khi nhờ vào tăng
6
trưởng kinh tế tại nhiều vùng của Châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ
rệt từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á thì còn số những người nghèo nhất lại
tăng lên ở Châu Phi (gần gấp đôi từ năm 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc
Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng
lên đến 6% dân số. Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì
có tổng cộng là 2,7 tỷ người nghèo, gần một nửa dân số thế giới.
Nếu xếp theo thu nhập bình quân đầu người thì các nước sau có tỷ lệ người
nghèo cao nhất: Malawi, Tanzania, Guine-Bissau, Burundi và Yemen.
Bên cạnh nguyên nhân chính trị, nghèo đói cũng là một nguyên nhân lớn của
hiện tượng dân di cư từ vùng núi về đồng bằng, từ nông thôn về thành thị, từ
các nước thứ ba về các nước phát triển .
Để xác định được rõ hiện trạng đói nghèo cần phải thông qua các tiêu chuẩn
nhất định. Do đó xác định đói nghèo có 3 căn cứ làm chuẩn mực sau đây:
- Căn cứ nhu cầu cơ bản đây là nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống tối thiểu
những người đói nghèo thường chưa vượt qua được ngưỡng tối thiểu này.
Thông thường ở các quốc gia kém phát triển nhu cầu thiết yếu được quan tâm
hơn trong việc xác định đói nghèo.
- Căn cứ vào mức thu nhập thực tế của hộ gia đình so với mức thu nhập
trung bình của toàn xã hội. Mức thu nhập này phản ánh khả năng thoả mãn
nhu cầu, đặc biệt đối với người nghèo. Phần lớn thu nhập được chi tiêu cho
các nhu cầu cơ bản, thiết yếu hàng ngày. Điều này cũng phù hợp với sự thoả
mãn nhu cầu, nhu cầu bậc thấp được thoả mãn mới đến nhu cầu bậc cao hơn.
- Căn cứ vào tiềm lực kinh tế và lượng Kalori mỗi người/ngày dựa vào đó
mà có sự hỗ trợ cho nhóm người có mức sống thấp dẫn đến đói nghèo để họ
có ý trí vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Lương thực là một nhu cầu căn bản để
sinh tồn, nhưng khác với các sinh vật, con người cần sống và phát triển với
những nhu cầu vật chất và tinh thần khác. Nghèo lương thực là mức nghèo
tận cùng nhưng nghèo còn phát hiện dưới ba dạng khác là nhà ở, tiện nghi
7
trong gia đình và đời sống văn hoá. Do đó, nghèo khó cần xét qua dưới khía
cạnh mức sống.
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (PNUD) và các quốc gia của khối
OCDE thường dùng chỉ số phát triển con người HDI để đo lường mức sống
của người dân. Tuy nhiên vì lẽ mức sống và nhu cầu của các quốc gia giàu
nghèo khác nhau, nên có hai công thức khác nhau: một áp dụng cho các quốc
gia giàu phần lớn thuộc khối OCDE và một cho các quốc gia nghèo hay đang
phát triển.
HDI1 áp ụng cho các quốc gia nghèo được tính dựa vào ba yếu tố: tỷ lệ người
dân sống dưới 40 tuổi, tỷ lệ người đi học và tỷ lệ các tiện nghi (nước sạch,
điều kiện y tế và tử vong trẻ con dưới 5 tuổi)
HDI2 áp dụng cho các xứ giàu cũng dựa vào ba yếu tố như trên nhưng gia
tăng phẩm lượng (sống dưới 60 tuổi, tỷ lệ người đi học, tiện nghi tính theo tỷ
lệ người dân có hơn phân nửa lợi tức đồng niên trung bình) và thêm một yếu
tố thứ tư là tỷ lệ người thất nghiệp dài hạn (không có việc làm ít nhất 12
tháng)
1.1.2 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đói nghèo của Việt Nam
Nước ta vốn là một nước nghèo, kém phát triển thu nhập bình quân đầu
người hàng năm thấp nên vấn đề đói nghèo cần được xem xét một cách cụ
thể. Chính vì vậy nước ta thống nhất khái niệm và tách riêng thành hai khái
niệm đói, nghèo.
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần
các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống trung bình của cộng đồng trên
mọi phương diện . Nghèo bao gồm hai loại là nghèo tuyệt đối và nghèo tương
đối.
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Đó là các nhu cầu về
ăn, ở mặc, đi lại, văn hoá giáo dục, y tế và giao tiếp xã hội.
8
+ Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương.
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức sống tối thiểu
và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó
là những hộ dân cư mà hàng năm thiếu ăn dứt bữa dẫn đến đói nghèo, đói
giáp hạt, đói gay gắt, thường xuyên phải vay nợ cộng đồng nhưng không có
khả năng chi trả.
Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam dựa trên hai chỉ tiêu đánh giá là
chỉ tiêu chính và chỉ tiêu phụ:
- Chỉ tiêu chính: Căn cứ vào thu nhập bình quân đầu người một tháng hoặc
một năm được đo bằng chỉ tiêu giá trị quy đổi thành tiền để làm thước đo
đánh giá.
- Chỉ tiêu phụ: Căn cứ vào chất dinh dưỡng, bữa ăn, nhà ở, đi lại và các
điều kiện được học tập khám chữa bệnh, tư liệu sản xuất điều kiện hưởng thụ
tiện nghi đồ dùng sinh hoạt.....
Để đưa ra được chuẩn mực chính xác về đói nghèo nước ta căn cứ vào
từng vùng từng khu vực khác nhau để có được những chuẩn mực cụ thể. Từ
đó Bộ Lao động thương binh và xã hội có căn cứ đưa ra các chuẩn mực cho
các vùng miền, các khu vực ở từng thời gian từng giai đoạn.
Theo quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ
trưởng Bộ Lao động thương binh và xã hội công bố chuẩn đói nghèo được
quy định theo mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như
sau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo quy định hộ nghèo là hộ có thu nhập bình
quân cho mỗi khẩu trong hộ là 80.000 đồng/người/tháng bằng 960.000
đồng/người/năm trở xuống.
- Vùng nông thôn đồng bằng là 100.000 đồng/người/ bằng 1.200.000
đồng/người/năm trở xuống
9
- Vùng thành thị là 150.000 đồng/người/tháng bằng 1.800.000 đồng/người
/năm trở xuống.
Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo lường mức độ nghèo của
các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với chuẩn nghèo bình quân trên thế
giới. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam 170/205/QĐ-TTg
ký ngày 08/7/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006-2010
- Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ
260.000/đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.
Mực thu nhập bình
Mức thu nhập bình
quân
quân
Khu vực nông thôn
Khu vực thành thị
(đồng/người/tháng)
(đồng/người/tháng)
1993
15 kg
20kg
1999
115.000
150.000
2002
112.000
146.000
2004
124.000
163.000
Giai đoạn 2000-2005
80.000
150.000
Giai đoạn 2006-2010
200.000
260.000
STT
Trong suốt những năm 1990, chuẩn nghèo là số thu nhập tương đương
sức mua 15,20,25 kg gạo mỗi tháng áp dụng cho tất cả các miền của Việt
Nam. Từ năm 1998 số kg gạo được chuyển thành tiền. Tính theo tiêu chuẩn
nghèo Bộ Lao động công bố tỷ lệ người nghèo vào năm 2001 là 17%, năm
2004 là 3.33% ở thành thị và 8.13% ở nông thôn. Theo tiêu chuẩn mới của
giai đoạn 2006-2010 tỷ lệ người nghèo sẽ tăng lên 26%.
10
Cho đến năm 2009 theo chuẩn nghèo trên cả nước Việt Nam hiện có 2 triệu
hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số.
Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới chuẩn mực đói nghèo
sẽ được thay đổi theo thời gian từ 2 đến 3 năm một lần. Điều này chủ yếu phụ
thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Ngoài chuẩn mực về
hộ đói nghèo còn quy định về xã nghèo. Theo văn kiện chương trình quốc gia
về xoá đói giảm nghèo thì xã nghèo là xã thiếu hoặc yếu 6 công trình hạ tầng
cơ sở là điện lưới phục vụ sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm y tế,
chợ mua bán và nước sinh hoạt tỷ lệ đói nghèo và tỷ lệ mù chữ cao
1.2 Nguyên nhân của đói nghèo
Con người sinh ra ai cũng có mong muốn có cơm ăn, áo mặc được học
hành có việc làm, có công cụ và tư liệu sản xuất, có đồ dùng và phương tiện
sinh hoạt từ đơn sơ đến hiện đại.
Song do môi trường và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên vẫn còn tồn tại
một bộ phận dân cư sống trong cảnh nghèo đói. Nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo thì có nhiều ở đây ta nghiên cứu hai nhóm nguyên nhân chính là:
1.2.1 Nguyên nhân khách quan
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến
tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang,
bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát
trong chiến tranh, thương tật hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh,
học tập cải tạo trong một thời gian dài.
Đây là nhóm nguyên nhân do khách quan, ngoại cảnh, điều kiện tự nhiên và
sự phát triển kinh tế xã hội mang lại cụ thể bao gồm 3 nguyên nhân sau:
Do điều kiện tự nhiên và môi trường đất đai, khí hậu, địa hình Việt Nam
là nước nghèo và lạc hậu điều kiện tự nhiên không thuận lợi thiên tai, bão lũ,
hạn hán thường xuyên xảy ra gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời
sống của nhân dân. Đây là mối lo vừa hiện hữu và tiềm ẩn của công tác xoá
đói giảm nghèo. Dân cư đông đất đai ít lại cằn cỗi, độ màu mỡ thấp, điều kiện
11
canh tác khó khăn, năng suất thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.
Vùng núi dân cư thưa thớt, địa hình chủ yếu là đồi núi, giao thông đi lại khó
khăn, khí hậu khắc nghiệt cơ sở hạ tầng chậm phát triển cũng là nguyên nhân
gây ra đói nghèo.
Do trình độ phát triển kinh tế xã hội, xuất phát điểm của nền kinh tế nước
ta thấp, tập quán canh tác lạc hậu, chiến tranh kéo dài, cơ chế quan liêu bao
cấp tồn tại quá lâu đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Việc áp dụng
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập thể của các tư liệu sản xuất
chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất. Hệ thống
cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí chưa cao. Đây là những nguyên nhân
liên quan đến việc giải quyết tận gốc rễ vấn đề đói nghèo.
Do cơ chế chính sách sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính
sách tập thể hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá
lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt
Nam. Làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông
thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
Cơ chế chính sách có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mức sống và
thu nhập của dân cư. Vì cơ chế chính sách tác động đến việc kiểm soát khả
năng các nguồn lực. Việc để kéo dài quá lâu cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp
đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Kinh tế chậm phát triển
kéo theo các hệ luỵ xã hội mà đói nghèo là hệ luỵ nổi cộm, gây nhức nhối
bức xúc nhất cho xã hội.
Khi đất nước đổi mới, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp được chuyển
sang cơ chế của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự điều tiết
của nhà nước. Trong điều kiện một nước nghèo chậm phát triển xuất phát
điểm thấp nên tiềm lực kinh tế của đất nước rất hạn chế, khó khăn. Do vậy
mà chính sách xoá đói giảm nghèo ngay lập tức chưa đáp ứng thoả mãn được
các yêu cầu xoá đói giảm nghèo. Nguồn lực đầu tư chưa đủ để chuyển dịch
12
cơ cấu kinh tế xây dựng các cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, giáo dục,
y tế ....đặc biệt là vùng núi, vùng sâu vùng xa.
1.2.2 Nguyên nhân chủ quan
Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành tựu
nhưng số lượng người nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4.6 triệu hộ)
do rất nhiều nguyên nhân.
Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74.1% dân số sống
ở nông thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm
quốc gia thấp. Hệ số Gini là 0.42 và hệ số chênh lệch là 8.1 nên bất bình đẳng
cao trong khi thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp. Sự chênh lệch lớn
giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn giữa các dân tộc cao. Môi trường
sớm bị huỷ hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào nông nghiệp.
Do trình độ sản xuất người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản
xuất mà chưa có các thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như :
Thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp,
rủi ro về giá sản phẩm đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường
trước được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham
nhũng.
- Người lao động chưa được qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn đặc biệt số lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp thì đại bộ phận là chưa qua đào tạo. Đây là khó
khăn rất lớn trong lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật trong việc vận dụng khoa
học kỹ thuật vào trong sản xuất.
- Các hộ gia đình còn thiếu năng động sáng tạo trong sản xuất chưa mạnh dạn
áp dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất.
- Chưa biết tận dụng hết các tiềm năng sẵn có. Không chịu khó học hỏi và
vận dụng các kinh nghiệm các phương pháp làm ăn có hiệu quả.
Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy ở mức khá
nhưng chủ yếu do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập
từ dầu mỏ trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa
13
thay đổi kịp thời, vẫn còn ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu
quả còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường
còn thấp, nông dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước.
Do bản thân người nghèo thiếu kiến thức, bản thân gia đình nghèo cho
nên không có tiền để đầu tư cho việc học tập nâng cao sự hiểu biết. Không có
khả năng am hiểu kiến thức một cách sâu sắc cụ thể. Từ đó việc tiếp cận với
các thành tựu khoa học mới bị hạn chế nên người nghèo không nắm bắt được
các thông tin thay đổi trong sản xuất và trong cuộc sống.
- Thiếu kinh nghiệm làm ăn đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến nghèo đói. Người nghèo đã thiếu kiến thức lại thiếu thêm cả kinh nghiệm
làm ăn thì việc sản xuất và phát triển kinh tế vì thế dẫn đến đói nghèo.
- Thiếu vốn và thiếu lao động là nguyên nhân cơ bản xuyên suốt đối với các
hộ nghèo.
Bên cạnh những nguyên nhân cơ bản trên còn có các nguyên nhân khác
dẫn đến đói nghèo như thiếu đất canh tác, gia đình đông con nhiều người ăn
theo, gặp tai nạn rủi ro, gia đình có người mắc tai tệ nạn xã hội, lười lao động
cũng dẫn đến tình trạng đói nghèo.
Có thể nói rằng để xoá đói giảm nghèo đạt được hiểu quả thực sự cần phải
xác định rõ được nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Phân chia các nguyên nhân
đó thành các nhóm nguyên nhân cụ thể để từ đó đưa ra các biện pháp đúng
đắn phù hợp cho mỗi loại nguyên nhân
1.3 Ảnh hưởng của đói nghèo và sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo
1.3.1 Ảnh hưởng của đói nghèo
Hiện tượng đói nghèo là trong cộng đồng dân cư có những hộ gia đình
đạt mức thu nhập dưới mức tối thiểu theo quy định của Nhà nước. Đói nghèo
liên quan đến thu nhập và mức sống của cộng đồng những người nghèo trong
xã hội đó. Đói nghèo dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về thu nhập trong xã
hội. Đói nghèo gây ảnh hưởng xấu tới quá trình phát triển kinh tế xã hội cụ
thể như sau:
14
- Thứ nhất: Đói nghèo làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.
Sự giàu có làm cho con người thoả mãn được nhiều nhu cầu dẫn tới cuộc
sống được nâng cao làm tăng tính tự chủ của con người. Sự thoả mãn về vật
chất và nhu cầu về văn hoá tinh thần ở một số nước có trình độ phát triển cao
cũng không che lấp được thực trạng hiển nhiên về đói nghèo, nguy cơ tụt hậu
ngày càng xa.
- Thứ hai: Đói nghèo làm ảnh hưởng đến tăng trưởng của nền kinh tế.
Đói nghèo của dân cư đã và đang là lực cản lớn đến công cuộc phát triển kinh
tế xã hội của các nước nghèo, các nước có nền kinh tế chậm phát triển.
Xã hội phát triển là dựa vào sự năng động vào những lao động sáng tạo tạo ra
của cải vật chất và tinh thần của con người. Nếu không có các hoạt động lao
động này thì không thể duy trì được cuộc sống của loài người trên trái đất.
- Thứ ba: Đói nghèo ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực.
Trước hết con người muốn lao động được họ phải có đủ sức khoẻ về thể lực
và trí lực. Họ cần phải được tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt nhất định như
ăn uống phải đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, phải được học hành đào tạo mới
đủ thể lực và trí lực để thực hiện một công việc lao động nào đó. Cho dù lao
động đó là lao động giản đơn hay lao động phức tạp là lao động chân tay hay
lao động trí óc thì con người đều phải tiêu hao một năng lượng nhất định.
Tính chất lao động càng phức tạp, cường độ lao động càng cao bao nhiêu thì
đòi hỏi càng phải tiêu hao nhiều năng lượng bấy nhiêu. Có như vậy mới đảm
bảo được chất lượng của các hoạt động lao động đó. Do vậy mà đối với
người nghèo đói về mặt dinh dưỡng họ đã không đủ đảm bảo thì làm sao họ
có đủ thể lực và trí lực để thực hiện các hoạt động lao động có hiệu suất cao.
Một mặt khác người nghèo đói lại không có khả năng điều kiện học tập,
đào tạo do đó họ thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết cho nên họ không thể đáp
ứng được các kỹ năng hoạt động và lao động ngày càng hiện đại của xã hội.
Vì thế cho nên đói nghèo ảnh hưởng lớn tới chất lượng nguồn nhân lực.
15
- Thứ tư : Đối với xã hội đói nghèo về kinh tế luôn dẫn tới sức ép về xã
hội.
Khó khăn về kinh tế làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong xã hội làm
giảm lòng tin của dân chúng. Đói nghèo kéo theo sự gia tăng các tệ nạn xã
hội làm gay gắt thêm những bất bình đẳng về xã hội.
1.3.2 Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo
Hệ luỵ của đói nghèo gây ảnh hưởng rất xấu đến mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội nó làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Ảnh
hưởng xấu đến nguồn nhân lực, làm gia tăng các mâu thuẫn và các tệ nạn xã
hội. Nó làm hạn chế khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một nước Việt Nam" dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh". Muốn đạt được mục
tiêu đó thì trước hết phải xoá bỏ được đói nghèo và lạc hậu.
Đói nghèo có thể nói như là "căn bệnh kinh niên" của xã hội. Tỷ lệ nghèo
đói là chỉ tiêu phản ánh chất lượng cuộc sống và là thước đo xếp hạng cho
một xã hội. Bởi vì thước đo trình độ phát triển kinh tế xã hội được sử dụng
rộng rãi nhất là chỉ số phát triển con người HDI, chỉ số này bao gồm 3 chỉ
tiêu thành phần:
- GDP bình quân đầu người
- Tuổi thọ trung bình
- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh
Người nghèo đói có thu nhập thấp mà phần lớn thu nhập của họ dành cho
các nhu cầu thiết yếu như ăn, ở, mặc, đi lại ít có khả năng chi tiêu cho học
tập, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ. Do vậy mà người nghèo đói
thường có học vấn thấp, tuổi thọ thấp. Sự bất bình đẳng trong thu nhập có thể
dẫn tới sự bất bình đẳng trong địa vị xã hội. Điều này làm các mâu thuẫn và
các tệ nạn xã hội gia tăng và phát triển dẫn đến bất ổn về chính trị an ninh xã
hội.
1.4 Các chính sách của nhà nước nhằm xoá đói giảm nghèo
16
Muốn tình hình kinh tế xã hội phát triển, ổn định về chính trị trước hết
phải xoá được đói giảm được nghèo, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân.
Xoá đói giảm nghèo là việc làm cấp bách và cần thiết, vừa là nhiệm vụ trọng
tâm trước mắt vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài. Tính chất lâu dài của công tác
xoá đói giảm nghèo được thể hiện qua một số nội dung sau:
- Thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo là để đảm bảo công bằng xã hội.
Thực tiễn cho thấy có những nguyên nhân nảy sinh đói nghèo không phải do
môi trường, xã hội, không do điều kiện kinh tế mà do hoàn cảnh và đặc điểm
của từng cá nhân, từng hộ gia đình.
- Mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội là dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh và thực hiện được mục tiêu này là cả một quá trình
gian khổ lâu dài.
- Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đổi mới nền kinh tế phát
triển, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa có
sự điều tiết của nhà nước. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn
có xu hướng phân hoá hai cực giàu nghèo. Cùng với tăng cường sự quản lý
và điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên,
liên tục và lâu dài trên con đường xây dựng đất nước đồng thời nhiệm vụ xoá
đói giảm nghèo cũng là vấn đề phải tiến hành liên tục lâu dài mới giải quyết
được. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ trước mắt bởi vì đói nghèo đang hiện
hữu gây nhức nhối, bức xúc trong xã hội . Vì vậy mỗi bước phát triển kinh tế
đồng thời phải là một bước cải thiện đời sống nhân dân. Thành công của công
cuộc xoá đói giảm nghèo là điều kiện nâng cao mọi mặt đời sống của cộng
đồng dân cư.
Lúc sinh thời Bác Hồ kính yêu hằng mong ước " nhân dân ta ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được hành" nguyện ước của Bác nay là mục tiêu phấn đấu
của toàn Đảng toàn dân ta cùng với đổi mới để phát triển kinh tế đồng thời
phải đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy phong trào xoá đói giảm nghèo xuống
17
mức thấp nhất. Đó vừa là mục tiêu đồng thời là phương tiện để xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Trong những năm qua, được sự chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền và
sự hỗ trợ của các đoàn thể, phong trào xoá đói giảm nghèo phát triển sâu
rộng, động viên được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân đã giúp cho nhiều hộ
vượt qua đói nghèo, một số vươn lên khá giả. Từ thực tiễn phong trào xoá đói
giảm nghèo, Nghị quyết trung ương 5 khoá VII đã nêu lên một nhiệm vụ của
ý nghĩa kinh tế- chính trị xã hội to lớn: “Tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xoá
đói giảm nghèo nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng”. Thực hiện chủ trương của Đảng
và Chính Phủ, phong trào xoá đói giảm nghèo đang trở thành cuộc vận động
lớn, có tác dụng thiết thực làm giảm đáng kể số hộ nghèo đói, giúp cho các
hộ còn nghèo, đói giảm bớt được khó khăn. Tuy nhiên đến nay cả nước vẫn
còn trên 20% số hộ đói nghèo, nhiều vùng còn nghèo, 90% hộ nghèo tập
trung chủ yếu ở nông thôn. Sự phân hoá giàu nghèo vẫn đang có xu hướng
tăng lên giữa các tầng lớp dân cư và các vùng của đất nước. Ngoài nguyên
nhân khách quan do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hậu quả nặng nề của
chiến tranh, thiếu đất canh tác, thiếu vốn, thiếu việc làm còn có các nguyên
nhân chủ quan như năng lực sản xuất kinh doanh thấp, đông con, có nơi có
lúc các ngành, các cấp chưa quan tâm đúng mức đến việc chỉ đạo thực hiện
công tác xoá đói, giảm nghèo, tổ chức khám chữa bệnh, tạo điều kiện học
hành cho người nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc ít người.
Đại hội Đảng VIII đề ra mục tiêu “giảm tỷ lệ nghèo, đói trong tổng số
hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn không 10% vào năm 2000,
bình quân giảm 300.000 hộ/ năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm,
tập trung xoá về cơ bản nạn đói kinh niên”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu
này, Bộ chính trị yêu cầu các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban cán sự Đảng, Đảng
18
đoàn, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo tốt những nội dung:
chỉ đạo giải quyết một số vấn đề về chính sách.
Về vấn đề ruộng đất không để nông dân mất ruộng đất canh tác quanh
năm phải sống bằng nghề làm mướn. Thực hiện chính sách hạn điền ở cả
vùng đồng bằng, trung du, miền núi (với mức hạn điền khác nhau). Có chính
sách hỗ trợ để những hộ nghèo đã nhượng đất có thể chuộc lại đất canh tác
trên cơ sở thoả thuận, vận động cán bộ, viên chức Nhà nước đã mua đất, thuê
đất, thuê nông dân lao động chuyển nhượng lại đất cho những người lao động
thiếu đất canh tác. Khai hoang, phục hoá tạo thêm quỹ đất nơi còn đất khai
hoang chưa có chủ thì cấp cho các hộ chưa có hoặc thiếu đất canh tác. Vận
động và giúp đỡ các hộ nông dân nghèo đến các vùng kinh tế mới hoặc hỗ trợ
vay vốn mua sắm tư liệu sản xuất, hỗ trợ đào tạo nghề để mở mang ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, tạo điều kiện để họ có việc làm, thu nhập
bảo đảm đời sống. Phát triển kinh tế trang trại ở trung du, miền núi, khuyến
khích phát triển trang trại của người lao động, không phát triển trang trại kiểu
tư bản chủ nghĩa của cán bộ. Việc sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng công
nghiệp, giao thông đô thị phải trên cơ sở giải quyết việc làm và thu nhập cho
nông dân, không được để nông dân bị bần cùng hoá. Việc giao đất trồng rừng
bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo cho người dân sống được bằng nghề
rừng.
Phát động sâu rộng phong trào tiết kiệm trong xây dựng, mua sắm hàng
hoá tiêu dùng cao cấp, hội họp ăn uống để tập trung nguồn lực từ ngân sách
Nhà nước cho công tác xoá đói giảm nghèo. Mở rộng các hình thức tín dụng
cho các hộ nghèo vay vốn với cơ chế phù hợp thủ tục đơn giản. Vận động
nhân dân tiết kiệm trong tiêu dùng, khuyến khích các hình thức tạo vốn do
dân tự lập theo từng nhóm nhỏ dưới sự hỗ trợ giúp đỡ của các đoàn thể quần
chúng để giúp nhau vốn sản xuất kinh doanh.
Có chính sách và cơ chế khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền
thống ở nông thôn, mở mang tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Dành một phần
19
quỹ xoá đói giảm nghèo để hướng dẫn cách làm ăn, dạy nghề thích hợp với
từng vùng, từng địa phương. Đưa công nghiệp nhỏ vào nông thôn trước hết là
công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu để tạo thêm việc làm và thu nhập cho các hộ nghèo.
Tăng cường hoạt động của thương nghiệp quốc doanh ở thị trường nông
thôn, đẩy mạnh xây dựng kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Thực hiện liên minh
kinh tế giữa Nhà nước và nông dân, tổ chức trực tiếp mua sản phẩm của nông
dân và bán vật tư, hàng hóa cho nông dân. Không để cho tư thương chèn ép,
bóc lột nông dân, không thả nổi nông dân cho thị trường tự do chống đầu cơ
ép giá gây thiệt hại cho nông dân.
Đổi mới, củng cố mở rộng các nông thôn, lâm trường quốc doanh vùng sâu,
vùng xa, vùng căn cứ cách mạng để các cơ cở này thực sự trở thành trung
tâm kinh tế tài chính thương mại, khoa học công nghệ, văn hoá, tạo điều kiện
để các hộ nông dân nói chung nhất là nông dân nghèo trở thành những vệ tinh
để phát triển kinh tế xã hội đảm bảo an ninh quốc phòng trong vùng.
Từng bước thực hiện chính sách miễn giảm học phí và cấp học bổng cho
con em các hộ nghèo nhất là con em đồng bào dân tộc ít người, đào tạo dạy
nghề miễn phí, giảm phí tại các cơ sở đào tạo, trung tâm dạy nghề của Nhà
nước, đoàn thể, tổ chức xã hội.
Thực hiện chính sách miễn giảm phí khám chữa bệnh cho người nghèo,
từng bước mở rộng hình thức cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ
nghèo. Các đoàn thể, tổ chức, doanh nghiệp động viên các cơ sở và cán bộ y
tế nhà nước và tư nhân tham gia khám chữa bệnh không lấy tiền của người
nghèo.
Nhà nước (trung ương và địa phương) hỗ trợ ngân sách, vận động các
tỉnh, thành phố, các vùng giàu, khá hơn, trường học, trạm xá, đường giao
thông, chợ cho các xã nghèo.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và triển khai tổ chức thực hiện
của Nhà nước.
20
Các cấp uỷ Đảng từ trung ương tới cơ sở tăng cường công tác giáo dục
tư tưởng làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân nâng cao nhận thức xoá đói,
giảm nghèo là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược ổn định, phát triển
kinh tế xã hội. Thực hiên định hướng xã hội chủ nghĩa, kế tục và phát huy
truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc. Trên cơ sở đó tập trung mọi
nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo bao gồm nguồn từ ngân sách Nhà nước,
nguồn do dân gây quỹ xoá đói, giảm nghèo và tài trợ quốc tế.
Đảng bộ chi bộ cơ sở phải là nòng cốt chỉ đạo công tác xoá đói giảm
nghèo, phải nắm cụ thể từng hộ nghèo để có biện pháp hỗ trợ trong từng thời
kỳ, phấn đấu không còn gia đình đảng viên đói nghèo để nêu gương cho quần
chúng.
Tỉnh uỷ, thành uỷ cần chỉ đạo sát sao các hoạt động của Ban chỉ đạo xoá
đói giảm nghèo của tỉnh, thành phố. Định kỳ nghe ban chỉ đạo báo cáo và cho
chủ trương giải quyết, chương trình xoá đói giảm nghèo phải được Hội đồng
nhân dân các cấp thông qua.
1.4.1 Chương trình 134-135
Chương trình 134-135 là cốt lõi của công cuộc xoá đói giảm nghèo đây là
sự nghiệp to lớn, bền bỉ và lâu dài. Vì vậy cần phát huy những mặt đã làm
tốt, khắc phục nhược điểm, từ đó tiếp tục tập trung triển khai chương trình để
đạt được những kết quản bền vững hơn. Chương trình 134-135 đã khẳng định
tính đúng đắn của đường lối chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước và
Chính phủ là không ngừng chăm lo, cải thiện đời sống của đồng bào các dân
tộc phù hợp với điều kiện của đất nước. Đây được coi là những chính sách
hợp lòng dân được các tổ chức quốc tế đánh giá cao và quan tâm hỗ trợ vốn.
Sau bốn năm tổ chức triển khai thực hiện ở 53 tỉnh, thành phố trên cả
nước đã đáp ứng được niềm mong đợi của một bộ phận đồng bào dân tộc và
tháo gỡ cho nhiều địa phương những khó khăn bức bách về đất sản xuất, đất
ở, nhà ở và nước sinh hoạt.
21
Theo tổng kết của Ban chỉ đạo các chương trình giảm nghèo của Trung
ương đến hết năm 2008 đã hỗ trợ được gần 380.000 nhà ở cho đồng bào
nghèo, đạt 111% so với mục tiêu đề ra với nguồn vốn được thực hiện gần
2000 tỷ đồng. Thực tế cho thấy địa phương nào làm tốt phương châm nhân
dân tự làm, nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ thì nơi đó nhà ở được làm
tốt.
Sau 3 năm triển khai Chương trình 135 trên địa bàn 43 tỉnh, thành phố
hơn một triệu hộ nông dân đã được hỗ trợ phát triển sản xuất với trên 2.300
tấn giống cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, trên 100.000 máy móc
thiết bị, công cụ phục vụ sản xuất, tổ chức tập huấn khuyến nông, khuyến
lâm, hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho khoảng
210.000 lượt người. Tổng kinh phí của dự án hỗ trợ phát triển sản xuất đã
giải ngân sau 3 năm đạt gần 700 tỷ đồng, hoàn thành trên 83% kế hoạch giao.
Riêng về việc triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, chương trình đã
đầu tư xây dựng trên 8.200 công trình hạ tầng thiết yếu. Chương trình 135 đã
góp phần giảm tỷ lệ nghèo các xã đặc biệt khó khăn từ 47% năm 2005 trước
khi thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II xuống còn 35.6% năm 2008, mỗi
năm giảm được 3-4% hộ nghèo. Kết thúc năm 2008 có trên 93% xã cơ bản đã
được đầu tư xây dựng đầy đủ các công trình hạ tầng thiết yếu….
Nhằm hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo phát triển sản xuất, cải thiện
đời sống, giảm nghèo nhanh, bền vững, ngày 20/7/2004 Thủ tướng Chính
Phủ đã ban hành Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ
trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho các hộ dân tộc thiểu số
nghèo, đời sống khó khăn. Đây là quyết định quan trọng thể hiện sự quan tâm
đặc biệt của Đảng, Nhà nước, Chính Phủ đối với đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo.
Ngày 10/01/2006 Thủ tướng Chính Phủ ban hành quyết định số
07/2006/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc
biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010 gọi tắt
22