Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG BÀI VĂN MẪU NHỮNG SO SÁNH TRONG CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ VÀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.05 KB, 30 trang )

VĂN MẪU 11: CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ – NGUYỄN TUÂN
NHỮNG BÀI VĂN MẪU NHỮNG SO SÁNH TRONG CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
VÀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Đề số 1: Phân tích những biểu hiện đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
trong tuỳ bút "Người lái đò sông Đà” so sánh với "Chữ người tử tù", nhận xét về
những chỗ thống nhất và chỗ khác biệt trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
trước và sau cách mạng.

"Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh Châu).
Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử" huyền sử của một người ưu lối chơi "độc tấu". Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được
viết trên cùng một khuông nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của các nốt
nhạc. Phong cách Nguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc. Những nét thống
nhất và khác biệt ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm "Chữ người tử tù" (1939) và "Người lái
đò sông Đà" (1960).
Sau nhiều lần đến với Tây Bắc đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958 tại nơi đây
Nguyễn Tuân đã viết tập tuỳ bút "Sông Đà". "Người lái đò sông Đà" được coi là một
trong những tác phẩm thành công xuất sắc nhất của tập tuỳ bút này. Với khát khao truy
tìm "chất vàng mười của tâm hồn vùng Tây Bắc" - "thứ vàng mười đã được thử lửa" (Đi
mở đường), Nguyễn Tuân đã viết lên bài ca cuộc sống của con người và thiên nhiên Tây
Bắc với nhiều nét độc sáng mới lạ.
Những nhà văn lớn phải là những nhà phong cách lớn. Sinh thời Nguyễn từng ao
ước khi chết đi sẽ mang theo nguyên cảo của mình và không để lại bất cứ bản sao nào
khác trên cuộc đời. Có lẽ, cái Nguyễn Tuân sợ mất đi nhất chính là phong cách, cá tính
của mình. Phong cách nghệ thuật chính là diện mạo thẩm mĩ độc đáo, riêng biệt của nhà


văn trong cách sáng tác, được tạo thành bởi sự thống nhất của các phương tiện biểu hiện,
phù hợp với cái nhìn riêng biệt của nhà văn về đời sống. Phong cách nghệ thuật được
hình thành nhờ sự lặp đi lặp lại một số yếu tố thuộc phạm trù nội dung và hình thức một
cách có thẩm mĩ, xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của tác giả. Đặc trưng nhất quán đầu tiên


của phong cách nghệ thuật là tính thống nhất, ổn định, bền vững. Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân không nằm ngoài đặc điểm này.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân, ta thấy các sáng tác của ông
hướng tới nhiều chủ đề khác nhau: ca ngợi truyền thống văn hoá, phong cảnh đất nước,
cách mạng,… những đề tài này được triển khai ở nhiều thể loại như truyện ngắn, tuỳ bút,
ký, tiểu luận… Văn ông có thể viết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: những chuyến đi
phiêu bạt để "thay đổi thực đơn cho các giác quan", trong một xóm cô đầu, một con
thuyền trên sông hương… Còn sau cách mạng, ông viết trong những chuyến đi thực tế
lên Tây Bắc, khi hành quân cùng bộ đội lên Việt Bắc… thế nhưng ta vẫn tìm thấy trong
những sáng tác ấy có một cốt cách chung. Trước hết, ta thấy một Nguyễn Tuân luôn say
mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống.
Trong "Chữ người tử tù", Nguyễn viết về một thời đã xa nhưng còn vang bóng.
Ông trân trọng, nâng nịu và giữ gìn, làm sống dậy trong lòng người đọc một thú chơi tao
nhã của người xưa: Thú chơi chữ. Khi hiện thực bấy giờ với những "ông nghè, ông cống
cũng nằm co" (Tú Xương). Vũ Đình Liên làm ta rơi nước mắt xót xa trước cảnh ông đồ
già bị lãng quên giữa dòng chảy cuộc đời, thì Nguyễn lại cho ta rạo rực sống lại cái thủa
hoàng kim, hán học với nghệ thuật thư pháp điêu luyện từng "Vang bóng một thời". Cái
thi vị hoài cựu đưa ta về với những mảnh lụa trắng, bút lông, nghiên mực hay câu đối,
hoành phi… - cái đẹp thanh khiết của cả người cho chữ và người chơi chữ. Tất cả cuốn
người đọc về với hồn dân tộc, với nét đẹp truyền thống ngàn năm còn vang mãi. Một
chàng Nguyễn ngông ngạo, ngang tàn, chỉ muốn "ném đá" vào những người xung quanh
lại thiết tha với giá trị văn hoá tinh thần của cha ông. Vùng mĩ cảm của Nguyễn Tuân rất
riêng cho ta thấy một tấm lòng yêu nước thầm kín, một tinh thần dân tộc có màu sắc độc
đáo trong chàng trai kiêu bạc của những năm 30 của thế kỉ 20. "Có thể nói, lòng yêu


nước, tinh thần dân tộc gắn liền với những giá trị văn hoá cổ truyền là tư tưởng chủ đạo
của Nguyễn Tuân, đã tạo nên giá trị chân chính và lâu bền cho các tác phẩm của ông"
(Giáo sư: Nguyễn Đăng Mạnh).
Vẫn với lòng đam mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống, đến với

sông Đà, Nguyễn Tuân đã thực sự bị cuốn hút bởi sự khác thường của nó:
"Chúng thuỷ giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu"
Nếu sông Đà cứ chảy xuôi dòng như bao con sông khác thì có lẽ
sẽ chẳng bao giờ Nguyễn Tuân viết về nó, bởi không có gì đặc biệt thì làm sao có thể hấp
dẫn ngòi bút của nhà văn?! Một dòng sông hung bạo và trữ tình, khám phá nó như trèo
lên một cái cây đầy gai, nhưng trên ngọn là quả ngọt, không ít khó khăn nhưng cũng đầy
thú vị. Nguyễn Tuân đã chọn đúng đối tượng miêu tả để mang lại cho người đọc cảm
giác kỳ thú, tò mò khi ở nơi thượng nguồn sông Đà và chợt khoan khoái, yên bình khi về
đến hạ lưu. Màu nước sông cũng rất độc đáo tưởng như những chiếc khăn với màu sắc
khác nhau mà núi rừng Tây Bắc quàng lên mình mỗi khi chuyển mùa: "Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông
Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Nguyễn Tuân cũng có cách cảm nhận về ngoại hình người lái đò rất độc đáo.
Người lái đò ấy dù gần 70 tuổi, nhưng vẫn tráng kiện, có thân hình "cao to và gọn quánh
như chất sừng, chất mun" cùng với "cái đầu quắc thước", "đôi cánh tay trẻ tráng"… Nét
riêng ấy của ông lái đò đã cho ta một cách cảm nhận về những con người lao động khoẻ
khoắn, từng trải nơi rừng núi Tây Bắc. Những vẻ đẹp độc đáo trong văn Nguyễn Tuân đã
gây ấn tượng với người đọc ngay từ những trang đầu tiên, là nét phong cách dễ nhận ra
nhất của ông.


Một nét đặc sắc nữa trong phong cách Nguyễn Tuân là ông thường miêu tả những
cảnh đẹp tuyệt mỹ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp
hoàng tráng dữ dội đến dữ dằn.
Ta bắt gặp một không khí hừng hực lửa cháy và khói trắng trong đêm cho chữ ở
nhà tù Tỉnh Sơn (Chữ người tử tù). Đây là ấn tượng của Nguyễn Tuân về một "cảnh
tượng xưa nay chưa từng có". Những tưởng sẽ chẳng có cảnh gì đẹp giữa không gian nhà
tù u tối, "chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián".

Thế nhưng bằng đôi mắt nghệ sĩ, Nguyễn Tuân đã khám phá ra cái đẹp tinh tế, mới mẻ ở
chốn "bùn lầy nước đọng" ấy. Không gian nhà tù trở thành nơi cho chữ thiêng liêng, gợi
không khí của thời tiền sử với "ánh sáng đỏ rực" của bó đuốc toả sáng đỏ cả không gian,
khói toả bốc lên mờ ảo, huyền bí. Ngỡ như sương mờ của chiều hoàng hôn lạnh cháy đỏ
trời đã thu hẹp và được Nguyễn Tuân đặt trong không gian này. Một cảnh thơ ảo nhưng
cũng rất huyền bí ẩn chứa sức mạnh tiềm tàng.
Đến với "Người lái đò sông Đà" ta cảm thấy "sởn gai ốc" khi Nguyễn Tuân miêu
tả thác đá sông Đà. Hai bên bờ sông dựng đứng vách đá như những hùm beo, ăn chẹn
lòng sông Đà, gợi lên thế hiểm trở của dòng sông: "Những vách đá bờ sông dựng vách
thành (…), có chỗ vách đá thành chẹn lòng sông Đà như một cái yết hầu". Cái dữ dội của
nước, hút nước, thác và thạch bàn trận trên sông Đà đã khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật
cho nhà văn. Nước sông Đà như uẩn ức, oán thán mà thành "nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gằn gè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt". Nhà
văn tưởng tượng ra cái hút nước sông Đà giống như "cái giếng bê tông (…) nước ở đây
thờ và kêu như cái cửa cống bị sặc". Cái đẹp dữ dội, hoành tráng của dòng sông làm
người đọc giật mình nhưng không gây cảm giác sợ hãi, rợn ngợp. Thác sông Đà "như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữ rừng vầu, rừng tre nổ lửa, phá tuông
rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Con sông như đang
lồng lộn trong một cơn cuồng phong, giống như một người trong cơn thịnh lộ ghê gớm.
Cái mặt dữ dằn của sông Đà còn hiện lên trên gương mặt đá: "Mặt hòn đá nào cũng ngỗ
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó (…) tiu nghỉu xanh lè". Con sông Đà hung bạo


như hùm, beo, thuỷ quái đã giúp Nguyễn Tuân tô đậm vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc hùng
vĩ uy nghiêm.
Việc tiếp cận con người sự việc từ phương diện thẩm mĩ, từ góc độ của cái đẹp
của Nguyễn Tuân đã cho ta thấy một con sông trữ tình, lãng mạn. Dòng sông mơ mộng,
huyền ảo bởi cái dáng hình uốn lượn tự nhiên, bởi khung cảnh thi vị hai bên bờ sông.
Đây là nét đẹp thứ hai của dòng sông được Nguyễn miêu tả bằng cảm quan của một nhà
văn lãng mạn với cái nhìn duy mĩ. Sông Đà gợi cảm khiến nhà văn cảm thấy "vui như

thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, dòng sông đã
gợi ra niềm vui ngây thơ con trẻ, đưa ta trở về với giây phút hồn nhiên trong quá khứ
của chính mình. Cảnh bờ bãi sông Đà có lẽ đã đẹp đến tận cùng qua ngòi bút miêu tả
của Nguyễn Tuân: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích thuở xưa". Không hiểu sao tôi lại thấy thú vị với cách so sánh vừa trừu
tượng, vừa cụ thể này. Sông Đà chính là nơi hội tụ của đất trời, là sợi dây nối giữa thiên
nhiên hoang dại của thủa hồng hoang với cảnh vật tươi đẹp, mộng mơ của hiện tại. Nét
đẹp mềm mại, trong sáng của sông Đà gợi ra từ những câu văn thướt tha duyên dáng:
"Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mùi khói núi
Mèo đốt nương xuân". Có lẽ đọc đến câu văn này không ít người muốn lên ngay Tây Bắc
để chiêm ngưỡng ngay khung cảnh huyền diệu ấy. Cái đẹp của cảnh trời quê hương vẫn
luôn là một niềm sáng trong văn Nguyễn Tuân.
Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng đẹp với vẻ tài hoa nghệ sĩ trong
nghề nghiệp của mình. Với Nguyễn Tuân những người bình thường khi thực hiện những
công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp của mình nếu đạt tới một trình độ tinh
xảo, nhuần nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một kẻ tài
hoa: "mỹ thuật vốn không có bà con luận lí với thời đại, một thằng ăn cắp cũng trở lên
đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh". Vì vậy trong "Vang bóng một thời",
Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi tài "thả thơ", "đánh thơ", tài ném bút chì… mà còn trân
trọng tài viết chữ "rất nhanh rất đẹp" của Huấn Cao - "những nét chữ vuông tươi tắn nói


lên cái hoài bão tung hoành của cả một đời con người". Đẹp hơn nữa là cái nhân cách
đáng trọng in tâm hồn Huấn Cao. Đó là thiên lương cao đẹp, khí phách hiên ngang không
khuất phục quyền uy. Chính vì vậy, đối với quản ngục, xin chữ Huấn Cao không chỉ bởi
chữ quý mà còn như vớt được một linh hồn cao khiết giữa chốn trần ai bụi bặm thời bấy
giờ. Huấn Cao toả sáng rực rỡ trong ngục tù tăm tối, ông chính là "tấm lụa bạch còn
nguyên vẹn lần hồ" và cũng là người muốn trao tấm lụa ấy cho thầy thơ lại, quản ngục.
Nếu như Nguyễn để cho cụ ấm mơ ước "chỉ có những người tao nhã cùng một thanh khí

mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà" (Chén trà in sương sớm ) thì đến với Huấn
Cao không chỉ muốn mình giữ được thanh khí mà còn muốn những người tốt xung quanh
mình không mất đi cái thanh khí. Đó là một con người có cái tâm cao cả, rộng lớn.
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân cũng khai thác vẻ đẹp nghệ sĩ của ông lái đò. Đọc
trang tuỳ bút Nguyễn Tuân ta thấy hiện lên không phải là một ông lái đò bình thường mà
là một nghệ sĩ trong nghề sông nước, như một nhạc sĩ thiên tài chỉ huy giàn nhạc trên con
thuyền để vượt lên bảng trường ca sóng nước ào ạt kia. Ông đò không chịu được cảnh
phẳng lặng của sông nước mà vẫn muốn tìm đến nơi nhiều ghềnh lắm thác để thử sức. ý
nghĩa giản dị mà đáng quý biết bao: "chạy thuyền trên khúc sông không có thác, nó dễ
dại tay, dại chân và buồn ngủ". Luôn muốn vượt qua những thử thách khó khăn như
không sống một cuộc sống mờ mờ, nhàn nhạt, hời hợt như đĩa đèn - ấy là cái cốt cách tài
hoa trong một nghệ sĩ chèo đò. Với kinh nghiệm dạn dày, ông đò điều khiển chiếc thuyền
vượt thác dữ một cách điêu luyện: "thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được". Đó là nét đẹp kết tinh, là chất "vàng mười"
đáng quý nhất của tâm hồn Tây Bắc.
Cái uyên bác của Nguyễn Tuân thể hiện rõ ở những hiểu biết sâu sắc về nhiều lĩnh
vực khoa học, nghệ thuật được ông đưa vào ngôn ngữ trong văn của mình. Đọc "Chữ
người tử tù" ta thấy tầm hiểu biết lịch sử của Nguyễn về triều đại phong kiến nhà
Nguyễn, về giáo thụ Cao Bá Quát để tạo nên không khí lịch sử và nhân vật Huấn Cao.
Nguyễn Tuân còn tỏ ra rất kinh nghiệm khi tung ra những hiểu biết về lĩnh vực văn hoá
(nghệ thuật tư pháp), xã hội (những ứng xử, cung cách của các nhân vật). Cảnh cho chữ


cuối cùng trong thiên truyện in đậm dấu ấn của cái nhìn điện ảnh. Sự tương phản, đối lập
rõ nét giữa ánh sáng và bóng tối, cái đẹp rực rỡ của cảnh cho chữ với cái xấu xa nhơ bẩn
của nhà tù. Giữa không gian đỏ rực và màn khói trắng. Nguyễn Tuân đã tạc lên bức điêu
khắc biểu tượng, hội tụ cái đẹp: "Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang
đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh". Cái uyên bác của Nguyễn Tuân đã đem lại cho
trang văn tính tạo hình và trở nên phong phú và chính xác hơn.
Đến "Người lái đò sông Đà" nét phong cách này vẫn được giữ nguyên khi ông

tung ra những hiểu biết của mình về địa lý, lịch sử, hội hoạ, điện ảnh, quân sự, thể thao…
để miêu tả con sông Đà. Người đọc như được chiêm nghiệm một cuốn từ điển sống, một
cuốn Bách khoa toàn thư đồ sộ hấp dẫn kì lạ. Nguyễn mang đến trang văn của mình với
góc nhìn của nghệ thuật thứ bảy khi ông quay cái hút nước ghê rợn của sông Đà: "Cái th
quay tít, những thước phim màu cũng quay tít".
Có khi ông lại đẩy ống kính ra xa hơn để thu toàn bộ cảnh thác đá và vượt thác của
ông lái đò. Với con mắt của một nhà hội hoạ, Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận
đúng màu nước sông Đà một cách tinh tế nhất. Dưới bàn tay tài hoa của một nhà điêu
khắc đá sông Đà lại được Nguyễn miêu tả với những nét "mặt hòn đá nào cũng ngỗ
ngược, nhăn nhúm, méo mó"… Cuộc giao chiến giữa ông lái đò và thác nước hiện lên
sống động dưới con mắt chiến lược quân sự của nhà văn. Vốn văn hoá sâu rộng, lịch lãm
của Nguyễn Tuân mở ra tầm hiểu biết mới cho người đọc về tài nguyên tổ quốc bao la,
tất cả đều sống dậy như một sinh thể có hồn cốt, thức dậy trong ta lòng yêu tổ quốc vô bờ
bến…
Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: "Không biết
chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy
của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng,
mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng". Nét phong cách này
thể hiện rõ trong "Chữ người tử tù" và "Người lái đò sông Đà". Ngôn ngữ trong văn ông
đa dạng, phong phú, mới mẻ, in đậm dấu ấn cá tính riêng. Do viết về đề tài "vang bóng"


các nhân vật chính là nho sĩ nên ngôn ngữ Nguyễn Tuân trong "Chữ người tử tù" rất cổ
kính, bác học: "Phiến trát, lạc khoan, pháp trường, thằng thập, bút con…".
Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt,
tạo âm vang ngàn xưa vọng lại - âm vang của một thời xa vắng. Trong "Người lái đò
sông Đà", người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ mới mẻ, sáng tạo, mang bản sắc
riêng: "lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích, thơ ngộ…" Nhà văn thực sự là một ông lái tài
hoa trên dòng sông ngôn ngữ. Các câu văn Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co duỗi nhịp
nhàng. Nhạc điệu trầm bổng, đưa người đọc đến với cái yên ả của dòng sông đà nơi hạ

lưu: "Dòng sông quãng này lững lờ như thương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên
thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của
người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải no khác hẳn
những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển dòng trên". Đọc "Chữ người tử tù" ta không
thể nào quên những câu văn đầy chất thơ của ông: "Trong khung cửa sổ có nhiều con
song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm, tinh tú, một ngôi sao hôm nhấp nháy
như muốn tụt xuống phía chân giời không định". Cái nhịp điệu buồn buồn, kéo dài văng
vẳng một nỗi tiếc nuối như thấm vào câu văn. Chính câu văn giàu nhịp điệu và âm vang
cho nên Vũ Ngọc Phan có cảm tưởng "Đọc lên nó ngân sâu như những tiếng đàn trầm".
Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song với tính
thống nhất, ổn định của phong cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người nghệ sĩ
phải biết vượt lên chính mình và không được dẫm lên dấu chân người khác. Phong cách
Nguyễn Tuân cũng có sự vận động theo chiều hướng tích cực ấy. Trước và sau cách
mạng là cả một sự thay đổi kì diệu trong văn ông. Cách mạng đã giải thoát cho tâm hồn
và nghệ thuật Nguyễn, hướng nhà văn tới cuộc sống và nhân dân.
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao cái đẹp
thuần tuý, không vụ lợi. Ông nâng niu, trân trọng và khao khát cái đẹp. Nhưng trong đêm
tối trước cách mạng, cái đẹp đâu dễ tìm, vây bủa xung quanh người nghệ sĩ toàn cái xấu
xa, lừa lọc, với xã hội "kim tiền, chó đểu" (Vũ Trọng Phụng). Nguyễn đã quay ngược thời
gian tìm cái đẹp trong quá khá, ít quan tâm đến thực tại mà chỉ chú trọng tới cảm giác chủ


quan của mình. Ông tìm đến những con người mang nét tài hoa thiên về lĩnh vực nghệ
thuật. Ngợi ca cái đẹp nhưng ông vẫn vẽ lên một bức tranh héo úa, tàn tạ, hắt hiu về một
thế giới tàn lụi trong "Chữ người tử tù". Vui say với cái đẹp của nghệ thuật thư pháp, trân
trọng cái thiên lương, trong sáng, nhân cách hơn đời của Huấn Cao nhưng nhà văn vẫn
trầm ngâm nuối tiếc bởi Huấn Cao sẽ phải chịu án và lìa xa cõi đời. Biết bao mến thương,
luyến tiếc khi Nguyễn Tuân để quản ngục "chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ
vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào". Có phải giọt lấp lánh ấy, cái nghẹn ngào kia cũng
chính là của Nguyễn Tuân, cái đau xót của lòng Nguyễn đã tràn ra câu chữ?

Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân không còn nhấm nháp, say sưa chắt chiu cái
đẹp trong những tiểu thế giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn cảm nhận được cái khoẻ
đẹp, rộng rãi, bao la của đất trời đổi mới. Có lẽ bởi Nguyễn sinh ra để tôn thờ cái đẹp, mà
cách mạng chính là cái chân - thiện - mĩ, chân chính nhất. Cái nhìn của nhà văn với cuộc
sống, con người trở nên đôn hậu hơn. Quan niệm của ông về cái đẹp vì thế mà bớt đi sự
phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp chân chính và tiến bộ. Tuỳ bút
"Người lái đò sông Đà" là một trong những cái mốc quan trọng của Nguyễn Tuân trong
quá trình chuyển từ phương pháp sáng tác lãng mạn sang phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa. Ông đi tìm cái đẹp trong con người lao động bình thường. Ông lái đò trong tuỳ
bút này là một con người như thế. Miêu tả tư thế vượt thác hiên ngang, anh dũng của ông
lái đò, Nguyễn Tuân ca ngợi phẩm chất của người lao động thời đại mới, chủ động trước
thiên nhiên, dám tấn công vào những thế lực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đây là khám
phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn về hình ảnh con người mới.
Nếu như trước cách mạng, Nguyễn Tuân có cái ngông, khinh bạt, ngạo đời với
xung quanh thì nay ông dùng cái nhìn ấy để đả kích, tấn công kẻ thù. Mượn lời Huấn
Cao, Nguyễn Tuân gián tiếp bộc lộ thái độ của mình. Đó là lối nghĩ "cố ý làm ra khinh
bạt đến điều" để đợi "một trận lôi đình báo thù" của Huấn Cao. Có lẽ cái thói ngông ngạo
của Nguyễn sở dĩ vấn được người đọc yêu mến bởi trước khi là một nhà văn ông đã là
một con người có nhân cách lớn. Sau cách mạng, nhà văn để dành lối khinh bạt ấy cho
thực dân Pháp nhằm đả kích, mỉa mai "chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà "đen" như


thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây
lếu láo mà cứ như thế mà phết vào bản đồ lai chữ". Sự thay đổi sắc sảo trong ngòi bút
Nguyễn Tuân cũng là kết quả của quá trình "lột xác" đầy đau đớn của ông.
Trước và sau cách mạng có sự thay đổi lớn trong thể loại văn Nguyễn Tuân. Nếu
như trước cách mạng, ở các tập truyện ngắn Nguyễn được coi là bậc thầy với những nét
độc đáo, riêng biệt thì nét phong cách này được thể hiện rõ trong "Chữ người tử tù" - một
truyện ngắn "gần đạt tới sự toàn mĩ" (Vũ Ngọc Phan). Sau cách mạng, thể loại tuỳ bút
phát triển mạnh mẽ hơn, "Người lái đò sông Đà" là một trong những thành công xuất sắc

của tuỳ bút Nguyễn Tuân. Sự chuyển hướng này phù hợp với cái tôi, bản lĩnh Nguyễn
Tuân. Có thể nói trong thể loại tuỳ bút trong làng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam,
Vũ Bằng, Bàng Sơn… nhưng chưa ai theo kịp được "thể phách Nguyễn Tuân".
Ngôn ngữ nghệ thuật trong "Người lái đò sông Đà" cũng trở nên giản dị, dễ hiểu
hơn dù vẫn rất hàm súc và trau chuốt.
Nếu cần phải minh hoạ cho bản chất sáng tạo của văn học thì phải kể đến Nguyễn
Tuân - người với những trang văn tài hoa, độc đáo đã tạo ra không chỉ một con đường,
một lối đi riêng mà phải nói là một "đại lộ" riêng trên các ngả khai phá của văn học Việt
Nam. Trên "đại lộ" ấy ta bắt gặp nét quen thuộc và cả những điều mới mẻ - cái làm nên
hồn cốt Nguyễn Tuân.


Đề số 2: So sánh người lái đò trong “Người lái đò sông Đà” với nhân vật Huấn Cao
trong"Chữ người tử tù" để thấy sự chuyển đổi phong cách nghệ thật của Nguyễn
Tuân.

1.Hoàn cảnh
* Điểm chung
– Phải đối mặt với một môi trường sống chứa đựng nhiều nguy hiểm, đầy thử
thách.
– Môi trường ấy đồng thời cũng là cơ hội để họ bộc lộ trọn vẹn những vẻ đẹp độc
đáo trong tâm hồn, tính cách, khả năng của họ.
* Điểm riêng
– Huấn Cao
+ Chế độ phong kiến suy tàn, bắt đầu bộc lộ tính chất xấu xa, đen tối.
+ Vì chống lại triều đình phong kiến mà Huấn Cao đã bị bắt, bị xử án tử hình, bị
giam cầm để chờ ngày ra pháp trường chịu án chém. Những ngày cuối cùng của cuộc đời
ông phải sống trong buồng giam tử tù, nơi không có chỗ cho sự tồn tại của thiên lương
hay cái đẹp. Do đó, Huấn Cao luôn phải chuẩn bị tâm thế cho những trò đốn mạt, cạm
bẫy xấu xa của kẻ tiểu nhân.

– Ông lái đò
+ Mso sanh nguoi lai do huan caoôi trường lao động đầy nguy hiểm: Con sông Đà
hung bạo, độc dữ như kẻ thù số một.
+ Công việc lái đò lại là công việc dễ tổn thọ bởi nó đầy những hiểm nguy, buộc
người lái đò phải luôn tay, luôn mắt, luôn gân, luôn tim. Nguy hiểm nhất là những lần
vượt thác – nơi dòng sông thể hiện đầy đủ nhất cái uy lực khủng khiếp của nó.
2.Đặc điểm:


Tài năng phi phàm, xuất chúng:
– Huấn Cao:
+ Tài năng trong lĩnh vực nghệ thuật – đòi hỏi sự uyên bác và một tâm hồn phóng
khoáng.
+ Tài viết chữ: Nét chữ vuông vắn, tươi tắn, viết nhanh và đẹp. Hồn chữ – điều
được kí thác trong từng nét chữ là hoài bão tung hoành của một đời người. Danh tiếng:
chữ Huấn Cao nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn đến kẻ vô danh tiểu tốt cũng biết đến mà
ngưỡng mộ. Chữ Huấn Cao là một vật báu ở đời, là niềm ao ước của những ai có sự am
hiểu về chữ thánh hiền và cảm nhận được giá trị của cái đẹp. Chữ Huấn Cao có khả năng
lay động, chinh phục lòng người.
– Ông lái đò
Tài năng bộc lộ trong lao động với một công việc rất bình thường: lái đò
+ Tay lái ra hoa: Những động tác chèo lái chứa đựng vẻ đẹp. Cái đẹp đời thường,
giản dị mà cũng vô cùng độc đáo.
+ Linh hoạt trong từng động tác để ứng phó, hoá giải những đòn đánh, thế tấn
công của con sông không chỉ độc dữ mà còn có khả năng quân sự tuyệt vời.
Sông Đà đã phối hợp được sức mạnh của cả đá và nước. Ông lái đò chỉ đứng trên
một con thuyền với một mái chèo, một mình đơn độc giữ bao la sóng thác. Đá sông Đà
dàn thạch trận với những cửa sinh, của tử biến ảo không lường. Nước sông Đà có những
thế võ và sức mạnh đủ để quật ngã những tay lái non gan và ít kinh nghiệm. mái chèo chỉ
là một công cụ bình thường nhưng khi ở trong tay ông lái đò lại như một cây đũa thần,

giúp ông ổn định thế trận, hoá giải sức mạnh của mọi đòn tấn công.
Với sự linh hoạt của động tác, ông lái đò đã đưa chiếc thuyền vượt qua thạch trận.
Lúc thì đè sấn lên sóng thác mà đi, chặt đôi sóng mà tiến,… Con thuyền dưới sự điều
khiển của ông lái đò khi tiến khi thoái, khi công khi thủ. Có lúc nó lao vút như một mũi
tên tre, xuyên nhanh qua nước, vừa bơi, vừa tự dộng lái được, lượn được.


Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò lại đổi tay lái và đổi luôn chiến thuật.
Trong trận chiến trên sông, không phải không có lúc người lái đò méo bệch mặt đi vì
những vết thương bởi sóng đánh đòn âm, đòn tỉa vào chỗ hiểm. Nhưng chính nhờ xự linh
hoạt của động tác, sự biến hoá của chiến thuật đã khiến cho lũ đá nơi ải nước phải tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. Con thuyền của ông lái đò đã bỏ lại phía sau mình tiếng
gieo hò của sóng thác để thanh thản hoà mình vào một không gian mới, không khí mới
trên chính con sông vừa mới đây thôi còn là đối thủ trong trận chiến sinh tử.
Khí phách hiên ngang, bất khuất trước những hiểm nguy, thử thách không chịu
đầu hàng, lùi bước mà sẵn sàng đối mặt với một tâm thế bình thản, ung dung nhất có thể.
Thậm chí, họ còn coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của mình.
* Điểm chung: Coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của
mình
– Huấn Cao: Quản ngục vì lòng cảm mến Huấn Cao, muốn ông được sống những
ngày cuối cùng thoải mái nên đã biệt đãi người tử tù nguy hiểm. Hằng ngày, quản ngục
đều sai người mang rượu thịt vào tận buồng giam tử tù. Do chưa biết rõ về con người
quản ngục nên trong mắt Huấn Cao, rượu thịt đưa vào là một thứ cạm bẫy. Nhưng ông
không hề né tránh mà vẫn đón nhận như một thú bình sinh.
– Ông lái đò: Ông lái đò là người không thích chèo đò ở những quãng sông bằng
phẳng bởi nó tạo cho ông cảm giác dại chân, dại tay và dễ buồn ngủ. Ông coi những
nghềnh thác hiểm nguy chính là tình cảm đậm đà con sông dành cho nhà đò.
* Điểm riêng: Tình thế phải đối mặt
– Huấn Cao: Cái án tử hình, chốn ngục tù dơ bẩn với những trò tiểu nhân thị oai,
với quyền lực xấu xa và cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Đối mặt với tình thế ấy, Huấn

Cao luôn giữ thái độ ung dung, bình thản, tự do, tự tại. Trò tiểu nhân thị oai không ngăn
cản ông thực hiện ý định của mình. Ông sẵn sàng đối mặt với quyền lực đen tối. Ngay cả
cái chết cũng không gợi trong ông dù chỉ một thoáng phân vân. Nếu cái tin ngày mai
Huấn Cao bị giải về kinh chịu án chém làm viên quản ngục tái nhợt đi, thầy thơ lại hớt hơ


hớt hải thì không khiến Huấn Cao bận tâm chút nào. Nỗi bận tâm của Huấn Cao bấy giờ
chỉ là nên hay không nên cho chữ quản ngục.
– Ông lái đò: những trận thuỷ chiến trên sông, hiểm nguy luôn thường trực trong
cuộc sống của những người lao động trên sông nước. Thậm chí, cuộc sống của người lái
đò là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình.
Bởi con sông Đà mà ông lái đò phải đối mặt hung bạo, độc dữ như một người dì ghẻ, một
kẻ thù số một. Vậy mà ông lái đò dám chung sống suốt đời với nghề chèo đò, dám đối
mặt tới cùng (cưỡi trên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ) với tư thế hiên
ngang không chịu đầu hàng, lùi bước, luôn bình tĩnh, tỉnh táo để chỉ huy con thuyền vượt
sóng thác.
Tấm lòng, nhân cách đáng quý
Đều đem cái tâm trong sáng, cao quý để đối xử với cuộc sống, con người để vun
đắp những mối quan hệ tốt đẹp, để xây dựng những mối tri kỉ, tri âm.
* Huấn Cao
Là người có tài viết chữ nhưng ông không dùng cái tài để mưu lợi cá nhân. Bởi
ông biết rằng cái quý của chữ nằm ở giá trị tinh thần của nó. Vì thế, ông chỉ cho nhữ
những người tri âm tri kỉ, những con người hiểu được tấm lòng của ông.
Huấn Cao cho chữ viên quản ngục bởi ông nhận ra ở quản ngục một thiên lương
trong sáng, một tấm lòng đáng trọng. Trao bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn
vào tay quản ngục là trao cái đẹp vào tay người say mê cái đẹp, là trao tấm lòng cho
người có tấm lòng. Hơn thế nữa, từ khi nhận ra con người quản ngục, Huấn Cao đã thể
hiện sự trân trọng trong cách xưng hô, lựa chon không gian, thời gian viết chữ. Niềm
mong muốn bảo vệ thiên lương cho con người đáng trọng đó bộc lộ ở lời khuyên chí tình.
Chính tấm lòng, nhân cách của Huấn Cao đã lay động sâu sắc đến tình cảm của viên quan

coi ngục, khiến quản ngục nghẹn ngào, cúi đầu xin bái lĩnh.
Như vậy, cái đẹp do Huấn Cao sáng tạo ra có thể tồn tại bất tử và có ý nghĩa đối
với con người, cuộc đời.


* Ông lái đò
– Gắn bó thuỷ chung với con sông Đà, ông coi sông Đà như một kì phùng địch thủ
để thi thố tài năng. Đồng thời, với ông, con sông Đà lắm tài nhiều tật còn là một người tri
kỉ tâm giao. Chính sự am hiểu đã giúp ông chinh phục được sông Đà.
– Tấm lòng và trách nhiệm đối với quê hương đất nước
+ Quá khứ: Thời chúa đất ngăn sông cắt bến, kẻ thù lùng sục, không thể trực tiếp
chèo đò đưa bộ đội qua sông, những con đò bỏ vắng ven sông cùng với quy ước ngầm
của những người lái đò (anh cán bộ nếu không muốn cho địch biết cái bến mình vừa sang
thì cứ việc thả cho thuyền trôi dọc sông, người bến dưới bắt được sẽ gửi trả lại người phía
trên này) chính là tấm lòng của người lao động với cách mạng, kháng chiến.
+ Hiện tại: Khi đất nước đang trong thời kì dựng xây, ông lái đò lại rất tự hào kể
về việc được chở một đoàn chuyên gia ta và chuyên gia Nga đi khảo sát địa hình, chuẩn
bị cho việc xây dựng nhà máy thuỷ điện. Đây là một ngườiềm tự hào chân chính của một
người công dân khi được đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước.
3.Đánh giá chung
– Cả hai nhân vật đều được xây dựng bằng biện pháp lí tưởng hoá, xuất phát từ cơ
sở của cái nhìn độc đáo về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: Nhìn con người ở
phương diện tài hoa nghệ sĩ để có thể làm nổi bật những vẻ đẹp phi thường trong tài
năng, cốt cách của các nhân vật. Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống đầy thử
thách, những mối quan hệ nhìn bề ngoài là đối nghịch nhưng bên trong là tri kỉ, tri âm để
các nhân vật vừa bộc lộ khí phách, nhân cách, tài năng xuất chúng hơn người. Đồng thời,
để tạo nên sức thuyết phục của hình tượng nhân vật, Nguyễn Tuân đã huy động kho vốn
kiến thức trên nhiều lĩnh vực kết hợp với trí tưởng tượng độc đáo.
* Chữ người tử tù
Sáng tác trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân lúc này là một nhà văn lãng

mạn, ông đã tìm kiếm sự độc đáo bằng cách xây dựng những nhân vật đặc tuyển – hình
mẫu lí tưởng của những cong người một thời vang bóng, những anh hùng bất đắc chí,


những nho sĩ cuối mùa dù sa cơ thất thế vẫn cương quyết không chịu dung hoà với môi
trường đen tối, với xã hội bát nháo, lố lăng.
* Người lái đò sông Đà
Sáng tác vào những năn 60, Nguyễn Tuân lúc này đã trở thành một nhà văn cách
mạng. Ông không còn đối lập xưa – nay, cổ – kim, cũng không còn tìm kiếm cái đẹp của
một thời vang bóng mà ở ngay cuộc sống hiện tại với những con người bình thường.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, ông lái đò tuy chỉ là một người lao động bình thường nhưng
lại có khí phách của một người anh hùng và tài năng, tấm lòng của một người nghệ sĩ.
– Nếu như khi xây dựng Huấn Cao, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng tri thức về
nghệ thuật thì khi xây dựng nhân vật ông lái đò, nhà văn cần rất nhiều vốn tri thức đời
sống. Bởi vậy, những chuyến đi thực tế, sự gắn bó với những người lao động, công phu
tìm hiểu cuộc sống, công việc của họ chính là điều kiện cần thiết để ngòi bút nhà văn có
thể thăng hoa. Chính điều này giúp ngòi bút Nguyễn Tuân giữ được uy lực của mình, vẫn
giữ được tài năng của mình. Những tác phẩm văn chương thống nhất ở tư tưởng nhưng
phong phú, sáng tạo trong nghệ thuật biểu hiện.


Đề số 3: Phân tích nhân vật người lái đò trong Người lái dò sông Đà của Nguyễn
Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao để thấy chỗ thống nhất
và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách
mạng tháng Tám.

Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, ông có sở trường về tùy bút. Sông Đà
là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc, là kết quả của
chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Ở Tây Bắc, ông sống với bộ đội, thanh
niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực tiễn xây

dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại cho Nguyễn Tuân nguồn cảm hứng sáng tạo
dồi dào. Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa
tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái dò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ
không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người
Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.
Vẻ đẹp của nhân vật người lái đò trong bài tùy bút này được thể hiện ở nhiều góc
cạnh khác nhau.
Trong tùy bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung dữ:
“Lúc này nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tưng đi một cái
thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm của một ấm nước sôi khổng lồ. Ngấn mạn
thuyền thấp hơn ngấn nước tứ vi bên ngoài, cạp mui thuyền cắm ngập dưới ngấn nước
đang sôi trắng lên. Mặt sông cũng có ổ gà như mặt đường cạn, đi vào ổ gà sông là
thuyền bị giật xuống bị dồi lên. Đã gọi là thác, tức là chỗ khúc sông phức tạp đó nhiều
luồng nước. Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay, có luồng nước đi vào đúng luồng
rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể lài thập tử nhất sinh như
thường.. ”.
Những hình ảnh sông Đà hiện lên không kém phần thơ mộng, trữ tình:


“Tôi có bay tạtqua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc
độ nhìn một cách nhìn về con Tây Bắc hung bạo và trữ tình.. “Con sông Đà tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa
làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống
dòng nước sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu
xanh canh hến của sông Gấm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
người bầm đi vì rượu bừa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi
độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa
con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết
vào bản đồ...”. Hình ảnh con sông Đà vừa “hung bạo và trữ tình” là cái nền để người lái

đò xuất hiện.
Ông lái đò là người anh hùng sông nước: trong cuộc chiến đấu gay go với con
sông dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường, Vượt qua hết các vực xoáy,
luồng chết, cửa tử,... để đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng. Về tư thế: “ông đò hai
tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”, về phong
thái: “tỉnh táo, tự tin., cố nén vết thương do sóng nước gây ra”, về hành động: “hai chân
vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “đánh đòn tỉa”, “đánh đòn âm vào chổ hiểm”. Sau Khi
“phá xong cái trùng vi thạch trận, vòng thứ nhất”, ông không một phút “nghỉ tay nghỉ
mắt”, phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn “chiến thuật”. Khi nắm chặt lấy được cái
bờm sóng đúng luồng rồi, ông “ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng
nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Thế là những luồng
tử đã “bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh”. Sau
đó, ông bước vào trận chiến với “một trùng vây thứ ba”. Ông liền “phóng thẳng thuyền,
chọc thủng cửa giữa” có bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong,
lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được, lượn được”. Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh bình.


Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái
đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một
cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn sông nhưng ông đã thuộc lòng các cửa này. Ở
vòng thứ hai, cửa tử tàng lên đê đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy hiểm ấy. Ông khám
phá ra cách chinh phục chúng: cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.
Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập
đoàn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông
đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây cuối cùng, mặc dù ít cửa hơn
nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả, lại ở ngay giữa bọn đá
hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn “phóng thẳng”. Thế là ông chiến thắng trọn

trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa rồi. Đúng như nhà văn Nguyễn
Tuân nhận xét, ông lái đò là một “tay lái ra hoa”.
Còn cô lái đò là một người phụ nữ Việt Nam yêu nước tha thiết, đảm đang, tháo
vát, tâm hồn dạt dào cảm xúc và tràn ngập chất thơ: “..Một buổi chiều Quỳnh Nhai khác,
tôi lại tìm đến một cô lái đò đã từng chở đò dọc đưa gạo kháng chiến từ Quỳnh Nhai về
thác Tà Hè đổ lên kho quân lương. Cô lái đò châu Quỳnh Nhai giảng cho tôi hiểu biết
thêm về ý nghĩa kiến trúc của cái thuyền then vút đuôi én trên sông Đà: “Các eng bảo
thuyền giống con cá, bảo cái thuyền như một con cá nó quẫy mạnh đuôi trên mặt sông thì
cùng được thôi. Chúng em chỉ biết cái đuôi thuyền nó vẫy lên cao như thế để có cái chỗ
mà treo cái bu gà. Gà sống này, con nào đẹp lông và gáy hay, thì phải mua đến mười
đồng bạc mới. Con gà sống là cái đồng hồ của người lái đò sông Đà đấy. Đi đường xa,
qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng bản mường
mình. Hai bên bờ sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy. Đang phát nương, nhìn xuống
dòng sông Đà mà thấy thuyền các eng đi qua, là người phụ nữ Thái chúng em đều hát
gửi xuống một hai câu và có khi hát cả một bài. Hồi Pháp chiếm đóng, tiếng hát của phụ


nữ đều lánh xa bờ xa bến. Nhiều tiếng hát chạy xa lên tận đỉnh núi. Nay hòa bình, hết
địch rồi tiếng hát mới lại xuống dần tới mặt bến...”.
Nhìn chung, nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn
lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại
hình, hành động của nhân vật.
Chúng ta thử so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chừ người tử
tù). Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người
tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng. Huấn Cao viết chữ rất
đẹp: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm(...). Có được chữ ông Huấn mà treo là có
một báu vật trên đời”. Trong thị hiếu thẩm mỹ của cổ nhân, từ Trung Hoa đến Việt Nam,
viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và chơi chữ đẹp là một thú chơi cao khiết, tao
nhã. Bởi vậy, qua những băn khoăn, tính toán, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn nhục, đau khổ,
hốt hoảng, hi vọng, tuyệt vọng, hồi hộp, lo sợ, thành kính của viên quản ngục thì cái tài

hoa quý hiếm của nhân vật Huấn Cao càng được tôn lên đỉnh cao chói lọi.
Về khí phách, Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống cảnh “cá
chậu chim lồng”, ông đi làm giặc triều đình. Đến khi bị bắt đưa vào ngục tử tù, ông
không tỏ ra mảy may sợ hãi hay hối tiếc. Cổ mang gông, chân vướng xiềng, bước vào
ngục tử tù chờ ngày ra pháp trường, ông vẫn hiên ngang, đường hoàng như bước đi trên
đường cái. Chính cái khí phách khác thường của ông đã làm cho ngục quan - một người
đầy uy quyền đối với ông - phải tỏ ra “khép nép” khi vào gặp ông tại nhà lao. “Thiên
lương” của ông vô cùng trong sáng: cái tài của Huấn Cao chính là nơi phát lộ cái tâm của
ông. Tiền bạc, uy quyền không hề lung lạc được ông: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc
hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Ông đúng là một nhân cách lí tưởng:
“Bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”.
Vì vậy, khi chưa hiểu được các phẩm chất tốt đẹp của ngục quan (biết trân trọng,
thật lòng yêu cái đẹp dù phải sống trong hoàn cảnh xấu xa) thì Huấn Cao có thái độ cứng
rắn với ông. Đến lúc cảm được “cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan, Huấn
Cao mềm lòng thốt lên: “Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những


sở thích cao -quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phí mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Và
Huấn Cao sẵn sàng cho ngục quan những dòng chữ cuối cùng của một đáng tài hoa, một
bậc anh hùng nghĩa sĩ trong một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có ở chốn lao tù”:
“Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy
mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí tỏa như đám cháy
nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú
trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia
lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên một tấm lụa
trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm
núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại
gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở
dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo: “Ở đây lẫn lộn.

Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo bức lụa
trắng với những nét vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con
người. Thỏi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá vậy. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu
mực bốc lên không?... Tôi bảo thực đây, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy
thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiện
lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lửa đóm
cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba
người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp
tay nói một câu mà dòng nước mắt rì vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội
này xin bái lĩnh”.
Đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ trên đây bộc lộ tron vẹn nhất vẻ đẹp sáng
ngời của nhân cách Huấn Cao. Trong không khí trang trọng, thiêng liêng, trong cảm hứng
sáng tạo mãnh liệt, mê say, ông Huấn Cao đã quên hẳn gông xiềng, nhà ngục chặt hẹp,
tối tăm, ẩm ướt, quên cả cái chết đang chờ đợi mình. Tâm hồn ông hoàn toàn hướng tới
sự bất tử của cái đẹp, cái “thiện lương” trong sáng. Lời khuyên nhủ của ông đối với quản


ngục đã thể hiện quan niệm biện chứng của ông giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và
cái thiện. Trong nhân sinh quan cao vời của ông, người nghệ sĩ say mê cái đẹp trước hết
phải là người phải biết đặt “thiện lương” lên vị trí tột cùng. Lời di huấn thiêng liêng ấy
của Huấn Cao về nghệ thuật, về đạo lí làm người đã được quan ngục bái lĩnh bằng tất cả
tấm lòng chân thực của mình và người đời trân trọng lắng nghe.
Có thể nói, cảnh ông Huấn Cao cho chữ là sự chiến thắng kiêu hùng của ánh sáng
đối với bóng tối, của “thiện lương” đối với tội ác, của cái chân - thiện - mỹ đối với cái
xấu xa, thô bỉ. Hơn nữa, đó còn là biểu tượng của việc tài hoa lên ngôi trong cảnh lao tù.
Người tử tù đang tiến dần đến cõi chết, nhưng còn tài hoa của họ đang hàng hái, ung
dung bước vào còi bất tử, vĩnh hằng.
Nhìn chung, vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh
phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao chúng ta dễ

thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân
trước và sau Cách mạng tháng Tám. Về nét chung (tính thống nhất): Nguyễn Tuân vẫn
tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. ông vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác.
lịch lăm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau trong
miêu tả và biểu hiện: điện ảnh, hội họa, điêu khắc... Ông vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức
tinh lọc, phong phú, độc đáo, giàu có. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình,
có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhằng. Mặt khác, các phép ví von, so sánh, ẩn
dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng, đối ngữ, liệt kê... được nhà văn phối hợp vô cùng
điêu luyện, về nét riêng (tính khác biệt): Trước Cách mạng tháng Tám, con người
Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi
thường”. Các nhân vật ông Nghè, ông Cử, ông Huấn Cao (Vang bóng một thời), ông
Thộng phu, cô đào Tám (Chiếc lư đồng mắt cua) là những minh chứng sinh động. Sau
Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay
trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân. Đó là anh bộ đội Tây Bắc ngụy
trang bằng hoa đào, đuổi giặc giữa rừng đào. Đó là người chiến sĩ cộng sản Tô Hiệu trồng


đào trong xà lim hay cô nhân quân Quảng Bình ngồi gác máy bay dưới gốc hoàng mai.
Đó là những cô gái lái đò sông Đà trên những chiếc thuyền đuôi én cao vút... Đặc biệt là
ông lái đò sông Đà vượt thác sông Đà “tay lái ra hoa”. Trước Cách mạng tháng Tám,
Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”, mắc cái bệnh hum mê thanh sắc,
thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Khi ấy, ở
Nguyễn Tuân, hầu như cái gì cùng trở thành “chủ nghĩa”: chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa
duy mĩ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa cảm giác, chủ nghĩa tài tử, chủ
nghĩa ẩm thực..., và bao trùm lên tất cả là chủ nghĩa độc đáo. Sau Cách mạng tháng Tám,
nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng
không còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn ra cái đẹp
của con người dưới góc độ của những vấn đề xã hội (Xòe). Cụ thể là cái đẹp gắn với
nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi; đồng thời lên án, tố cáo chế độ
cũ, khẳng định bản chất nhân văn hóa của chế độ mới.

Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn
Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ
đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Ca ngợi sự gan góc,
thông minh, dùng cảm, kiên cường, tài hoa nhân hậu của con người Việt Nam trong công
cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao. Người lái đò sông Đà thật sự là một
bài ca lãng mạn, trong sáng, hào sảng về lao động và về vẻ đẹp của con người trong lao
động.


Đề số 4: Phân tích nhân vật người lái đò trong Người lái dò sông Đà của Nguyễn
Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao để thấy chỗ thống nhất
và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách
mạng tháng Tám.

1. Đặt vấn đề: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hai cảnh trong hai Tác phẩm:
-Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học VN hiện đại.. Trước
CM, ông được biết đến với tư cách là một nhà văn lãng mạn nổi tiếng với những sáng tác
“Vang bóng một thời” “Thiếu quê hương”… ,
Sau CM,cảm hứng nghệ thuật được khơi nguồn từ hiện thực cuộc sống mới, ông
trở thành một nhà văn khãng chiến, một nhà văn CM, say sưa tìm kiếm, khám phá và
ngợi ca vẻ đẹp của non sông gấm vóc và vẻ đẹp của con người VN trong lao động và
chiến đấu: “tùy bút Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”…. Dù ở giai đoạn sáng tác nào,
văn Nguyễn Tuân cũng đem đến cho người đọc sự cuốn hút đặc biệt bởi ngòi bút tài hoa
uyên bác .Trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân, truyện ngắn Chữ người tử tù (trong tập
Vang bóng một thời - sáng tác trước CM) và Người lái đò sông Đà (trong tùy bút Sông
Đà- sáng tác trong chuyến đi thực tế lên Tây Bắc 1958) là hai thành công nổi bật, tiêu
biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả ở hai giai đoạn sáng tác. Đặc biệt là cảnh cho
chữ và cảnh vượt thác được xem là những áng văn đẹp nhất trong văn học VN. Qua đó
không những giúp ta cảm nhận được sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân mà còn thấy
được nét ổn định và nét mới trong phong cách nghệ thuật của tác giả trước và sau CM

2.Giải quyết vấn đề
a/ phân tích lần lượt hai cảnh trong hai tác phẩm
*Cảnh cho chữ
- Giới thiệu khái quát: cảnh cho chữ nằm ở phần cuối truyện ngắn Chữ người tử
tù. Câu chuyện là cuộc gặp gỡ giũa hai con người trong một tình huống vô cùng hi hữu:
Một bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhanh và đẹp, văn võ song toàn nhưng lại là kẻ phản


nghịch lãnh án tử hình; một bên là viên quản ngục-kẻ thực thi pháp luật đang giam giữ
Huấn Cao nhưng lại là người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, yêu quý cái Đẹp.Trên bình
diện xã hội, họ đối lập nhau, nhưng trên bình diện nghệ thuật , họ đều là những nghệ sĩ
chân chính.Sự gặp gỡ giũa hai con người ấy trong chốn đề lao tạo ra một tình huông đầy
kịch tính, kịch tính càng được đấy đến cao trào khi quản ngục bỗng nhận được công văn
khẩn và biết sáng sớm mai Huấn Cao đã bị giải ra pháp trường . Liệu cái sở nguyện thiết
tha của viên quản ngục là có được chữ Huấn Cao để treo trong nhà có thực hiện được
không? Liệu tấm lòng biệt nhỡn liên tài của ông có được Huấn Cao thấu hiểu? Liệu con
người tài hoa Huấn Cao trước khi từ giã cõi đời có kịp để lại cho đời những dòng chữ
cuối cùng?..Đặt trong dòng cốt truyện, trong kết cấu của tác phẩm, cảnh cho chữ có vai
trò “cởi nút”, giải tỏa.Từ đây, nổi bật lên vẻ đẹp kỳ vỹ của nhân vật , nổi bật lý tưởng
thẩm mỹ của người nghệ sỹ Nguyễn Tuân.
- Cảnh cho chữ - “một cảnh tượng xưa nay chưa tùng có”
+Thư pháp (nghệ thuật viết chữ đẹp) là một thú chơi tao nhã mang nét đẹp của văn
hóa phương Đông. Nó thường diễn ra trong thư phòng hoặc trong khung cảnh sơn thủy
hữu tình, trời trong gió mát, có trà, có rượu, có hoa…Vậy mà cảnh cho chữ ở đây lại diễn
ra trong đêm khuya ,ngay trong nhà giam tăm tốichật hẹp, ẩm ướt , tường đâỳ mạng
nhện, nền đầy phân chuột phân gián..,trái ngược với những cái tăm tối bẩn thỉu ấy, nổi
bật lên ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc, khói tỏa ra như đám cháy nhà, tấm lụa trắng
tinh, chậu mực thơm …thật đúng là một hoàn cảnh, thời gian, không gian “xưa nay chưa
từng có”
+Tư thế của người cho chữ và nhận chữ lại càng “chưa từng có” hơn nữa: Người

cho chữ là kẻ tử tù chỉ sáng sớm mai đã ra pháp trường, cổ vẫn đeo gông , chân vướng
xiềng đang dậm tô những nét chữ vuông tươi tắn trên tấm lụa bạch trắng tinh còn nguyên
vẹn lần hồ.Những thứ gông xiềng quái ác ấy càng tô đậm lên vẻ đẹp hiên ngang, hành
động nghĩa hiệp, thiêng liêng của người cho chữ. Tương phản với tư thế, hành động này
là người được nhận chữ: viên quán ngục lại khúm núm, thầy thơ lại gầy gò thì run run
bưng chậu mực.


×