Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TỔNG HỢP NHỮNG BÀI VĂN “CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.94 KB, 19 trang )

VĂN MẪU 11: CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ – NGUYỄN TUÂN
TỔNG HỢP NHỮNG BÀI VĂN “CHỨNG MINH NHẬN ĐỊNH VỀ
TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA NGUYỄN TUÂN”

Đề số 1: Người ta thường nói Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ bậc thầy. Anh (chị) hãy
nêu lên và phân tích một vài yếu tố nghệ thuật trong truyện Chữ người tử tù để
chứng minh nhận định trên.

Chữ người tử tù là một tác phẩm xuất sắc nhất trong tập truyện ngắn Vang bóng
một thời của Nguyễn Tuân. Đây là câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng,
nhất là tài viết chữ (chữ Hán) đẹp nổi tiếng của người tử tù. Ông ta đã tự hạ mình, đối đãi
tử tế với người tù với mong ước xin được chữ quý. Tưởng đã hết hi vọng xin chữ nhưng
cuối cùng ông ta lại được người tử tù cho chữ, kèm theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi
ngục, về quê sổng thanh bạch để xứng với thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyện ấy,
đặc biệt là cảnh cho chữ, tác giả muốn nêu lên vẻ đẹp hiên ngang của người tử tù và quá
trình đi tìm Cái Đẹp của viên quản ngục. Từ đó, nhà văn khẳng định sự chiến thắng của
Cái Đẹp, đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp nhân cách trước những cái xấu xa, thấp hèn đầy
rẫy trong cuộc đời.
Trong khi thể hiện nội dung câu chuyện, Nguyễn Tuân đã sử dụng những biện
pháp nghệ thuật đạt trình độ xuất sắc của một nghệ sĩ bậc thầy để kể và miêu tả. Ở đây, ta
chỉ chọn một số biện pháp tiêu biểu để phân tích như: cách xây dựng hình tượng nhân
vật, cách lựa chọn và sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật đối lập và bút pháp lãng mạn
bay bổng của nhà văn. Truyện ngắn Chữ người tử tù xoay quanh câu chuyện giữa hai
nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục. Nhà văn đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt.
Ông đã để cho hai nhân vật: một người coi tù và một người tử tù gặp nhau trong hoàn
cảnh éo le là chốn ngục tù. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Nguyễn Tuân rất


sáng tạo và độc đáo. Hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục có quan hệ chặt chẽ, bổ
sung và soi sáng cho nhau. Huấn Cao là nhân vật chính, là hình tượng toả sáng trong suốt
thiên truyện. Nhà văn trực tiếp viết về ông không nhiều mà dùng nghệ thuật “vẽ mây nẩy


trăng” để xây dựng nhân vật này.
Huấn Cao là con người có tài năng lỗi lạc và nhân cách cao thượng. Tuy nhiên, để
làm nổi bật hai đặc điểm trên, nhà văn đã tập trung bút lực miêu tả viên quản ngục và
thầy thơ lại là những người có tấm lòng “trọng nghĩa liên tài” (kính trọng người có
nghĩa khí, quý mến người có tài năng). Chỉ cần một chi tiết như: đứng trước ông Huấn
Cao, viên quản ngục thấy mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù ngu muội, thì người đọc liền
hiểu và có ấn tượng rõ về khí phách dọc ngang nào biết trên đầu có ai cùng tài năng lỗi
lạc của người tù án chém.
Tình huống Huấn Cao sắp bị giải vào kinh để thụ án khiến viên quản ngục tái nhợt
đi, còn thầy thơ lại chạy ngay xuống phòng giam hớt hơ hớt hải kể cho ông Huấn nghe về
nỗi lòng của viên quản ngục giúp người đọc hình dung ra tài viết chữ đẹp hiếm có của
Huấn Cao.
Chủ đề truyện có ý nghĩa tôn vinh Cái Đẹp. Vẻ đẹp chữ viết của người tù là điều
khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất
nhanh và rất đẹp của người tù này. Cố nhiên, tài viết chữ ấy gắn liền với một cái tên cụ
thể là Huấn Cao. Ông quan họ Cao có thời làm huấn đạo ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà viên
quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn ta. Ông Huấn Cao ấy bấy giờ tên tuổi lại đứng đầu
trong danh sách sáu tử tù phạm tội phản nghịch, dám cầm gươm chống lại triều đình. Lời
văn chỉ kể có thế, còn nhân vật Huấn Cao có phải là Cao Bá Quát nổi tiếng một thời thơ
hay chữ đẹp, lại có thời gian bị triều đình đày đi giữ chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai tỉnh
Sơn và đã cùng nông dân nổi lên chống vua quan hay không, thì chẳng biết. Đó là chỗ
kín nhiệm của ngòi bút, chỗ để trăng ẩn vào mây như cách nói của người xưa. Nếu có
điều gì trùng hợp thì cứ coi như là ngẫu nhiên vậy.
Nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng được sử dụng rất có hiệu quả đã góp phần làm cho
một thiên truyện ngắn với số trang hạn chế nhưng ý nghĩa cao siêu, phong phú, làm cho


sức tưởng tượng của người đọc bay bổng không giới hạn. Nghệ thuật viết văn xuôi trong
Chữ người tử tù thật điêu luyện, ngôn ngữ trong sáng gần đạt tới sự hoàn thiện, hoàn mĩ,
đến nay chưa có cây bút nào có thể vượt qua. Để đạt được trình độ như trên, nhà văn đã

sử dụng hệ thống từ ngữ và hình ảnh cổ điển một cách chính xác và hoàn hảo. Tác giả có
dụng ý rõ rệt khi dựng lại một khung cảnh xưa cũ và đã đưa chúng ta trở lại quá khứ cách
đây hàng trăm năm.
Mở đầu là dòng chữ: phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường. Bình thường,
người ta viết là tờ trát, lá trát, nhưng Nguyễn Tuân vẫn để nguyên cách gọi của thời đó
với nghĩa nghiêm trọng là phiến trát. Còn tại sao ông không viết: của quan tổng đốc Sơn
Hưng Tuyên cho nó nôm na, mà lại viết: của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường (đốc bộ
đường là chữ dùng để chỉ chức vụ tổng đốc) theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát
bởi vì tác giả muốn để cho nó giữ nguyên cái tính chất quan yếu, dậy mùi quyền lực ngay
trong từng chữ, từng câu. Lại thêm tên gọi tắt của ba tỉnh Sơn (Sơn Tây), Hưng (Hưng
Hoá), Tuyên (Tuyên Quang). Hồi ấy, tỉnh nhỏ đứng đầu chỉ là chức tuần vũ, hai hay ba
tỉnh nhỏ hợp lại mới có chức tổng đốc. Ba tỉnh này đặt chung dưới quyền cai trị của một
tổng đốc. Mệnh lệnh từ đó phát ra cho cấp phủ, cấp huyện thì rất uy nghi.
Tả cảnh vật thì có vọng canh (vọng canh là chiếc chòi canh được dựng khá cao để
có thể trông xa (vọng), chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn
đèn, chiếc gông, chậu mực, bức châm… Tả người thì thầy bát, ngục tốt, thằng thập, thủ
xướng… Tả việc thì có cho chữ, thay bút con, đề xong lạc khoản, lĩnh ý, bái lĩnh…
Nhà văn đã mượn chữ nghĩa xưa mà khơi dậy cái không khí cổ kính trong khung
cảnh của một quá khứ xa xôi. Chỉ cần mấy dòng, tác giả đã lột tả được thần thái, tính hồn
của một thời đã qua, “phục chế” chính xác và sinh động ngôn ngữ, cử chỉ của những con
người chỉ còn thấp thoáng trong màn sương mờ ảo của dĩ vãng. Thiếu sự “phục chế” này,
chắc chắn tác phẩm Chữ người tử tù mất hẳn sự hấp dẫn đối với người đọc.


Truyện chỉ dùng một vài từ nhưng cũng đủ đưa người đọc trở về với một thời kì
văn hoá xưa cũ, đắm mình vào không khí của một cửa ngục tiêu biểu cho thời phong kiến
suy tàn, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau huỷ diệt nhân cách và đức tài. May mà
trong đó còn nổi lên một tấm lòng biết quý trọng, tôn kính Cái Đẹp của đức độ, tài ba.
Những điều chứa chất sâu lắng bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người
đọc.

Người xưa nói trong văn có nhạc, có họa, điều đó thật đúng với Chữ người tử tù.
Khi viết về con người của dĩ vãng xa xăm, Nguyễn Tuân thường tạo cho câu văn nhịp
điệu đĩnh đạc, thong thả, từ tốn, tưởng chừng nhà văn cố diễn đạt cầu kì nhưng suy nghĩ
kĩ mới thấy nhịp điệu và kết cấu câu văn đã góp phần gợi không khí cho truyện, tạo nên
sự cộng hưởng hài hoà, giúp người đọc hình dung ra phần nào cuộc sống chậm rãi, thậm
chí gần như tù đọng của một thời đã qua: “Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm,
phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng
son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi
bóp thái dương…” “… Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những
đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đây giờ chỉ còn là
mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ.”
Trong Chữ người tử tù có khá nhiều đoạn văn tả cảnh đặc sắc. Đoạn tả buổi tối ở
trại giam tử tù thể hiện rất rõ chất nhạc, chất họa trong văn chương:
“… Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh,
ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ
đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa
đưa lại mấy tiếng chó sủa ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen
thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống
phía chân giời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ
canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối,
nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ…”


Đoạn văn trên vẽ ra trước mắt người đọc một hoạ phẩm tinh tế về khung cảnh
nông thôn miền Bắc thời xưa: Câu văn uyển chuyển, linh hoạt, thể hiện cái nhìn tinh tế và
sức liên tưởng phong phú của tác giả. Mỗi câu văn như một nốt nhạc trầm bổng trong
một bản đàn, tạo nên âm hưởng du dương, ngân vang trong lòng người đọc. Ngoài ra,
trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân còn thành công khi sử dụng thủ pháp đối lập. Rõ
nhất là trong cảnh Huấn Cao cho chữ ở cuối tác phẩm.
Đoạn văn tả cảnh cho chữ đầy chất tạo hình. Bằng sự đối lập giữa ánh sáng và

bóng tối, thiên lương và tội ác, Cái Đẹp và sự xấu xa nhơ bẩn,… đoạn văn giống như một
bức tranh sơn mài rực rỡ và huyền ảo, vừa lạ lùng, đẹp đẽ, vừa ảm đạm, hào hùng, giống
như một ảo ảnh của cõi nào trong thần thoại: một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Giữa
đêm khuya, trong căn buồng giam chật hẹp, tối tăm, bẩn thỉu, một bó đuốc tẩm dầu cháy
ngùn ngụt, ánh sáng đỏ rực soi tô ba bóng người đang hoạt động. Một người ngồi chồm
hổm dưới đất, hai tay căng tấm lụa trắng tinh trên một mảnh ván. Một người khác tay run
run bưng chậu mực. Người thứ ba cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang cầm bút thoăn
thoắt viết trên mặt lụa. Ba người đó là: viên quản ngục, thầy thơ lại và ông Huấn Cao.
Bóng tối và sự tàn bạo không thể khuất phục được con người, mà chính con người
lại có sức toả sáng kì diệu. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng tuyệt
vời, người tử tù đã làm chủ nhà ngục, còn viên quản ngục thì lại khúm núm chắp tay vái
người tử tù như vái một thần tượng. Giữa khung cảnh đen tối của buồng giam, hình ảnh
người tử tù bỗng trở nên to lớn lạ thường, vượt lên trên những cái thấp hèn, dung tực
xung quanh.
Chữ người tử tù tuy chỉ là một truyện ngắn nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã sử
dụng bút pháp lãng mạn đặc sắc để biến nó thành một đoản thiên tiểu thuyết với ba nhân
vật: thầy thơ lại – viên quản ngục – kẻ tử tù Huấn Cao tượng trưng cho thiên lương, cho
vẻ đẹp nhân cách ngời sáng giữa hiện thực xã hội đen tối, bất công.

Trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân đã dẫn dắt người đọc vào một thế
giới vừa hiện thực vừa huyền ảo. Màu trắng tinh khiết của vuông lụa, những dòng chữ


thơm mùi mực mới dường như cũng ánh lên rạng rỡ dưới ánh sáng ngọn đuốc và vầng
hào quang tỏa ra từ nhân cách, khí tiết cao vời vợi của kẻ sáng tạo ra Cái Đẹp. Tất cả đều
như muốn hoá thành bất tử, như một lời nhắn nhủ con người hãy giữ lấy Cái Đẹp của
cuộc đời.
Cảnh cho chữ là một bức tranh sống động mà yếu tố hiện thực và kì ào hoà quyện
vào nhau, bổ sung cho nhau tới mức tuyệt vời. Ở đoạn này, cảm xúc của tác giả thăng hoa
và ngòi bút như bay như múa theo từng nét chữ tài hoa của Huấn Cao đã lột tả được cái

thần của người, của cảnh. Bút pháp lãng mạn bay bổng và hiện thực phong phú kết hợp
với ngôn ngữ sáng tạo, giàu chất tạo hình của nhà văn đã dệt nên chân dung bất hủ của
Huấn Cao – tượng trưng cho Cái Đẹp tài hoa tài tử, nhưng cao cả hơn là sự tuyệt vời của
nhân cách trong sạch, của khí tiết cương cường, uy vũ bạo quyền không sao khuất phục
được.
Chữ người tử tù là một kiệt tác của một nghệ sĩ bậc thầy. Tác phẩm vừa cổ điển –
thể hiện ở hệ thống từ ngữ Hán – Việt, vừa hiện đại – thể hiện ở khả năng phân tích tinh
vi những ý nghĩ sâu kín của nhân vật và đường nét, màu sắc rất giàu tính hội hoạ của
cảnh vật. Truyện ngắn này là một bài ca dạt dào cảm hứng, động viên con người cố gắng
giữ gìn Cái Đẹp của thiên lương, dù trong bất kì hoàn cảnh nghiệt ngã nào.


Đề số 2: Chứng minh bút pháp lãng mạn trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Trong trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, Nguyễn Tuân nổi lên như
một gương mặt tiêu biểu của mảng sáng tác văn xuôi với những tác phẩm mang một
phong cách riêng, độc đáo và hấp dẫn. Sáng tác của Nguyễn Tuân dù là truyện ngắn, tiểu
thuyết hay tuỳ bút, trước 1945, đều là tiếng nói của một tâm hồn lãng mạn, một tài năng
mẫu mực của nghệ thuật ngôn từ. Trong sự nghiệp Nguyễn Tuân, tập truyện ngắn “Vang
bóng một thời” là một mốc son đậm nét giúp người đọc hiểu và gần Nguyễn Tuân hơn,
một Nguyễn Tuân tài ba, uyên bác và làm chủ gần như tuyệt đối vốn tiếng Việt phong
phú, dồi dào và đầy sáng tạo. Tập truyện ngắn này của Nguyễn Tuân cũng là một thành
tựu rực rỡ của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, hội tụ trong đó những yếu tố
thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tác của phương pháp sáng tác này. Truyện ngắn “Chữ người
tử tù” là một trong số đó.
Trong “Chữ người tử tù” nói riêng và tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” nói
chung, Nguyễn Tuân đã dựng lại những mảnh của cuộc sống một thời đã qua, một thời
vang bóng. Cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về sáng lại trên mỗi trang văn với
vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc, bâng khuâng. Truyện tuy ngắn nhưng
cũng đủ để nhà văn vẽ ra một sự tương phản giữa cái lý tưởng và hoàn cảnh thực tại, giữa

cái Thiện và cái Ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Nhân vật Huấn Cao, quản ngục, thầy thư
lại là một bộ ba nhân vật mà trong đó chỉ Huấn Cao là có tên (một cái tên cũng khá mơ
hồ gồm tên gọi tắt của chức vụ (Huấn) đi kèm với họ (Cao) nhưng vẫn sáng lên như
những nốt nhấn giữa một mặt bằng tăm tối. Có thể nói hoàn cảnh nhà lao nói riêng và
hoàn cảnh xã hội nói chung đã giam hãm những con người trong sạch đó vào cái lồng
thiên địa chật hẹp và bó buộc, là một không gian thù địch và luôn ẩn chứa sức phá hoại
đối với cái Tài, cái Đẹp, cái Thiên lương. Nhân vật quản ngục và thư lại là những con
người trung gian mà Huấn Cao là nhân vật lý tưởng, mẫu hình lý tưởng đối lập với cuộc
sống đang níu giữ, kéo ghì quản ngục và thư lại xuống. Quản ngục và thư lại sống lẫn
trong cuộc sống đó, Huấn Cao vượt lên khỏi cuộc sống đó nhưng xét đến cùng họ đều là


nhân vật của văn học lãng mạn. Huấn Cao sống một cuộc sống mà bình sinh chọc trời
khuấy nước mặc dầu với những hình tích và hành trạng bí ẩn đầy màu sắc truyền thuyết.
Con người ấy đối lập mình với thế giới, với chế độ mà mình đang sống bởi tự ý thức
được mình, ý thức được phẩm giá của mình, kiêu hãnh đứng riêng ra và cao hơn với xung
quanh và cảm thấy cô độc trong niềm kiêu hãnh đó. Tuy quản ngục và thầy thư lại không
được như Huấn Cao nhưng họ vẫn là những người xa lạ với hoàn cảnh của mình đang
sống. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu
dàng và lòng biết giá người (...) của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo
chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Họ sống lạc lõng với
xung quanh, là những người chọn nhầm nghề bởi nơi họ sống là một nơi “lẫn lộn (...) khó
giữ thiên lương”, là nơi mà những cái thuần khiết bị đày ải giữa một đống cặn bã. Giữa
cảnh sống đó, nhân cách và tài năng của Huấn Cao càng rực sáng hơn, Huấn Cao đã vượt
lên khỏi những ràng buộc của hoàn cảnh để sống với chính bản thân mình dù rằng ông
đang ở trong cảnh tù đày, cá nằm trên thớt. Nguyễn Tuân đã dùng những lời thật đẹp để
tả lại khung cảnh “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời
không định (...); bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao dần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ
lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ...”. Những câu văn bay bổng, tài hoa đó đã
nói lên phần nào lòng yêu mến của nhà văn với các nhân vật lý tưởng của mình.

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một bức tranh gồm nhiều mảng màu khác nhau,
phân rõ tối sáng, đậm nhạt mà trong đó cái Thiện và cái Ác, ánh sáng và bóng tối luôn
tương phản với nhau. Có thể nói, ngay ước muốn xin chữ Huấn Cao của viên quản ngục
đã là một ý định đầy chất lãng mạn. Ước mơ đó đã là cái nền nâng đỡ cho hàng loạt chi
tiết sau này để những mảng màu tương phản được bày ra. Cảnh tượng Huấn Cao cho chữ
là tột đỉnh của quan điểm lãng mạn mà tại điểm hội tụ đó cái Thiện chiến thắng cái Ác,
ánh sáng đã lấn át bóng tối và quan trọng hơn là sự phát triển của tính cách nhân vật
không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh. Tính cách, cảm xúc của nhân vật đã vượt lên trên
hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đã nói đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” và chúng
ta có thể nói nếu theo logic thông thường của cuộc sống thì đó là một cảnh tượng “không


thể có”. Ở đây các nhân vật đã quên đi tất cả, quên đi địa vị, danh phận, địa điểm mình
đang đứng mà chỉ sống với cái đẹp, hướng tới ánh sáng, thưởng thức chung một nét chữ,
cảm nhận cùng một mùi thơm của mực. Trong bức tranh sơn dầu đó, Huấn Cao có cái
đẹp lan toả của một người nghệ sĩ còn viên quản ngục và thầy thư lại có cái đẹp của lòng
biệt nhỡn liên tài, vẻ đẹp của thiên lương còn giữ được giữa bao quay cuồng đen trắng.
Từ hành động rỗ gông của Huấn Cao ở đầu truyện tới việc Huấn Cao viết chữ ở cuối
truyện là sự thống nhất nhân cách của một nhân vật lãng mạn. Quản ngục, thư lại là hai
nhân vật nâng đỡ nhưng cũng đẹp và đầy chất thơ - chất thơ của cái đẹp, của tài hoa đối
lập và vượt lên khỏi thực tại tầm thường, tăm tối. Câu nói “Xin lĩnh ý” của viên quản
ngục khi bị Huấn Cao quát đuổi ra ngoài chỉ đơn thuần là một sự nhũn nhặn nhưng câu
nói “Xin bái lĩnh” của chính nhân vật này ở cuối truyện, nói sau khi được Huấn Cao cho
chữ và khuyên bảo lại là một nét đẹp của một tâm hồn hướng thiện, yêu mến tài hoa.
Trong sáng tác của các nhà văn lãng mạn, người ta có thể nhận ra được hình bóng
nhà văn trong nhân vật lý tưởng của mình. Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” là một
nhân vật như thế. Hành trạng một đời tung hoành không biết trên đầu có ai cùng sự tài
hoa, ngông nghênh của ông Huấn cũng là một phần tâm hồn Nguyễn Tuân gửi vào trong
đó. Con người Nguyễn Tuân ở ngoài đời cũng như con người ông trong văn chương và
các nhân vật của ông có những nét chồng khít đến kỳ lạ mà trong đó sự tài hoa, ngang

tàng, phóng túng là mẫu số chung của những phân số đó. Con người nghệ sĩ ấy không
chấp nhận cái tầm thường xung quanh, muốn nổi loạn với tất cả mà ở đây hình mẫu lịch
sử của nhân vật Huấn Cao (một số nhà nghiên cứu nói là Cao Bá Quát) chỉ còn tiếng
vọng. Cũng chính con người nghệ sĩ trong Nguyễn Tuân đã giúp ông bỏ đi phần kết của
truyện này khi in trên báo, không đưa vào trong tập sách “Vang bóng một thời”. Khi
truyện ngắn “Vang bóng một thời” in lần đầu trên báo, sau khi nói “Xin bái lĩnh”, viên
quản ngục đã nghĩ rằng mình đã có “lời”, có “lãi” khi biệt đãi Huấn Cao và nhận được
bức châm do chính tay Huấn Cao viết. Cái kết này đã bị lược bỏ khi truyện được in thành
sách và chính sự lược bỏ đó đã làm cho truyện thành công hơn, cuốn hút hơn. Truyện
cuốn hút vì nó là một khối lãng mạn thực sự mà không bị những ý nghĩ vụ lợi xen vào dù


chỉ trong từng chi tiết nhỏ. Đó chính là quan niệm cái Đẹp không gắn liền với cái hữu
ích, cái Đẹp đối lập với cái vụ lợi, như Nguyễn Tuân từng nói: “Nghệ thuật là cái mà
bọn con buôn coi là vô giá trị...”.
“Vang bóng một thời” là một tiếng vọng đầy cuốn hút trong trào lưu văn học lãng
mạn 1930 - 1945 và “Chữ người tử tù” là một tiếng nói góp phần làm nên sự thành công
của tập truyện này. Có thể nói rằng, những đặc trưng của phương pháp sáng tác lãng mạn
chủ nghĩa không phải đã tập trung đầy đủ ở đây nhưng nhà văn đã thực sự đem chúng ta
đến một thế giới mà trong đó nhân vật lãng mạn vượt lên khỏi hoàn cảnh để sống khác
biệt với những tầm thường, tăm tối quanh mình. Cái Đẹp, cái Thiện và sự tài hoa đã cùng
nhau châu tuần về đó.


Đề số 3: Hãy chứng tỏ rằng: Đoạn văn tả cảnh HC cho chữ viên quản ngục là đoạn
văn kết tinh tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, cũng là chỗ tập trung tinh hoa trong bút
lực Nguyễn Tuân.

Cảnh cho chữ được tác giả gọi là ''một cảnh tượng xưa nay chưa từng có''. Mà
đúng là chưa từng có thật. Bởi vì từ trước đến giờ, việc cho chữ, vốn là 1 hình thức của

nghệ thuật viết thư pháp tao nhả và có phần đài các thường chỉ diễn ra trong thư phòng,
thư sảnh, thế nhưng ở đây nó lại được diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám
''tường...gián''. Không chỉ thế, người cho chữ lại là 1 người tù cổ đeo gông, chân vướng
xiềng .Và với bút pháp tương phản bậc thầy NT đã làm bật lên sự đối lập về nhiều mặt.
Trong bối cảnh chật hẹp của nhà tù vẫn có bó đuốc cháy đỏ rực thể hiện chí hướng cao cả
của những con người, trong cái mùi hôi của không gian lại có mùi thơm của mực, đặc
biệt là sâu trong trái tim của con người tưởng như là độc ác, tàn nhẫn đó lại là ''một tấm
lòng trong thiên hạ''.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục.
Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó
đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên
tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại
vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh
người tử tù trở nên lồng lộng, uy nghi. Viên quản ngục và thầy thư lại, những kẻ đại diện
cho xã hội đương thời thì bỗng trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Điều đó cho thấy rằng: trong nhà tù tăm tối không phải những gì hiện thân cho cái ác, cái
tàn bạo, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang
làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ
phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, mà chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng
tạo nên cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm
đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách.


Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Chỉ sáng mai HC sẽ bị tử
hình, nhưng chắc chắn rằng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung
hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ mãi còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối
với viên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại
nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người
say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn
với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã

sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên
hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. ''Đó là âm thanh trong
trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ''. Cái tư thế khúm núm,
giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không
phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người
đáng thương này.
“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những
nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự
chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao
thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất
trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là
đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của
Nguyễn Tuân
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ
người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo trong việc tạo dựng hình tượng nhân vât chi
tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân góc cạnh, sáng tạo và
giàu tình cảm, cảm xúc dã mang người đọc đến với một không khí cổ kính trang nghiêm
đầy xúc động, có phần bi tráng- một khung cảnh cổ xưa.


Đề số 4: Suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân". Hãy
làm rõ nhận định trên qua tác phẩm "Chữ người tử tù".

1. Giới thiệu
- Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là nhà văn có vị trí đặc biệt
quan trọng.
- Với tài năng nghệ thuật và sự cảm nhận tinh tế về cuộc sống, Nguyễn Tuân thể
hiện qua tác phẩm của mình những suy tưởng sâu sắc về con người và cuộc sống.
- Bao trùm lên tất cả suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong nhiều tác phẩm của

Nguyễn Tuân.
- Cái đẹp là cái mà người nghệ sĩ muôn đời hướng tới. Sứ mệnh của người nghệ sĩ
là tìm cái đẹp trong cuộc đời để kết tinh thành cái đẹp trong nghệ thuật. Phát hiện và ngợi
ca suy tôn cái đẹp, Nguyễn Tuân đi theo con đường của riêng mình "là suốt đời đi tìm sự
thật và cái đẹp". Cái đẹp trong sáng tác Nguyễn Tuân đã làm nên nét riêng cho tính nhân
văn trong các tác phẩm của ông, thể hiện phong cách riêng ngang tàng của một người
nghệ sĩ dám lựa chọn cho mình một con đường riêng và lấy nó đối lại với toàn bộ xã hội
nhố nhăng Tây Tàu lẫn lộn thời bấy giờ làm sai lạc đi bao nhiêu giá trị cũ. Tất cả những
gì muốn trở thành đề tài của Nguyễn Tuân thì phải là cái đẹp.
2. Giải quyết vấn đề
2.1 Giải thích
* Trình bày phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân
Cần làm rõ đặc điểm hoàn cảnh xã hội và làm rõ đặc điểm phong cách Nguyễn
Tuân:


- Trong những sáng tác giai đoạn trước CMTT 1945, là một nhà văn có khuynh
hướng lãng mạn, Nguyễn Tuân đã chối bỏ thực tại bằng cách trở về với quá khứ vàng son
đã qua mà nay chỉ còn là một thời vang bóng. Ông nâng niu trân trọng những giá trị văn
hóa văn hiến cổ truyền của dân tộc thời xưa cũ nay chỉ còn sót lại trong kí ức của những
người có thiên lương.
- Chính vì lẽ đó mà trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân những nhân vật mà
ông yêu thích kính trọng nhất là những người tài hoa tài tử. Đó là những người sống đẹp,
những người sáng tạo ra cái đẹp và tôn thờ cái đẹp.
- Nguyễn Tuân tìm thấy cái đẹp ở lớp nhà Nho tài hoa, tài tử, tuy đã bất lực trước
thời thế nhưng không chịu làm lành với xã hội mà dùng lối sống tài hoa tìa tử của mình
để phủ nhận xã hội đương thời (cụ thể qua tác phẩm "Chữ người tử tù").
- Trong những sáng tác sau CMTT 1945 không đối lập quá khứ với hiện tại. Cái
đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại và tương lại và tài hoa có ở cá nhân đại chúng. Tìm những
hiện tượng gây cảm giác mạnh ở những phong cảnh đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên đất

nước và những thành tích của nhân dân trong chiến đấu và xây dựng. Vẫn dùng thể văn
tùy bút nhưng có pha chút kí với bút pháp hướng ngoại, để phản ánh hiện thực, ghi chép
thành tích chiến đấu, xây dựng của nhân dân.
2.2 Phân tích để làm rõ nhận định: Cái đẹp có trong "Chữ người tử tù"
* Về nội dung: Thể hiện qua việc xây dựng các nhân vật là những người tài hoa tài
tử:
- Huấn Cao là nhân vật đẹp của đời văn Nguyễn Tuân: Huấn Cao mang vẻ đẹp tài
hoa, khí phách hiên ngang bất khuất và vẻ đẹp thiên lương. Vẻ đẹp Huấn Cao hiện lên
qua lời nhận xét của Viên quản ngục và Thơ lại.
- Sự đồng cảm của những con người rất khác nhau trong ánh sáng chung của cái
đẹp, sức cuốn hút và tỏa sáng của vẻ đẹp đó ngay cả đối với những con người sống trong
hoàn cảnh xã hội xấu xa.


- Viên quản ngục: Sống trong cảnh lừa lọc tàn nhẫn những vẫn giữ được phẩm
cách cao quý. Là người có tâm hồn nghệ sĩ say mê và quý trọng cái đẹp, có tấm lòng biết
giá người, biết trọng người ngay. Quản ngục say mê cái tài cái đẹp và nhân cách của
Huấn Cao nên chân thành cung kính và biệt đãi Huấn Cao.
=> Cả hai đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, có thiên lương cao đẹp.
=> Vẻ đẹp của hai hình tượng này thể hiện tập trung ở cảnh cho chữ. Cái đẹp của
thiên lương, cái đẹp của tài năng và nhân cách đã vượt lên tất cả để chiến thắng. Nguyễn
Tuân bộc lộ quan niệm về cái đẹp. Trong quan điểm của Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi
với cái tâm, cái đẹp và cái thiện không tách rời nhau. Đó là quan niệm nghệ thuật tiến bộ.
Đó trở thành nét nổi bật trong tác phẩm cũng như trong những suy tưởng của Nguyễn
Tuân về cái đẹp.
=> "Cái đẹp cứu rỗi, cứu vớt thế giới này" (Đôx-tôi-ép xki). Cuộc hành trình đi tìm
cái đẹp của Nguyễn Tuân vì thế mà sẽ có ý nghĩa trong mọi thời đại.
* Về nghệ thuật: Xây dựng những trang văn đẹp qua nghệ thuật:
- Đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo le đầy kịch tính.
- Thủ pháp cường điệu hóa để làm rõ cái tuyệt mĩ phi thường.

- Sử dụng thủ pháp đối lập tương phản.
- Tạo không khí cổ xưa trang nghiêm, ngôn từ góc cạnh trang trọng cổ kính.
- Bút pháp dựng người dựng cảnh đạt tới mức điêu luyện.
3. Đánh giá
- Cái đẹp không thể hủy diệt. Niềm tin ấy làm nên những giá trị nhân văn rất sáng
giá của nghệ thuật Nguyễn Tuân.
- Tấm lòng yêu nước thể hiện qua việc rất trân trọng những giá trị văn hóa cổ
truyền dân tộc.


- Cái tài: tài năng, tài hoa. tài hiểu biết sâu rộng, uyên bác trong khám phá thiên
nhiên và tâm hồn con người, tạo dựng những hình ảnh mãnh liệt, gây ấn tượng sâu sắc,
sáng tạo ngôn từ...
- Cái tâm: tấm lòng hướng thiện, sự rung cảm chân thành đối với con người, cuộc
sống, non sông đất nước.
- Ở Nguyễn Tuân cái tâm, cái tài đều ở độ chín mùi và thăng hoa.


Đề số 5: Chứng minh lời khuyên dạy cuối cùng của Huấn Cao đối với viên quản ngục
càng thể hiện rõ quan điểm thông nhất của ông giữa cái tâm và cái tài.

1. Tình huống độc đáo của truyện
Tình huống có một vai trò hết sức quan trọng trong nghệ thuật truyện ngắn.
Truyện Chữ người tử tù đã đặt nhân vật của mình trong một tình huống éo le, trớtrêu.
- Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ
nhưng lại bị ném vào một môi trường tối tăm, dơ bẩn như những thanh âm trong trẻo xen
vào một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ, như cái thuần khiết giữa dông cặn bã.
- Hai nhân vật nói trên bị đặt ở hai tuyên đối địch với nhau: một đằng là tù nhân,
một đằng là quản ngục, Điều đó ngăn cách họ, khiến họ không dỗ dàng hiểu nhau, nhất là
ông Huấn Cao. Tình huống truyện nói trên đã làm nổi bật tính cách các nhân vật và tạo

nên kịch tính của tác phẩm.
2. Nhân vật Huấn Cao
Nhân vật Huấn Cao được dựng lên với vỏ đẹp vừa tài hoa sang trọng vừa uy nghi
lầm liệt. Một nhân vật được viết theo cảm hứng lãng mạn. Nhân vật có hai nét dẹp sau
đây:
a) Một nghệ sĩ chân chính: Huấn Cao là một tài năng hiếm có trong nghệ thuật thư
pháp. Ong viết chữ rất nhanh và rất đẹp, có dược chữ ông Huấn Cao mà treo là một vật
báu trên đời. Nhưng Huấn Cao còn coi trọng chữ tâm hơn chữ tài. Ta nhất sinh không vì
vàng ngọc hay quần thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Xin chữ ông khó lắm:
Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri ki, ông ít chịu cho chữ. Tuy vậy, khi biết viên quản
ngục là người tử tế, biết quí trọng cái tài, cái đẹp, ông vui lòng nhận lời cho chữ dù trong
hoàn cảnh bị cùm, bị xích: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta


có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy.
Thiêu chút nữa, ta đã mất một tấm lòng trong thiên hạ.
Lời khuyên dạy cuối cùng của Huấn Cao đối với viên quản ngục càng thể hiện rõ
quan điểm thông nhất của ông giữa cái tâm và cái tài, .giữa cái đẹp và cái thiện - mà ông
còn gọi là thiên lương: hãy thay chỗ ở đi, hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ
đến chuyện chơi chữ. ở dây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi củng đền nhem
nhuốc mất cả cái dời lương thiện đi.
b) Một nhân cách anh hùng đầy khí phách hiên ngang bất khuất. Một kẻ thủ xướng
phất cờ khởi nghĩa bị bắt và chỉ còn ngày chết chém, nhưng tư thế vẫn ung dung, thậm
chí không hề che giấu thái độ khinh bỉ đối với kẻ hoàn toàn C.Ó quyền hành hạ mình.
Ông trả lời viên quản ngục khi tướng rằng cũng chẳng khác gì những tên quản ngục khác;
Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một diều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.
c) Vẻ đẹp hình tượng Huấn Cao bộc lộ rực rỡ nhất trong cái đêm ông cho chữ viên
quản ngục, một cảnh tượng xưa nay chita từng có ở chốn ngục tù. Dưới ánh đuốc rực
sáng, một công việc đầy tính văn hóa và mỹ thuật diễn ra giữa cảnh tôi tàm, hôi hám, bẩn
thỉu của nhà tù.

Không phải kẻ coi giữ tù làm chủ mà chính người tù làm chủ: tên tử tù cồ đeo
gông, chân vướng xiềng đàng hoàng uy nghi tô dậm những nét chữ vuông vắn lên tấm lụa
bạch, trong khi viên quản ngục thì khúm núm, thầy thơ lại thì run run bưng chậu mực ...
Đây là sự chiến thắng vinh quang của ánh sáng, của cái đẹp, cái thiện ở giữa ngay sào
huyệt của bóng tối, của cái ác, cái xấu. Hình tượng Huấn Cao trong đoạn văn kết thúc
thiên truyện này có thế xem là một biẻu trưng chói lọi của cuộc chiến thắng đó.
3. Nhăn vật viên quản ngục
Quản ngục quả là một nhân cách tốt đẹp trong sáng bị ném vào giữa một đông cặn
bã. Tuy nhiên, ông vẫn giữ vững được thiện căn của mình. Đây cũng là một tâm hồn tài
hoa nghệ sĩ vì biết yêu quý thật sự cái tài, cái đẹp. Yêu quý đến mức có đủ kiên nhẫn đố
chịu đựng những lời khinh bạc đủ điều của một kẻ tử tù ném vào mặt mình. Sự vêu quy


ấy còn có thể phải trả giá rất đắt nếu cách ứng xứ biệt nhỡn liên tài đối với Huấn Cao bị
phát giác. Nhưng yêu quý Huấn Cao đâu phải chỉ vì yêu quý cái tài, cái đẹp. Đó là một
thái độ ngưỡng mộ đối với một bậc anh hùng chọc trời khuấy nước. Cho nên con người
này cũng là một nhân cách cao đẹp. Xáy dựng nhân vật này, Nguyễn Tuân cũng chứng tỏ
quan niệm thống nhất giữa cái tài và cái tâm, cái đẹp và cái thiện.
Cần thấy rằng một con người chân chính không chí thể hiện ở chồ không biết sợ
những gì phi nghĩa, mà còn ở chỗ biết sợ những cái đáng sợ. ở đây là cái tài, cái đẹp, cái
thiên lương. Cao Bá Quát, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao, từng có câu thơ rất dẹp,
rất sang:
Nhát sinh đê thử bái mai hoa (Một dời chỉ cúi dầu vái lạy hoa mai)
Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, nhưng cũng có cái cúi
đầu khiến con người trở thành đẹp hơn, sang trọng hơn.
Hình ảnh viên quản ngục, sau khi lắng nghe những lời khuyên dạy của Huân Cao,
đã cảm động, vái tên tù một vái và nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm
cho nghẹn ngào; Xin bái lĩnh có thế xem là thái độ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa vậy.




×