Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP TRONG VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA NGUYỄN TUÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.75 KB, 17 trang )

VĂN MẪU 11: CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ – NGUYỄN TUÂN
QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP TRONG VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA
NGUYỄN TUÂN

BÀI LÀM:

Nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận xét: “Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái
đẹp và cái thật”. Có thể nói trong suốt cuộc đời, bằng ngòi bút điêu luyện của mình,
Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa. Vang bóng một thời – tập truyện ngắn đặc
sắc của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chính là một chặng quan trọng trong
hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Muốn hiểu được quan niệm về cái đẹp của nhà văn
rất phức tạp này, thiết nghĩ phải quay về thời đại Nguyễn Tuân sống trước Cách mạng
tháng Tám.
Ở thời kì này, xã hội Việt Nam có sự phân hóa rõ rệt. Không phải ai cũng may
mắn tìm thấy con đường đi đến với Cách mạng như một bộ phận tri thức lúc bấy giờ. Các
nhà văn – chiến sĩ như Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Trần Huy Liệu, Sóng Hồng… đã tiếp thu
được tư tưởng của giai cấp công nhân, coi thơ văn trước hết là vũ khí chiến đấu, là
phương tiện để tuyên truyền, vận động cách mạng, quan niệm về cái đẹp của các nhà văn
– chiến sĩ này gắn liền với tư tưởng cải tạo xã hội. Trong khi đó, đại bộ phận tầng lớp văn
nghệ sĩ (trong đó có Nguyễn Tuân), mặc dù có tinh thần dân tộc song không có điều kiện
để tiếp thu tư tưởng cách mạng, chẳng biết làm gì hơn là viết văn, viết báo. Đối với
những văn nghệ sĩ này, viết văn là một cách để họ thể hiện thái độ của mình.
Qua những trang văn, Nguyễn Tuân lên tiếng phản đối cái xã hội “Ối a ba phèng”
lúc đó hoặc thực hiện chủ trương xê dịch, giang hồ. Đó cũng là cách quay lưng lại với xã
hội, là cách phản ứng trước những sự tấm thường, xô bồ, hỗn độn của đời sống. Có điều
những trang văn, những chuyến xê dịch giang hồ ấy, ngoài chuyện để quay lưng lại với


xã hội, tự bản thân chúng còn làm thỏa mãn một nhu cầu có tính chất tối thượng của nhà
văn: đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn khao khát đi tìm “cái đẹp và cái thực” song trong
thời đại mà Nguyễn Tuân sống, cái đẹp chân chính thật không dễ tìm chút nào, nói như


nhà văn Nguyễn Đình Thi thì “Trong cuộc đời ông sống, cái đẹp và cái thật không bao
giờ khớp được với nhau”. Có lẽ vì thế Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá khứ và
tìm ngay trong chính tâm tưởng, cảm giác của mình.
Đọc những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, ta dễ thấy nét
giống nhau của Nguyễn Tuân với các nhà văn lãng mạn khác, đó là sự đề cao cái đẹp một
cách thuần túy, không vụ lợi. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Tuân quan niệm “viết văn không
khuynh hướng”. Cái đẹp, văn chương cũng như nghệ thuật, theo ông, không có nội dung
xã hội, giai cấp và thời đại. Nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét: “Nguyễn Tuân luôn muốn
mỗi ngày sống, mỗi trang đời của mình cũng là một trang nghệ thuật”. Chính thái độ
nâng niu, trân trọng cái đẹp và với cách nhìn nghiêng về nghệ thuật của ông đã tạo nên
một Nguyễn Tuân “vị nghệ thuật” trong văn chương.
Đọc Vang bóng một thời, người đọc có thể nhận thấy quan niệm của Nguyễn Tuân
về cái đẹp. Quan niệm này được thể hiện trong nét lớn sau:
1. Cái nhìn hướng về quá khứ.
Không chấp nhận hiện tại, cái nhìn của Nguyễn Tuân hướng về quá khứ. Mỗi
truyện ngắn trong Vang bóng một thời không ít thì nhiều đã làm sống lại những phong
tục tập quán dân tộc, những thú chơi tao nhã gắn liền với những ông nghè, ông cử đã thất
thế song vẫn cố giữ thói quen thanh cao, lịch lãm trong một xã hội có nhiều nhiễu
nhương.
Truyện Những chiếc ấm đất kể về một ông cụ Sáu mê uống trà tầu, mà nước pha
trà phải là thứ nước lấy ở cái giếng tận trên chùa Đồi Mai. Nhà văn mượn lời sư cụ chùa
Đồi Mai để nói về ông cụ Sáu “Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp
ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quí nhãn tiền không bằng một ấm trà tầu”. Cứ
nhìn cái cách ông cụ nâng niu những chiếc ấm đất của mình, am hiểu tường tận về từng


chiếc kim hỏa của chiếc ấm, mới thấy hết cái thú uống trà tầu ở con người này. Kể cả khi
thất cơ lỡ vận, ông cụ Sáu vẫn “quen thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai,
gặp mùa hoa nở, cụ còn cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà giắt trong mình, nếu
đấy là trà mạn cũ”. Con người xem việc uống trà như là một công việc quan trọng nhất

của đời mình ấy đã có lúc phải ngồi bán đi lũ ấm đất của mình, lũ ấm đất “ngày trước giá
có chồng ngay cọc bạc nén cho trông thấy, chưa chắc cụ đã bán cho một chiếc”. Ẩn sau
cái cười “hề hề” của ông cụ khi tiết lộ cái mẹo nhỏ là bán thân ấm rồi mới bán đến nắp
ấm, ta thấy cả mỗi một nỗi lòng xót xa, đứt ruột!
Chén trà trong sương sớm lại còn miêu tả tỉ mỉ hơn cái thú uống trà của lớp người
xưa cũ ấy. Cụ Ấm trong truyện có thói quen uống trà từ rất sớm, từ lúc “trời còn tối đất”.
Không khí của những buổi uống trà sớm ấy thật đặc biệt. Nổi bật lên trên khung cảnh tĩnh
lặng và tinh khiết của buổi sớm là hình ảnh cụ Ấm “Sau màn khói, ẩn hiện một ông già
chống nạnh ngồi bên gối xếp, cặp mắt liêu xiêu như một nhà sư nhập định, vẻ nghiêm
trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả khói trắng hiếu động đang trôi trong
không khí gian nhà gạch…”. Cùng với ông cụ Ấm, hình ảnh cái hỏa lò hiện ra thật sống
động dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân: “Hòn than tầu lép bép nổ, nghe rất vui
tai… Những hòn than cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn ở chung
quanh. Không khí mỗi lúc dao động càng nâng cao thêm những ngọn lửa xanh nhấp nhô.
Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng thổi chảy”.
Cách uống trà của ông cụ quả là rất cầu kì, có thể nói đã giống như một thứ lễ nghi. Chưa
bao giờ ông cụ dám cẩu thả trong cái “thú chơi thanh đạm” này mà đã để vào đấy bao
nhiêu công phu, bởi vì theo cụ “trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút
mùi thơ và một tị triết lí và tâm lí”. Hỏa lò, những ấm trà, và nước pha trà thơm lành
đọng trong lá sen. tất cả sự cầu kì và công phu ấy dường như đã được đền đáp vì xung
quanh ấm trà là những người tao nhã, cùng “một thanh khí” với nhau.
Đối với gia đình cụ Ấm, việc uống trà còn gắn liền với việc bình văn, ngâm thơ
buổi sớm. Giọng ngâm “trong và dài” của người con trưởng cụ Ấm vang lên trong không
khí tĩnh lặng, trong lành của buổi sớm mai thực đã gợi ra nét văn hóa của một thời. Việc


uống trà, bình văn, ngâm thơ buổi sớm, theo cụ Ấm còn là một cách “vận động thần khí
kì diệu nhất của một người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi ngâm như
thế là đủ tiết hết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu
tiên của trời đất” … Với Chén trà trong sương sớm, Nguyễn Tuân đã giúp ta hiểu thêm

về một thú chơi nhã đạm của cha ông trong quá khứ, Và không phải riêng Nguyễn Tuân,
người đọc ở những năm đầu thế khỉ XXI này cũng cảm thấy bâng khuâng, tiếc nuối!
Hương cuội cũng làm người đọc thích thú, thán phục bởi một kiểu tiêu khiển khác,
vừa quen thuộc vừa độc đáo của cụ Kép, con người “nguyện đem cả quãng đời xế chiều
của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý”. Hình ảnh cụ Kép trong truyện tạo cho
người đọc cảm giác về sự ẩn dật, lánh đời, thoát tục: “Trong cái vườn cây nhỏ, trong đám
cỏ cây xanh rờn, những buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn nắng, người ta
thường thấy một ông già lông mày bạc, tóc bạc mặc áo lông trắng lom khom tỉa những lá
úa vàng trong đám lá xanh”. Lòng yêu hoa của cụ Kép thật đặc biệt “mỗi lần có người
động mạnh vào giò lan đen, cụ Kép lại suýt xoa như có người châm kim vào da thịt
mình”.
Với truyện ngắn này, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc hình dung được cái không
khí rất đặc trưng của những ngày Tết cổ truyển Việt Nam. Ngày 30 Tết, cả nhà cụ Kép
đạng bận bịu dọn dẹp để ăn Tết. Mợ Ấm cả, mợ Ấm hai ngồi lau lá dong chăm chỉ còn lũ
con trai thì “đang đánh bóng ngoài sân những lư, đỉnh, cây đèn nến bằng đồng mắt cua
và bằng thiếc sông Ngâu”. Riêng cụ Kép và người bõ già thì lại bận bịu một công việc
khác: chuẩn bị cho bữa rượu kẹo mạch nha có nhân đá cuội được ủ trong những chậu hoa
lan thơm ngát. Công việc để chuẩn bị cho tiệc rượu độc đáo này được nhà văn miêu tả tỉ
mỉ làm sao! Những viên đá cuội trắng tinh đã được rửa thật sạch, được lựa chọn thật kĩ,
bây giờ được đem ra dúng vào nồi kẹo mạch nha đã nguội, rồi cuối cùng được người bõ
già “đem đặt rất nhẹ nhàng lên trên lượt đá lót trên nền đất chậu hoa”. Sau đó những
chiếc lồng bàn bằng giấy sẽ được úp cẩn thận lên những chậu mặc lan sắp nở hoa kia.
Bữa tiệc rượu đặc biệt thanh tịnh được mở đầu rất ấn tượng: “Bõ già vòng tay vái các cụ
và đợi các cụ yên vị rồi thì khom khom mở từng chiếc lồng bàn giấy một. Một mùi hương


lan bị bỏ tù trong bầu không khí lồng bàn giấy phất từ đêm qua, đến bây giờ vội tản bay
khắp vườn cây. Bốn cụ già và bõ già đánh hơi mũi, những cặp mắt kém cỏi đăm đăm
nhìn kỹ khoảng không trong vắt như có ý theo dõi luồng hương thơm đang thâm nhập
dần vào các lớp khí trời. Cơn gió nhẹ pha loãng hương thơm đặc vào không gian”.

Những viên kẹo nhân đá ướp hương hoa, chén rượu tăm, và “Tiếng ngâm thơ quyến rũ
đến cả tâm hồn” trong cái êm ấm của buổi chiều xuân… tất cả đã nói lên rất nhiều trân
trọng của nhà văn trước thú vui nhã đạm này. Phải là người có vốn sống phong phú, có
sự hiểu biết sâu sắc và yêu mến biết bao nhiêu những phong tục tập quán cổ truyền của
dân tộc mới có thể viết được những trang văn tinh tế đượm tấm lòng trìu mến như thế.
Nguyễn Tuân còn đặc biệt thích thú trước tục thả thơ, đánh thơ. Chính vì vậy,
trong Vang bóng một thời, ông đã dành cả hai truyện ngắn cho đề tài này. Cũng như các
truyện ngắn khác trong tác phẩm, hai truyện ngắn Thả thơ; Đánh thơ - nói như giáo sư
Hoàng Như Mai – đã tạo cho ta những “khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt” bởi vì nhà văn “đã
dạy cho ta nghệ thuật sống để tận hưởng ý vị tinh túy, sâu sắc của cuộc sống”. Đây là hai
truyện ngắn tiêu biểu đã đề cao, làm sống lại một thú chơi tao nhã đã đang dần bị mai
một trong hiện tại. Rất nhiều người có lẽ đã phải cảm ơn Nguyễn Tuân vì qua những
truyện ngắn như thế này, họ đã biết được, hiểu được thú tiêu khiển cổ xưa mang đậm chất
bác học, tài hoa và dân tộc của cha ông. Hãy chú ý lắng nghe lời giải thích của cô Tú –
con cụ nghè Móm, về hai chữ “Thả thơ” cho lũ học trò nhỏ tuổi để có thể hình dung thứ
công việc vừa công phu lại vừa thú vị này: “Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng một câu
thơ bảy chữ mà chỉ có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì bỏ trống và thay vào đấy một cái
khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng…”
Đánh thơ được tác giả gọi là “Một cuộc đỏ đen rất trí thức” trong truyện gắn liền
với đôi vợ chồng lãng tử: ông Phó Sứ và Mộng Liên. Cuộc đánh thơ với tiếng đàn, giọng
hát đã thu hút nhiều hạng người. Có những người đến không chỉ vì tiền mà là vì yêu thích
văn chương. Đối với họ - những ông Hậu bổ, Thông phán tỉnh, Kinh lịch – được hay thua
“cũng đều lấy làm thích cả”. Họ đến với cuộc thả thơ đôi khi chỉ là để được nghe những
tiếng ngâm thơ trên làn nước lạnh, những “thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái


bình như tiếng vang của một hội tao đàn nào”. Thả thơ đã đưa lại cho họ những phút giây
hứng thú đặc biệt: “Mỗi lúc ngâm lên, cái hay của câu thơ đã làm cho bọn mình lạnh hết
cả người”. Thế nhưng đến với cuộc thả thơ còn có cả những hạng người khác nữa.
Nguyễn Tuân đã không dè dặt mỉa mai, châm biếm hạng người “dốt cay dốt đắng”, đã

không biết thưởng thức thơ hay mà chỉ “mỏi tay vơ tiền”. Họ chính là những ông huyện
Bình Khê “người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm lạ…”.
Cũng từ góc độ về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã tỏ ra hết sức tinh tường, sắc sảo khi
phát hiện ra những nét phản thẩm mĩ, những cái xấu xa của hạng người trưởng giả trong
xã hội Tây Tàu nhố nhăng. Theo nhà phê bình Hà Văn Đức, Nguyễn Tuân đã lên án bọn
người này không phải theo quan điểm về giai cấp mà xuất phát từ góc độ thẩm mỹ. Đây
là nhận xét rất đúng. Trong tập Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân ghét cay ghét đắng
hạng người trưởng giả không phải chúng áp bức bóc lột người nghèo mà vì chúng không
biết thưởng thức cái đẹp, “ngồi xổm lên cái đẹp”. Như vậy, khác với các nhà văn hiện
thực phê phán cùng thời, Nguyễn Tuân đã phản ứng lại cái xã hội kim tiền trên phương
diện mỹ học. Những đối tượng mà Nguyễn Tuân hay nhắm tới là những ông huyện Bình
Khê (Đánh thơ) là những kẻ “ít chữ” song sung sướng được “Lạm dự vào làng thơ phú”
(Thả thơ). Đó còn là ông huyện Thọ Xương, “Một người có tâm thuật rất hèn kém”… Ở
những truyện khác, Nguyễn Tuân có “Lối đánh mà người ta gọi là bỏ nhỏ, nhẹ mà đau
điếng” (Hoàng Như Mai). Trong truyện Những chiếc ấm đất, tác giả để cho người khách
của ông cụ Sáu kể một câu chuyện cổ tích. Đó là câu chuyện về một “tên ăn mày cổ
quái” dám xin gia chủ cho uống trà tàu, mà lại xin uống cả ấm. Thế rồi điều bất ngờ đã
xảy ra. Chính tên ăn mày chứ không là ai khác đã nhận ra vị trấu tạp lẫn trong hương vị
thanh khiết của trà! Rõ ràng qua câu chuyện, nhà văn đã tỏ thái độ coi thường hạng người
trọc phú, nhiều tài lắm của nhưng lại chẳng tinh tế chút nào. Về phương diện này, lão phú
hộ giàu có trong truyện đã không bằng được một kẻ ăn mày. Ở Chén trà trong sương
sớm, Nguyễn Tuân nói tới những ông khách tạp “uống trà rất tục”. Đối với “mấy thầy
làm việc bên bảo hộ” có cách uống trà như uống giải khát này, theo nhà văn, phải uống
thứ nước trà “pha sẵn trong bình tích” mới thật thích hợp. Uống trà – “lối giao du của cổ


nhân đạm bạc”, nói như ông cụ Ấm trong truyện là không thể “ồn ào, huyên náo như
bây giờ”…
Phê phán hạng người trọc phú, những kẻ dốt nát, đề cao và hướng cái nhìn của
mình vào quá khứ, vào những thú tiêu khiển tao nhã nói trên, Nguyễn Tuân đã tỏ rõ thái

độ của mình. Đó là thái độ bất mãn sâu sắc trước hiện thực. Có lúc, thái độ ấy thể hiện
trong suy nghĩ chua chát của một ông cụ Kép (Hương Cuội): “Nhưng nghĩ mình chỉ là
một anh nhà nho sống vào giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ,
làm tiêu mất nhiều giá trị tinh thần…” Con người cho mình là “kẻ chọn nhầm thế kỷ” này
chính vì vậy đã chọn việc uống rượu, chơi hoa làm một thứ công việc mang lại niềm vui
cho mình trong buổi xế chiều của cuộc đời. Cũng có khi nhà văn lại mượn lời cô Tú (Thả
thơ) để nói lên tâm sự bực dọc, chua chát của mình: "Ở đời ăn nhau may rủi, chữ nghĩa
tài hoa mà làm gì"... Đó còn là thái độ nhớ tiếc những giá trị văn hóa tinh thần của một
thời: "Từ Mậu Ngọ trở về sau, sẽ ở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm
trong cõi học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều, cái chõng chỉ còn là
những vật cổ tích mỗi khi nhắc nhỏm lại gợi lại một chút nhớ tiếc trong lòng một đám
người mệt mỏi còn sống thêm một ngày là cảng chỉ thêm bỡ ngỡ với phong vận mới"
(Báo oán)
Quay lưng lại với xã hội đương thời nhưng rõ ràng Nguyễn Tuân đã không quay
lưng lại với những phong tục, truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc,. Ông say sưa nói
về việc thả thơ, đánh thơ, uống trà, làm đèn trung thu với một thái độ ca ngợi và nuối
tiếc. Đọc những trang văn Nguyễn Tuân viết về những thú chơi tao nhã, về những phong
tục đáng yêu đáng quý của dân tộc mới thấy được tinh thần yêu nước thầm kín, sự gắn
bó, vốn hiểu biết sâu rộng về cuộc sống của ông.
2. Quan niệm cái đẹp gắn liền với chất tài hoa tài tử.
Trong các sáng tác trước và cả sau cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân thường
chú ý đến chất tài hoa tài tử khi miêu tả và thể hiện con người. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp
thường đi đôi, gắn bó với cái tài, với chất nghệ sỹ, điều này cũng thống nhất với nét tài
hoa, nghệ sỹ trong con người ông.


Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tỏ lòng mến mộ, yêu quý những con
người tài hoa mà thất thế hay những lãng tử giang hồ. Ở những nhân vậy này, nhà văn
chẳng những khai thác khía cạnh tài hoa tài tử mà còn chú ý cả những điểm khác người,
thậm chí đến mức lập dị, cầu kỳ của họ. Truyện Đánh thơ nói về một đôi vợ chồng lãng

tử mà Nguyễn Tuân đã gọi họ bằng một cái tên trìu mến "Một lứa đôi tài tử". Mỗi tuần
trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh và chưa bao giờ "Nghĩ đến việc làm một cái tổ ở một chỗ
nhất định nào". Ngay đến cả cái chết của kiếp con người, chất lãng tử cũng thật đậm nét
khiến cho Nguyễn Tuân vừa ngậm ngùi thương tiếc lại vừa mến mộ: "Đi qua Hoành Sơn
quan thấy cảnh đẹp, lòng sinh tình, hai ông mụ đã yêu nhau giữa một vùng trời nước bao
la... Trúng cơn gió độc, ông Phó Sứ đã hóa ra ma chết sát ngay bên đường thiên lý".
Cụ Hồ Viễn trong Ngôi mã cũ vốn xuất thân từ tướng Cờ Đen oai phong lẫm liệt
một thời nay vì thất thế mà trở thành một ông thầy địa lý nhưng vẫn giữ được nét tài tử,
nghệ sĩ. Nhân vật cô Tú trong truyện đã kể cho đứa em nghe nhiều chuyện về cụ. Đó là
một con người mà qua lời kể của cô chị, cậu Chiêu "thấy cả một huyền sử bộc chung
quanh một tướng võ nghệ cao cường". Hình ảnh cụ Hồ lúc còn làm tướng Cờ Đen thật
oai phong lẫm liệt : "Bên thắt lưng điều, cụ giắt hai khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu
đoạn mã và phía bên phải là một khẩu súng thập bát hưởng bắn một lúc được mười tám
phát liền". Nhưng người ta còn nhớ đến con người này bởi một phong thái ung dung, tài
tử: "Những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài "sường sám", đội mũ "sường chí" có
những quả bông đỏ, cầm quạt... trông nhàn nhã và văn vẻ lắm". Viên tướng Cờ Đen này
lại có nét chữ viết rất đẹp, rất tốt "Chữ thầy viết có gân cứng cỏi như lá thiếp... nét sổ rất
khỏe và rất thẳng". Con người ấy, dù đã thất thế, vẫn cố giữ một nét sinh hoạt cầu kì
"Thuốc phiện, nếu không phải là thứ một lạng đựng vào cóng thì không hút", vẫn để
móng tay út lá lan "cuống hai vòng như râu rồng" và mỗi bận rửa ta thì phải lại có vài quả
chanh. Chất tài hoa tài tử còn được thể hiện trong chi tiết ông cụ Hồ Viễn và cậu Chiêu
đã đánh với nhau mấy ván cờ không có quân đi, không có bàn bày trên đường đi...
Trong Một cảnh thu muộn, ông Cử Hai là một mẫu người tải tử điển hình. Ông là
"người có hoa tay" lại "thêm được chút tâm hồn lãng tử" nên "sống cuộc đời cũng như


người ta chơi bời mà thôi. Người ấy thật là người không có lấy một giây phút trịnh trọng
với nhân sinh. Ông ta sinh ra để mà đùa với cuộc sống và bắt đầu từ việc đem ngay cái
tài hoa của mình ra mà đùa nhả với sự nghiệp thân thế mình". Làm công việc dạy học mà
con người chịu ảnh hưởng nhiều của nhân sinh quan Lão Trang này không mấy chú tâm,

chỉ thích đi hội Đạp Thanh để làm thơ tức cảnh, lên núi hái lá thuốc, ngắm trăng trên đỉnh
Sài Sơn hoặc ẩn mình đối với nhân vật này. Phải chăng đó là sự gặp gỡ, là hiện thân của
chất tài tử, của chủ nghĩa xê dịch trong Nguyễn Tuân?
Nói đến chất tài hoa tải tử, không thể không nhắc đến Huấn Cao trong truyện ngắn
Chữ người tử tù. Con người tài hoa ấy chẳng những có tài bẻ khóa, vượt ngục mà con có
tài "viết chữ rất nhanh và đẹp" nổi tiếng cả tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên
quản ngục đã từng ao ước "có được chữ của Huấn Cao mà treo là một báu vật trên đời".
Thế nhưng không dễ gì xin được chữ của ông. Con người ấy đã từng nói với viên quản
ngục "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.
Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân
của ta thôi". Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn đã làm nổi bật lên một nhân cách
cao vời vợi. "Con ngưởi này vừa là một nghệ sỹ tài hoa vừa là một trang anh hùng dung
liệt mặc dù chí lớn không thành nhưng bao giờ tư thế cũng hiên ngang bất khuất" (Trần
Hữu Tá). Đọc truyện người ta dễ dàng nhận ra thái độ thán phục của Nguyễn Tuân trước
trang anh hùng dũng liệt này. Nhân cách, khí phách của Huấn cao thể hiện trong cái vẻ
lạnh lùng “thúc mạnh thành gông xuống đất đánh huỳnh một cái” mà không thèm để ý
đến những lời dọa nạt của mấy tên lính áp tải, trong thái độ thản nhiên trước cái chết sắp
cận kề, trong những lời nói thể hiện quan niệm sống coi thường bạc vàng, quyền thế của
ông. Nhung nhân cách của Huấn Cao còn được thể hiện trong việc ông nhận ra sở thích
cao quý của viên quản ngục. Chính vì thế, cảnh cho chữ phi thường mới diễn ra trong
chốn ngục tù: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên trạm
canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm
ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián”. Trong cảnh tượng lạ lùng
này, viên quản ngục – người nắm quyền uy, thì “Khúm núm”, tay “run run” bưng chậu


mực. Còn Huấn Cao, tên tử tù sắp bị chém đầu thì ung dung, đĩnh đạc biết bao! Không
nghĩ gì đến cái chết đang đón đợi mình, Huấn Cao chỉ chú ý đến mùi thơm của chậu mực,
màu tinh khiết của bức lụa trắng và cuối cùng là lời khuyên viên quản ngục hãy thay đổi
chỗ ở để khỏi “Nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”. Ở truyện ngắn này, quan niệm của

Nguyễn Tuân thể hiện khá rõ: cái tài phải di cùng với cái thiên lương trong sáng. Chính
sự kết hợp giữa cái tài, thiên lương và khí phách anh hùng đã làm nên nhân cách cao vợi
của Huấn Cao.
3. Cái đẹp mang tính chất duy mỹ
Như trên đã nói, Vang bóng một thời là minh chứng sinh động cho quan điểm
“Nghệ thuật vị nghệ thuật” của Nguyễn Tuân thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Là
một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật trong đời, Nguyễn Tuân nhiều khi đã
không chú ý đến tính chất xã hội của hiện thực. Ông mải mê ca ngợi những cái đẹp thuần
túy, mang tính hình thức. Hai truyện ngắn Chém treo ngành và Ném bút chì là những ví
dụ tiêu biểu cho việc ca ngợi, phản ánh cái đẹp một cái duy mỹ của ông.
Truyện Chém treo ngành kể về một tên đao phủ tên là Bát Lê. Bát Lê là người “có
tài chém đầu người chỉ một nahst mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy” như quan
Tổng đốc đã nhận xét về y. Cuộc chém đầu những kẻ phiến loạn được Bát Lê tập dượt
bằng những buổi chém những thân cây chuối trên một góc thành. Tiếng hát của Bát Lê
cùng với tiếng những thân chuối đổ trên mặt thành gây một cảm giác rờn rơn, chết choc.
Nhà văn đã dừng lại khá lâu để miêu tả cảnh Bát Lê tập lối chém treo ngành trong vườn
chuối: “Bát Lê tiến thêm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu bên trái, Bát Lê
thuận tay trái đà thanh quất, lại chém xuống đấy một nhát thứ hai. Một thân cây thứ hai
gục xuống nữa như một thần hình người quỳ chịu tội. Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái,
vừa chém bên phải, Bát Lê đã hát hết mười bốn câu và đánh gục mười bốn chân cây
chuối… Bát Lê quay mình lại, ngắm các công trình phá hoại của mình. Thì ở mười bốn
cây chuối chịu tội kia, thân trên bị chém vẫn còn dính vào phần gốc bởi một lần bẹ bị
giập nát”. Buổi chém tử tù cũng được miêu tả với giọng văn hiện thực, có phần bàng
quan, lạnh lùng như vậy: “Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy vòng. Rồi y hát


những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp, các quan chỉ nghe thấy cái âm thanh
lơ lớ rờn rợn. Quan Công Sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù và múa
hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ chẻ gục đến đấy. Những tia máu phun lên
phì phì, vọt lên cao trên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào

rụng xuống”. Vào những lúc nhộn nhạo quá đông tử tù, việc chém đầu người sẽ được
tiến hành theo một cách còn “tài tình” hơn và tất nhiên cũng rùng rợn hơn. Người ta sẽ
“Chẻ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ từ tù xếp hàng và nối đuôi quỳ hướng về một
chiều. Đại để cũng giống như là cái lối cắp gắp chả chim mà nướng ấy”. Rồi đao phủ sẽ
cầm gươm mà róc ngang như người ta “róc mắt mía”…
Trong truyện ngắn Ném bút chì, Nguyễn Tuân nói tới cái tài ném lưỡi mai chết
người của Phó Kình, của Lý Văn trong một đảng cướp. Chỉ với “cây bút chì”– lưỡi mai
thô sơ mà y (Phó Kình) đã dám “chấp cả một ấp người”. Tài ném lưỡi mai của hạng
người này có thể nói đã được miêu tả như một thứ nghệ thuật: “Phó Kình cuộn mấy vòng
dây thừng dài đến mấy sải vào cánh tay trái, bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay
phải y giữ vững dốc nhọn mai… Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gúc
xuống mặt đất, kêu đánh roạt.” Còn đây là những dòng miêu tả tài “ném bút chì” của Lý
Văn: “Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh vút. Một tiếng gà oang oác. Cả
bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gãy mất hai chân. Vết thương gọn gàng vừa
đúng quãng đầu gối và gặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn sinh vào đùi bởi lần da hoen máu.”
Lý Văn còn hứa hẹn với đồng bọn về một thứ “tài nghệ” mới: “ Để hôm nào rảnh anh sẽ
dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo bằng gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn chiến thì
đầu người cứ rụng như sung”.
Đọc những truyện ngắn loại này, nhiều người có cảm giác giọng văn của Nguyễn
Tuân lạnh lùng, tàn nhẫn làm sao! Tả cảnh chém đầu người giữa pháp trường mà giọng
văn cứ lạnh lùng, tình táo như không. Thực ra cần phải hiểu quan niệm của Nguyễn Tuân
khi miêu tả hiện thực. Phải chắng, với quan niệm “Viết văn không khuynh hướng”,
Nguyễn Tuân chỉ chú ý ngợi ca những cái đẹp mang tính hình thức chứ không mang tính
tư tưởng ? Sự phiến diện trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân ở giai đoạn trước


Cách mạng tháng Tám là một hạn chế lớn. Đọc Vang bóng một thời hay Tóc chị Hoài,
Chiếc lư đồng mắt cua…, dễ thấy nhiều khi Nguyễn Tuân tách rời ra khỏi cái đẹp có ích,
đề cao cái đẹp một cách thuần túy. Trong Tóc chị Hoài, Nguyên Tuân cũng đã từng tuyệt
đối hóa cái đẹp của hình thức khi miêu tả mái tóc người con gái. Ngay cả trong Chùa đàn

– tác phẩm được viết sau 1945, người ta vẫn thấy quan niệm nghệ thuật cũ của Nguyễn
Tuân trước cách mạng. Theo nhà văn, cái đẹp trước hết phải gắn với cái tài. Với Nguyễn
Tuân, đã tài thì đều đáng khâm phục, không nhất thiết phải xem cái tài đó có lợi hay
không. Trong Chùa Đàn, nhà văn ca ngợi tiếng đàn oan nghiệt ma quái: “Người ta vừa
đàn vừa khóc và người ta đàn đến mức hộc máu ra mà gục chết dưới gốc nhạc khí.” Nếu
gạt bỏ đi yếu tố ma quái trong truyện này, người đọc vẫn thấy rõ sự thán phục của nhà
văn trước tài đánh đàn của Bá Nhỡ và tiếng hát điêu luyện, ngọt ngào của cô Tơ.
Những năm sau này, với những tùy bút nổi tiếng như Sông Đà và Hà Nội ta đánh
Mĩ giỏi, thế giới quan của nhà văn có nhiều thay đổi. Cái nhìn của nhà văn trở về nên tin
yêu, đôn hậu, không có cái vẻ khinh bạc như trước kia. Tuy nhiên, có một điều không thể
thay đổi trong cảm hứng thẩm mỹ của nhà văn. Nguyễn Tuân vẫn say sưa miêu tả, thể
hiện cái tài của những con người bình thường giản dị mà không giấu diếm sự thán phục
của mình đối với họ. Đọc Người lái đò sông Đà trong tập tùy bút Sông Đà mới thấy nhà
văn đã dành bao nhiêu yêu mến và thán phục trước người lái đò trên sống Đà. Trong
thiên tùy bút này, người lái đò hiện ra dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa có cốt cách
của một anh hùng lại vừa có phong thái của một nghệ sỹ tài hoa, tài tử. Như vậy, chính
quan niệm về cái đẹp vừa có tính chất nhất quán vừa có sự biến đổi trong những tác phẩm
sau Cách mạng tháng Tám như Người lái đò sông Đà đã tạo nên một phong cách lớn
Nguyễn Tuân.
Cái đẹp mang tính duy mỹ rõ ràng đã gây nhiều chú ý, thắc mắc ở người đọc khi
đến với Vang bóng một thời. Nhưng ở đây dường như cũng chứa đựng ít nhiều mâu
thuẫn. Đồng ý rằng nhà văn ít chú ý đến ý nghĩa xã hội của đời sống, chỉ quan tâm đến
phương diện mỹ học của sự vật và con người những sẽ lý giải như thế nào trước một
Nguyễn Tuân giàu cảm tình với cái “thiên lương” cao quý và một Nguyễn Tuân giàu tinh


thần dân tộc? Chữ người tử tù lâu nay đã được coi là một truyện tiến bộ. Truyện chẳng
những thể hiện thái độ luyến tiếc của nhà văn trước một nhã thú văn hóa cổ truyền đang
dần lụi tàn – nghệ thuật thư pháp – mà còn nói lên rất nhiều khâm phục của tác giả đối
với Huấn Cao, hình bóng của người anh hùng Cao Bá Quát. Ngay cả những truyện được

coi là đậm chất duy mỹ như Chém treo ngành vẫn có thể khơi gợi nơi người đọc một sự
căm thù sâu sắc đối với bè lũ thực dân và tay sai của chíng. Chẳng phải là Nguyễn Tuân
đã thể hiện một cách kín đáo thái độ của mình qua đoạn văn miêu tả cơn lốc xoáy kỳ lạ
giữa pháp trường làm hất tung chiếc mũ trên đều quan Công Sứ đó sao? Như vậy, với
quan niệm cái đẹp mang tính duy mỹ nói trên, Nguyễn Tuân đã có nhiều khi tự mâu
thuẫn với chính mình hay nói như nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Tuân đã “tự lừa
dối mình trong những ngày tháng tuyệt vọng”. Nguyễn Tuân phức tạp cũng chính là ở
điểm này
4. Nghệ thuật tả cảnh và một hệ thống ngôn từ độc đáo.
Quan niệm về cái đẹp như trên đã quy định nghệ thuật tả cảnh và hệ thống ngôn từ
trong Vang bóng một thời. Có thế thấy rõ trong tác phẩm không hiện diện những cảnh
tượng huyên náo, rực rỡ màu sắc. Cảnh vật được miêu tả trong tác phẩm không ít thì
nhiều đều gợi về một thời xa vắng và như một nhà phê bình đã viết, nó kéo con người ta
trở về với quá khứ.
Đọc truyện, dễ nhận thấy một gam màu nhạt và ảm đạm bao trùm khắp trong tập
truyện. Nhà văn Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái vang của thời đã qua, cái bóng của
thời đã qua, mà ngày nay người ta tưởng còn văng vẳng, và thấp thoáng đó là tất cả cái
thê lương nó khởi đầu những mẫu chuyện cổ thời”. Gam màu nhạt và ảm đạm này phù
hợp một cách kỳ lạ với khung cảnh những buổi chiều u ám: “Mỗi buổi chiều mặt trời lặn,
mất con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Những thân
chuối cao vút và tàu lá chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng
thưa thớt rồi lại bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa dầm, những trận mưa ngâu đổ lên
vườn chuối một khú nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu”. Đến gần cuối truyện, không
khí ảm đạm u ám ấy còn được pha thêm màu sắc dữ dội gây cảm giác bức bối, nặng nề


báo hiệu chết chóc, đau buồn: “Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất thời sáng hơn là
nền trời. Nền trời vẫn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình thù quái lạ. Những bức
tranh mây chói màu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sang
gắt”. Chẳng cứ gì buổi chiều, ngay cả một buổi trưa hè cũng được tả với sự buồn vắng,

im lìm: “Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đối mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung
rinh lớn không khí bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vớn qua những màu
xanh bong loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc ấm đất).
Truyện Báo oán có lẽ là truyện có nhiều nhất những đoạn văn tả cảnh ảm đạm, thê
lương và thật đậm nét yếu tố ma quái như bản thân tên truyện. Sau đây là một ví dụ:
“Mùa mưa dấm tháng chin chỉ là những giọt nước mắt triền mien than vãn của kỳ thất
tịch còn sót lại mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam Hạ đã biến thành một vùng
nước mất hẳn bờ, trên đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí. Ngọn song đồng hỗn loạn vỗ
tung bùn vào mép những con đường đất thó nhuyễn và những lũy tre già ướt át. Làng
mạc vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo hoang
vu”. Ở một chỗ khác: “Nền trời phương Đông đáng lẽ phải hửng lên để đón lấy chiều
dương. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình vật có tang ma, những
màu xanh đỏ rực rỡ và rờn rợn…”. Bên cạnh những đoạn văn tả cảnh tày còn có những
đoạn tả người cũng vẫn với những “nét rầu rầu xanh xám” ấy: “Rồi cậu Chiêu lại vẫn
không quên cái cảnh màn trời triền mien những kinh động ngờ sợ, ánh sáng tốt và ẩm
ướt của rừng tị nạn, đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chum túc mới vừa to mà đã
nhuộm màu tang” (Ngôi mả cũ).
Ấn tượng nhất có lẽ là những đoạn văn tả cảnh gắn liền với những thú tiêu khiển
thanh nhã. Cảnh vật ở đây trở nên thanh khiết, êm đềm đôi khi buồn bã đến kỳ lạ thể hiện
một cách gián tiếp thái độ yêu mến, trên trọng và nuối tiếc của nhà văn. Đây là cảnh
tượng trong một cuộc thả thơ: “Vầng trăng mười bốn lúc chênh chếch và đoài đã in một
cúc bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội. Đấy là
bóng chiếc nhà bè lợp lá gồi … tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc ăn tiền … những tiếng
đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái bình


như tiếng vang của một hội tao đàn nào” (Thả thơ). Còn đây là cảnh vật buổi sớm mai
trong lành nhưng vẫn gây cảm giác u hoài: “Trời rạng dần. Một chút nắng đào lóng lánh
trong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một chiếc” (Chén trà trong sương
sớm). Đánh thơ cũng gợi nhiều cảm tình nơi người đọc bởi một bầu không khí thơm ngát

hương hoa huệ trắng, hương hoa tinh khiết bao bọc lấy những con bạc nhiều khi đến với
cuộc đánh thơ chỉ vì niềm yêu mến văn chương: “Hoa huệ mềm mại cuộn cong đầu cánh
trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến cháy, của người thở
mạnh, cáng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết cả, có người rít mạnh mồi
thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng hoa huệ” (Đánh thơ). Trong truyện
Ngôi mả cũ, hình ảnh giàn bầu nậm với những “trái bầu nậm còn tương dưới lỗ giàn là
một cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và bong” được miêu tả thật ấn
tượng nhờ vào những lien tưởng phong phú và tinh tế của nhà văn: “Cậu Chiêu đang hấp
háy mắt ngửng đầu ngắm những quả bầu nậm buông thong xuống ngang mặt. Cái áo vải
trắng cậu Chiêu đã biến thành một áo lụa màu xanh của người công tử phong lưu đa
tình. Đấy là cái màu dịu mắt của chất ngọc bích, đấy là cái thứ áo xanh của ông quan Tư
mã đất Giang Châu dung lau nước mắt khi thương đến một người con hát giữa một
khoang thuyền trống trải trôi trong đám lau sậy ven sông. Hoặc vì đó là màu xanh của
những cánh đồng lúa non ngút ngàn của những xứ không bao giờ có nạn binh lửa”…
Lại có những cảnh nửa thực nửa ảo gây nên một cảm giác siêu thoát, đượm màu
Phật giáo: “Bọn người xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nước
tròng trành theo bước chân mau của tên lão bộc đánh rỏ xuống mặt đường những hình
ngôi sao ẩm ướt và thẫm màu. Những hình ngôi sao ẩm ướt nối nhau trên một quãng
đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài rắn. Ví buổi trưa hè này là một đêm có bóng
trăng dài lạnh lung và ví cổng chà Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có
đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay
cùng chúa động”.


Có thể nói cảnh và người trong tập truyện đều là cảnh và người của dĩ vãng - thứ
dĩ vãng đã một thời vang bóng. Với cách miêu tả này, tác phẩm tạo nên một không khí
buồn mà thanh sạch khác hẳn với những xô bồ trong cuộc sống hiện tại…
Bây giờ, ta hạy nói tới hệ thống ngôn từ độc đáo của tác phẩm. Bài viết này không
có tham vọng bàn tới những vấn đề lớn trong phong cách nghệ thuật của “Thầy bút
Nguyễn Tuân” mà chỉ muốn đề cập đến nét độc đáo trong ngôn từ mà nhà văn sử dụng ở

tập truyện đặc sắc này.
Trước hết phải thấy rằng, nhà văn đã sử dụng hệ thống từ cổ, từ Hán Việt một
cách đắc địa. Những từ cổ này được kết hợp hài hòa, chặt chẽ với những cảnh, những
người trong quá khứ, tạo nên một hiệu quả đặc biệt. Người ta có cảm giác như sống với
quá khứ, như đang trò truyện với những nhân vật trong trang sách. Giáo sư Hoàng Như
Mai đã nhận xét: “Mở cuốn Vang bóng một thời, người ta tưởng như mở hai cánh cửa
bước vào một nhà bào tàng văn hóa dân tộc, nơi đó trưng bày những hiện vật của một
thời xưa”. Ấn tượng về sự xưa cũ, cổ kính này một phần được tạo ra bởi hệ thống từ cổ
kết hợp với những địa danh, tên gọi, cách nói, cách xưng hô mang dấu ấn của một thời
xuất hiện dày đặc trong tác phẩm. Những cái tên: Chùa Đồi Mai, xứ Đồng Côn, làng
quan Công Sứ, khoa thi Mậu Ngọ, nhà nước bảo hộ, viên giám trảm, lính cơ, cụ nghè …
giờ đây đã trở thành xa lạ, thậm chí gây thắc mắc đối với người đọc đương thời nhưng lại
giúp chúng ta rất nhiều trong hành trình trở về quá khứ. Có thể kể ra rất nhiều từ cổ, cách
nói, cách xưng hô … như đã nói ở trên: “Thụ một ít lộc Phật”, ít nhời, chén tống chén
quân, ấm quần tử, ấm Thế Đức màu gan gà, ấm đồng cò bay, kim hỏa …(Những chiếc
ấm đất); người bạn đồng song, thả thơ, cái níp sách sơn son … (Thả thơ); phiến trát, Sơn
Hưng Tuyên đốc bộ đường, thầy thơ lại, ngục tốt, án thư, bộ từ bình, bức trung đường,
đồng tiền kẽm, lạc khoản, thoi mực, bái lĩnh … (Chữ người tử tù); điệu cổ phong, ngâm
gói hạc (Chén trà trong sương sớm); trường thi, lọng vàng, mùi nghi vệ, quan chánh chủ
khảo, kinh truyện, “Báo oán giả, tiên nhập, báo oán giả, thứ nhập …” (Báo oán). Việc
sử dụng hệ thống ngôn từ độc đáo như trên vừa thể hiện dụng ý của nhà văn lại vừa nói


lên một cách đầy đủ nhất sự hiểu biết sâu rộng, cặn kẽ của nhà văn về nhiều phương diện
như lịch sử, văn hóa và xã hội.
Tóm lại, tìm hiểu quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một
thời là một công việc vừa thú vị vừa đòi hỏi nhiều công phu vì nó trực tiếp liên quan đến
một hiện tượng văn học vô cùng độc đáo và phức tạp của văn học nước nhà.




×