Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của nguyễn minh châu sau năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.2 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

VŨ THỊ THÚY HƢỜNG

HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU SAU NĂM 1975

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

VŨ THỊ THÚY HƢỜNG

HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU SAU NĂM 1975

Chuyên ngành: Lý luận văn học và Văn học nƣớc ngoài

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Phạm Thị Phƣơng Huyền

SƠN LA, NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo ThS.


Phạm Thị Phương Huyền, em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành, sâu sắc.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong tổ Lí luận văn học và Văn học
nước ngoài, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn và các thầy cô thư việntrường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, ngày 03tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Vũ Thị Thúy Hƣờng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
2.1. Những nghiên cứu chung về Nguyễn Minh Châu ......................................... 2
2.2. Những nghiên cứu về nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu....................................................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 6
7. Cấu trúc khóa luận............................................................................................. 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẮN ĐỀ CHUNG ........................................................ 8
1.1. Khái quát chung về nhân vật văn học ............................................................ 8
1.1.1. Nhân vật văn học ......................................................................................... 8
1.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................. 11
1.2. Nguyễn Minh Châu - người “mở đường tinh anh và tài năng” .................. 16
1.2.1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác ................................................................... 16
1.2.2. Văn nghiệp Nguyễn Minh Châu ............................................................... 17
1.3. Nguyễn Minh Châu và thể loại truyện ngắn ............................................... 18

CHƢƠNG 2: LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NỮTRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU ......................................................................... 22
2.1. Hình tượng những nữ chiến sĩ ở chiến trường ............................................. 23
2.1.1 Những bông hoa của chiến trường ............................................................. 23
2.1.2. Những trái tim thép trong lửa đạn ............................................................. 26
2.1.3. Những “hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu của tâm hồn” ................................. 30
2.2. Những nàng "vọng phu" thời hiện đại ......................................................... 35
2.3. Những người vợ, người mẹ trong đời thường .............................................. 38


CHƢƠNG 3:MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ VẺ ĐẸP
NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU ...... 44
3.1. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ .................................................................... 44
3.1.1. Đối thoại .................................................................................................... 44
3.1.2. Độc thoại nội tâm ...................................................................................... 47
3.2. Biểu tượng .................................................................................................... 50
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 59


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ buổi hồng hoang của lịch sử, loài người đã biết rằng nơi ẩn náu
yên ổn nhất là lòng mẹ (Florian). Và cho đến nay dù đã trải qua hàng ngàn năm
văn minh, nhân loại cũng không khi nào ngớt ca ngợi về người phụ nữ. Như
W.Ross.Wallace đã từng nói “bàn tay đong đưa vòng nôi là bàn tay thống trị
hoàn cầu” sự vĩnh viễn bất tận của những thanh âm ngưỡng vọng và tôn thờ ấy
in dấu trong mọi lĩnh vực đời sống, đặc biệt là trong văn học nghệ thuật. Sẽ
không bao giờ, không một sức mạnh nào có thể làm lu mờ vòng hào quang của
những người phụ nữ như Natasa, Cachia, Exmerada, Ogioni, Phangtin,… những

vẻ đẹp tâm hồn nữ tính ấy đã trở thành niềm kiêu hãnh cho toàn bộ loài người.
Tiếp nối mạch nguồn từ bao đời ấy, nền văn học Việt Nam đã góp nhiều
cây bút xuất sắc để bản hợp tấu ấy trở nên đa thanh, đa bậc. Trong số cung bậc
này nhà văn Nguyễn Minh Châu là một nốt nhạc để lại ấn tượng khó phai mờ.
Nguyễn Minh Châu là một trong những người “mở đường tinh anh và tài năng”
của nền văn xuôi Việt Nam trong quá trình đổi mới.
1.2. Viết về nhân vật nữ trước Nguyễn Minh Châu đã có rất nhiều các nhà
văn khác như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Anh Đức…Tuy nhiên, ở đề tài này
Nguyễn Minh Châu lại có một nét rất riêng. Nhân vật nữ của ông không chỉ có
vẻ đẹp về hình thức mà còn mang vẻ đẹp tâm hồn. Nhà văn dường như đã vượt
lên khỏi cái hằng ngày để hướng tới vẻ đẹp của cuộc đời, cái đẹp dường như
được giải thoát khỏi gánh nặng của cái xấu, bay vượt lên khỏi cái thường nhật.
Nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu so với cuộc sống thường
ngày còn nhiều điểm tương đồng điều này gợi lên trong lòng mỗi chúng ta một
cách nhìn mới nhiều chiều hơn về người phụ nữ, lay động trong tiềm thức mỗi
người khát vọng cháy bỏng của nhà văn về cuộc đời, về con người. Mỗi con
người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời
người cũng chưa đủ để nhận thức, khám phá những vấn đề đó. Chính vì vậy,

1


truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu luôn là đề tài hấp dẫn cho những ai muốn
tiếp cận và khám phá.
1.3. Nguyễn Minh Châu được đánh giá là người có công trong sự nghiệp
đổi mới văn học, những tác phẩm của ông đã đưa vào trong chương trình giáo
dục ở các bậc học và dành được nhiều sự yêu mến của học sinh, sinh viên, tuy
nhiên những tiết học về tác phẩm của ông còn khá ít. Điều này đã gây ra không
ít khó khăn cho người học khi chưa có điều kiện tìm hiểu về mảng truyện ngắn
của ông. Là một người rất yêu mến nhà văn Nguyễn Minh Châu, với những lí do

kể trên, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Hình tượng nhân vật nữ trong
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975” để nghiên cứu. Qua đây,
chúng tôi mong muốn tìm hiểu những triết lí sâu sắc trong tư tưởng nhân văn
của Nguyễn Minh Châu.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện tượng Nguyễn Minh Châu xuất hiện cuối những năm 70 thực sự gây
tiếng vang và thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và công chúng bạn
đọc. Tình hình nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu vô cùng đa dạng, phong phú,
mọi vấn đề được đưa ra bàn luận từ con người đến tác phẩm. Đến nay đã có
hàng trăm công trình, bài viết về Nguyễn Minh Châu và sự nghiệp của ông.
2.1. Những nghiên cứu chung về Nguyễn Minh Châu
Năm 1975 sau khi đất nước thống nhất, trong ý thức thường trực gắn bó
với đời sống Nguyễn Minh Châu đã kịp thời bắt vào nhịp sống mới và sự phát
hiện những vận động mang tính thời sự của đất nước.
Về những sáng tác ở giai đoạn đầu của Nguyễn Minh Châu trên báo văn
nghệ số 367 - 1997 tác giả Nguyễn Đăng Mạnh và Trần Hữu Tá đã cho rằng:
“Nguyễn Minh Châu biết tránh lối biểu hiện bằng công thức tô hồng, không
phải bằng cách giả tạo nào đó giữa cái tốt và cái xấu. Truyện của anh hầu như
chỉ tập trung vào phía tốt, vào mặt sáng của hiện thực, của lòng người, và anh
tin rằng sự chân thật của những điều anh mô tả sẽ quyết định sức thuyết phục
nghệ thuật của nó” [14, 5].

2


Trong tạp chí văn nghệ quân đội số 1/1973 Phan Cự Đệ đã đánh giá chặng
đường văn học mà Nguyễn Minh Châu đã cống hiến: “Từ Cửa sông đến Dấu
chân người lính, Nguyễn Minh Châu đã tiến những bước chân hứa hẹn và vững
chắc. Với quyết tâm thường xuyên đi sâu vào những mũi nhọn của cuộc sống, ra
sức rèn luyện thế giới quan và tu dưỡng nghệ thuật một cách nghiêm túc,

Nguyễn Minh Châu chắc chắn còn đi xa hơn nữa trong lĩnh vực tiểu thuyết…”
[15, 7].
Tác giả Dương Thị Thanh Hiên khi nghiên cứu về hình ảnh biểu tượng
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã khẳng định: “Là một trong những
người mở đường tinh anh và tài năng của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại trong
quá trình đổi mới trên suốt lộ trình văn học của mình, Nguyễn Minh Châu không
ngừng suy nghĩ, tìm kiếm và thử nghiệm những cách thể hiện mới để tự biểu hiện
bản sắc của chính mình”. Đồng thời tác giả cũng nhận xét: “Trên suốt hai
chặng đường sáng tác, ông đã không ngừng tìm tòi những sắc thái mới cho các
hình ảnh biểu tượng khiến cho những hình ảnh ấy dần dần chuyển từ tính chất
lãng mạn sang hiện thực, từ đơn sang kép, nhiều tầng nghĩa và ngày càng phong
phú phức tạp. Với hình ảnh biểu tượng này, Nguyễn Minh Châu đã xác định cho
mình một gương mặt cá nhân, một phong cách không thể hòa lẫn…” [7, 76].
Với tư cách một nhà văn đánh giá về sự nghiệp của một nhà văn khác
Nguyễn Khải đã viết những lời trân trọng về nhà văn Nguyễn Minh Châu như
sau: “Mãi mãi nền văn học kháng chiến, cách mạng ghi nhớ những cống hiến to
lớn của anh Châu. Anh là người kế tục xuất sắc các bậc thầy của nền văn xuôi
Việt Nam và cũng là người mở đường cho những cây bút trẻ đầy tài năng sau
này” [8, 4].
Trong cuốn Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, tác giả Tôn
Phương Lan khi nghiên cứu giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu đã nhận thấy rằng: “Từ chỗ quan sát và khám phá trong đời sống
thường nhật những lẽ đời, những triết lí nhân sinh, Nguyễn Minh Châu đã dần
dần đi tìm kiếm lẽ đời trong số phận cá nhân và các vấn đề xã hội. Từng bước
một ông đã dần dần hóa thân vào nhân vật sống cùng nhân vật để khám phá và
3


tìm hiểu cái hiện thực ẩn kín. Trên cơ sở đó ông đã tạo cho những sáng tác của
mình một giọng điệu da diết và cuốn hút hơn khiến người đọc phải chiêm

nghiệm…” [9, 37].
Lã Nguyên trong Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư
duy nghệ thuật đã viết: “Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời
bằng con đường riêng của mình. Nhưng Nguyễn Minh Châu lại thể hiện cho
chúng ta bài học ý nghĩa chung nhất: Tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu
đi nữa thì cũng không thể vượt qua khỏi các quy luật của chân- thiện- mĩ, quy
luật nhân bản. Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn dòng song văn học
đổ ra đại dương nhân bản mênh mông” [12, 18].
Đó là những nhận xét, đánh giá rất có ý nghĩa và chính xác, đầy thuyết
phục về nhà văn Nguyễn Minh Châu. Sự nghiệp văn học của nhà văn Nguyễn
Minh Châu thực sự đã gợi ra nhiều lí thú, qua thời gian ngày càng được đông
đảo độc giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
2.2. Những nghiên cứu về nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu
Đối với Nguyễn Minh Châu, nhà văn chuyên viết về chiến tranh và quân
đội thì loại nhân vật được chú ý hơn cả là nhân vật nữ, những người phụ nữ đi
qua chiến tranh và trong đời sống thường ngày.
Nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư khi nghiên cứu về nhân vật Qùy trong
truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành đã đưa ra nhận xét: “Nguyễn
Minh Châu đã bộc lộ được thế mạnh của một cây bút có khả năng phân tích và
thể hiện những biến động tâm lí khá phức tạp của một con người không đơn
giản. Ngay trong một hoàn cảnh sống giàu lí tưởng, sự lí tưởng hóa chính mình
cũng như mọi người xung quanh sớm muộn cũng dẫn tới những bi kịch không
cần thiết, một thái độ sống tỉnh táo, biết người biết mình vẫn là điều được nhà
văn luôn khẳng định…” [4, 5].
Tác giả Nguyễn Văn Bính trong tập san Văn học và Tuổi trẻ, tập 32, cho
rằng với tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng: “Việc soi chiếu, khám phá vẻ đẹp
nhân vật Nguyệt từ nhiều bình diện đã góp phần thể hiện quan niệm nghệ thuật
4



của ông về con người cũng như chủ ý trong những sáng tác về chiến tranh.
Nhân vật Nguyệt mãi mãi là một mảnh trăng, một mảnh trăng sáng trong vút lên
trên chiến trường Trường Sơn nhòa trời lửa. Mảnh trăng sáng ấy chính là lớp
lớp những con người trẻ trung lãng mạn, tràn đầy niềm tin vào cuộc sống nhưng
cũng luôn luôn ý thức cao về vai trò, trách nhiệm của thế hệ mình đối với Tổ
quốc…” [3, 10].
Tác giả Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết “Ấn tượng nhân vật nữ của
Nguyễn Minh Châu” đã đưa ra lời nhận xét như sau: “Và trong sự hiện diện của
khá nhiều truyện ngắn những năm gần đây, lấy nhân vật nữ làm trung tâm thì
với tư cách một nhân vật văn học, nhân vật Qùy trong truyện của Nguyễn Minh
Châu là một hình tượng chính mới lạ, độc đáo, có thể nói là một bất ngờ với
người đọc…”. Và bài viết kết thúc bằng những suy nghĩ rất hay của tác giả:
“Chỉ bằng vào một truyện ngắn mới nhất trong tập Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành này, với những nhân vật nữ đáng yêu: Cô thiếu nữ Phi trong Mùa
hè nắng ấy, Hạnh trong Bên đường chiến tranh, người mẹ và con gái trong Mẹ
con chị Hằng, kể cả cô Thoan trong Đứa ăn cắp cũng thấy rằng Nguyễn Minh
Châu có một cái nhìn ấm áp, nhân hậu, luôn chăm chút phát hiện vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam từ nhiều chiều, nhiều hướng khác nhau. Trong cả bối
cảnh chiến tranh lẫn bối cảnh đời thường, những nhân vật ấy đều đẹp. Và mỗi
nhân vật là một phát hiện mới về hình tượng người phụ nữ trong văn xuôi hiện
đại” [13, 5-8]
Những công trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo quý giá
giúp chúng tôi có thêm dữ liệu để triển khai vấn đề nghiên cứu: Hình tượng
nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tớí các mục đích sau:
- Lí giải sâu sắc về phẩm chất và sự hi sinh của người phụ nữ qua một số
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
- Tìm hiểu giá trị nhân văn và tài năng của Nguyễn Minh Châu khi xây

dựng nhân vật nữ.
5


4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu vẻ đẹp nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
- Chỉ ra một số biện pháp nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp nhân vật nữ trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Với khuôn khổ là một khóa luận tốt nghiệp chúng tôi chỉ tập trung tìm
hiểu: “Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau
năm 1975”cụ thể là 07 truyện: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc
thuyền ngoài xa, Bến quê, Mảnh trăng cuối rừng, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền
nam, Bên đường chiến tranh.
Trong quá trình thực hiện đề tài người viết có thể so sánh với một số nhân
vật của các tác giả cùng thời để thấy được những nét riêng độc đáo của nhân vật
nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài việc sử dụng các phương pháp thường dùng trong văn học, ở khóa
luận này chúng tôi sẽ tập trung vào các phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Phương pháp khảo sát thống kê: Chúng tôi dùng phương pháp này
nhằm khảo sát 7 truyện ngắn viết về người phụ nữ. Từ đó thấy được vẻ đẹp của
những nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
6.2. Phương pháp so sánh: Việc so sánh truyện ngắn viết về nhân vật nữ
của Nguyễn Minh Châu với các sáng tác cùng viết về nhân vật nữ của những tác
giả cùng thời nhằm làm nổi bật hình tượng nhân vật và tài năng của tác giả.
6.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm miêu tả những vè đẹp của
nhân vật nữ từ những căn cứ cụ thể để việc nghiên cứu có tính thuyết phục.
7. Cấu trúc khóa luận

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Loại hình nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

6


Chương 3: Một số biện pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật nữ trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu.

7


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát chung về nhân vật văn học
1.1.1. Nhân vật văn học
Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống nhưng không phải là phản ánh
nguyên vẹn hiện thực cuộc sống mà phản ánh qua lăng kính chủ quan của nhà
văn. Trung tâm đời sống là con người. Trong tác phẩm văn học, con người chính
là nhân vật. Hay nói cách khác nhân vật là con người được miêu tả trong văn
học bằng phương tiện văn học. Có thể nói con người tồn tại trong cuộc sống đa
dạng và phức tạp bao nhiêu thì nhân vật trong tác phẩm văn học cũng đa dạng và
phức tạp bấy nhiêu.
Nhân vật văn học có thể xuất hiện với những cái tên riêng như Tấm, Cám,
Thạch Sanh, chị Dậu, anh Pha, Lãm, Nguyệt, Hoàng,… cũng có khi xuất hiện
với tên chung chỉ nghề nghiệp như: thằng bán tơ, cô thanh niên xung phong, anh
lái xe… hoặc bằng tên chung về giới, về chức vị xã hội như: “anh” (chỉ con
trai), “chị” (chỉ con gái), “ông cố vấn”, “cai lệ”, “lí trưởng”…
Cần lưu ý khái niệm nhân vật không chỉ bó hẹp ở việc chỉ có những con
người có tên hoặc không tên, được khắc họa đậm nét hay không đậm nét mà đó

còn là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao gồm cả
quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội dung và nghĩa con
người. Cũng có khi khái niệm nhân vật được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ
một con người cụ thể nào cả mà chỉ một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm.
Chẳng hạn nói nhân dân là nhân vật chính trong tác phẩm Chiến tranh và hòa
bình, chiếc quan tài là nhân vật chính trong truyện Chiếc quan tài của Nguyễn
Công Hoan.
Nhân vật có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Đó có thể
là những con người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính
cách, tiểu sử như thường thấy trong tác phẩm tự sự và kịch. Đó cũng có thể là
những người thiếu hẳn những nét đó, nhưng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn

8


như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ cảm nhận
như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình.
Nhân vật là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ. Đó không phải
là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của một con người mà chỉ là sự thể
hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách.
Các dấu hiệu đặc điểm ấy thường được đúc kết thành một công thức, được quy
ước có mở đầu, triển khai và kết thúc. Nhân vật văn học còn mang tính hình
tuyến tức là nó xuất hiện rõ dần theo thời gian.
Nhân vật văn học khác với nhân vật trong hội họa, điêu khắc, bởi nó là
một chỉnh thể vận động, có tính cách được lộ dần trong không gian, thời gian,
mang tính chất quá trình. Hơn nữa, nhân vật văn học có tính chất hồi cố vì mỗi
bước phát triển của nhân vật đều làm ta nhớ lại công thức nhận biết nó ban đầu,
đều làm cho nó sâu thêm, hoặc điều chỉnh nó cho xác đáng, nhưng không bao
giờ bỏ quên hay xa rời cái chuẩn ban đầu. Chẳng hạn Huấn Cao trong Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân một con người tài hoa - khí phách thì mỗi hành

động tiếp theo của nhân vật đều làm ta nhớ lại cái tài hoa - khí phách ấy. Như
vậy, nhân vật văn học là con người được thể hiện bằng phương tiện văn học. Nội
dung của nhân vật văn học nằm trong sự thể hiện của nó.
Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con
người, thể hiện những hiểu biết, những ước ao và những kì vọng về con người.
Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để thể hiện những cá nhân trong xã hội nhất
định và quan niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác nhân vật là phương tiện
khái quát các tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng. Vì tính
cách là kết tinh của môi trường nên nhân vật văn học dẫn dắt độc giả vào các thế
giới khác nhau của đời sống.
Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ
của nhà văn về con người. Vì vậy, ở những dân tộc khác nhau, với những nền
văn hóa khác nhau luôn có sự khác biệt về lí tưởng thẩm mĩ và quan niệm về
con người. Chẳng hạn, cùng ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ nhưng
Victor Hugo trong Những người khốn khổ để cho nhân vật Phangtin bán tóc, bán
9


răng và sau đó bán cả thân mình để nuôi con, trong khi đó chị Dậu trong Tắt đèn
của Ngô Tất Tố thì bất chấp bán con vì hoàn cảnh khó khăn. Tuy hai nhân vật có
hành động khác nhau nhưng chúng ta không thể so sánh ai thương con hơn ai.
Cùng một dân tộc nhưng quan niệm về chuẩn mực đạo đức của người phụ nữ
cũng khác nhau ở những nhà văn ở các thời đại khác nhau. Thúy Kiều của
Nguyễn Du bán mình cứu cha và em trong khi chị Dậu của Ngô Tất Tố kháng
cự quyết liệt trước những thủ đoạn dâm dục, bỉ ổi của bọn quan lại. Và cả hai
nhân vật này đều không vi phạm chuẩn mực đạo đức của người phụ nữ theo
quan niệm của các nhà nho. Không chỉ khác nhau về thời đại mà có khi cùng
thời đại ở một dân tộc các nhà văn khác nhau cũng có quan điểm khác nhau về
con người.Thời kì 1930 - 1945 ở Việt Nam, Nguyễn Tuân đi khắc họa những
nhân vật tài hoa, lí tưởng trong khi đó Nam Cao, Vũ Trọng Phụng lại đi miêu tả

những “đời thừa”, những con người “vô nghĩa lí”.
Tóm lại, nhân vật văn học là hình thức khái quát đời sống. Đọc tác phẩm
cần tìm hiểu hết nội dung đời sống và nội dung tư tưởng thể hiện trong nhân vật.
Để chiếm lĩnh thế giới và nhân vật văn học đa dạng cần tìm hiểu phương diện
loại hình của chúng.
Các phương diện loại hình cũng rất đa dạng. Các nhân vật của truyện dân
gian, thơ ca dân gian khác với nhân vật văn học viết. Nhân vật thần thoại cũng
khác nhân vật truyền thuyết và nhân vật cổ tích; xét về phương pháp sáng tác
nhân vật chủ nghĩa cổ điển khác với nhân vật lãng mạng và nhân vật hiện thực.
Xét về thể loại, nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ tình đều có khác biệt
quan trọng. Đứng trên khía cạnh kết cấu, ý thức hệ và cấu trúc nhân vật có thể
chia thành: nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân
vật chức năng (hay mặt nạ), nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư
tưởng.
Sự phân chia như trên cũng chỉ mang tính chất tương đối. Vì vậy cần
tránh thái độ máy móc khi khảo sát nhân vật văn học cụ thể.

10


1.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật là nói đến các phương thức,
phương tiện và biên pháp thể hiện nhân vật. Văn học đa dạng đến đâu, các
phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật đa dạng đến đó. Nhân vật là yếu tố
nội dung nhưng nghệ thuật xây dựng nhân vật lại thuộc hình thức tác phẩm.
Trước hết nhân vật được miêu tả bằng chi tiết - những nét cụ thể mà nhà
văn sử dụng để miêu tả ngoại hình, nội tâm, hành động nhân vật, cũng như
những cảnh vật, sự kiện có liên quan đến nhân vật. Đan dệt hàng loạt chi tiết với
nhau mới có một bức tranh ngôn ngữ có thể tạo nên ấn tượng tương đối xác định
về nhân vật. Các chi tiết thường được sắp xếp, bố trí chặt chẽ, không thừa hoặc

không thiếu, có một quá trình phát triển logic nghĩa là chúng có liên quan đến
nhau một cách tất yếu.
Các chi tiết đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động miêu tả ngoại hình
và miêu tả hành động của nhân vật. Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ hình
dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ, tác phong… Tóm lại là toàn bộ những biểu
hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân vật. Nhà văn có thể khắc họa ngoại hình
nhân vật một cách trực tiếp thông qua ngôn ngữ người kể chuyện, chẳng hạn
như Nguyễn Khải miêu tả Đào: “Cái thân người sồ sề của chị như nở to ra, hổn
hển, cặp chân ngắn khỏe đạp xuống bàn gỗ đã bắt đầu uể oải, nhưng hai bàn
tay có những ngón rất to vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau nắm từng bó lạc và
bằng cử chỉ rất nhanh” (Mùa Lạc) [8, 16]. Cũng có khi ngoại hình nhân vật
được miêu tả một cách gián tiếp qua ngôn ngữ hoặc cái nhìn của nhân vật khác
trong tác phẩm (như ngoại hình của Kim Trọng trong con mắt Thúy Kiều trong
buổi gặp gỡ đầu tiên, hay ngoại hình của nàng Juliet trong mắt Romeo dưới ánh
trăng trong vườn nhà Capiulet). Ngoại hình nhân vật có thể được miêu tả tập
trung trong một đoạn văn ngắn, nhưng cũng có thể miêu tả một cách rải rác xen
kẽ giữa các chương, đoạn, qua những tình huống và hành động khác của nhân
vật. Nhìn chung ngoại hình nhân vật được thể hiện sinh động sẽ góp phần bộc lộ
tính cách nhân vật. Đặc biệt nó có tác dụng khá rõ trong việc cá biệt hóa nhân
vật. Còn hành động nhân vật không chỉ là yếu tố cần thiết để bộc lộ tính cách mà
11


còn là yếu tố không thể thiếu để thúc đẩy sự diễn biến của cốt truyện nhân vật.
Đó chính là những việc làm cụ thể của nhân vật trong quan hệ ứng xử với các
nhân vật khác và trong những tình huống nhất định trong cuộc sống.
Cũng như miêu tả ngoại hình, việc miêu tả hành động của nhân vật có thể
được miêu tả thông qua ngôn ngữ người kể chuyện hoặc thông qua ngôn ngữ
nhân vật khác. Đáng chú ý là hành động nhân vật phải được miêu tả nhất quán,
và ở điểm này lời khuyên của L.Toxtoi rất có ý nghĩa: “Hãy sống cuộc sống của

nhân vật được miêu tả và tự nhân vật sẽ làm những gì mà họ cần phải làm cho
tính cách của họ”.
Các nhà nghiên cứu về L.Tonxtoi nhấn mạnh thành công trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật của nhà văn ở cả hai phương diện: “biện chứng pháp hành
động” và “biện chứng pháp tâm hồn”. Điều đó có nghĩa là tính tất yếu trong
hành động của nhân vật thường liên quan chặt chẽ với tính tất yếu trong hành
động nội tâm của nhân vật. Ở đây, khái niệm “nội tâm” chỉ toàn bộ cuộc sống
bên trong của nhân vật, đó là tâm trạng suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, những
phản ứng tâm lí của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà nhân vật
chứng kiến hoặc thể hiện trên bước đường đời của mình. Nhà văn có thể trực
tiếp biểu hiện nội tâm nhân vật bằng ngôn ngữ của chính mình với tư cách người
kể chuyện (trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành miêu tả tâm trạng bồi
hồi, xúc động của Tnú sau ba năm đi lực lượng trở về buôn làng); những biện
pháp mà nhà văn hay dùng nhất là biểu hiện độc thoại nội tâm và đối thoại nội
tâm của nhân vật. Những đoạn văn này được thực hiện bằng chính ngôn ngữ của
nhân vật, chúng vang lên một cách thầm lặng trong tâm tư của nhân vật. Nhân
vật tự biểu hiện phơi bày những diễn biến trong tâm trạng mình qua những suy
nghĩ, cảm xúc cụ thể, chẳng hạn độc thoại Sống hay không sống bộc lộ sự đấu
tranh nội tâm của Hamlet. Trong Ông già và biển cả nhân vật Xanchiago một
mình đơn độc giữa biển cả thì Heminguay chủ yếu sử dụng độc thoại nội tâm
của nhân vật. Đó là cuộc đấu tranh giữa nhận thức và hành động, lí trí và hành
động.

12


Các nhà văn còn chú ý biểu hiện ngôn ngữ của nhân vật bởi vì ngôn ngữ
là một căn cứ quan trọng biểu đạt phẩm chất và tính cách của mỗi con người, nó
đóng vai trò cá biệt hóa nhân vật. Nhân vật còn được thể hiện qua mâu thuẫn,
xung đột, sự kiện. Các mâu thuẫn, xung đột bao giờ cũng có tác động làm cho

nhân vật bộc lộ phần bản chất sâu kín của nó. Chẳng hạn một ông quan to béo
oai vệ, rất sang trọng nhưng ăn tiền một cách mất vệ sinh đã làm nổi bật lên bản
chất xấu xa của bọn quan lại trong Đồng hào có ma sự kiện thường đa dạng,
phong phú. Có sự kiện lớn như chiến tranh, cách mạng, khởi nghĩa, mất mùa…
có sự kiện nhỏ như gặp gỡ chia tay, nhà cháy, chết người. Chẳng hạn sự kiện Mị
cởi trói cho A Phủ cho thấy tâm hồn nhân hậu và lòng ham sống của Mị, hay
việc gặp gỡ với Thị Nở bỗng làm cho Chí Phèo tìm lại được nhân tính.
Nhưng nhân vật thường bộc lộ nhiều nhất qua việc làm hành động, ý nghĩ
như sự do dự không chịu trả thù ngay đã nói lên tính cách mới mẻ của nhân vật
Hămlet. Đánh nhau với cối xay gió, giải thoát cho đoàn tù nguy hiểm đã thể hiện
tính cách của chàng hiệp sĩ Xecsvantec, mang bầu sắp đẻ vẫn đi đánh giặc là
tính cách của chị Út. Bán chiếc nhẫn cưới để mua dây điện gài mìn đánh
MắcNamava là thể hiện tính cách của anh Trỗi.
Sự thể hiện nhân vật văn học bao giờ cũng nhằm khái quát nội dung đời
sống xã hội và một quan niệm sâu sắc, một cảm hứng tình điệu tha thiết với cuộc
đời. Vì vậy, sự thể hiện nhân vật phải được xem xét trong sự phù hợp với nội
dung nhân vật, đồng thời phù hợp với kiểu loại nhân vật. Phương thức, biện
pháp thể hiện đối với nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện, nhân
vật phản diện không thể giống nhau. Yêu cầu thể hiện nhân vật “mặt nạ”, nhân
vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng cũng mỗi lúc một khác. Và
sự thể hiện này luôn luôn gắn liền với phương thức sáng tác, truyền thống văn
học dân tộc, phong cách nhà văn đặc trưng thể loại. Người sáng tác và người
thưởng thức không thể nhầm lẫn.
Đối với nhân vật chính, nói chung nhà văn dùng toàn bộ cốt truyện, sử
dụng các sự kiện, hành động trọng yếu, nét bút sắc cạnh. Đối với nhân vật phụ,
các sự kiện chi tiết không thể che mờ nhân vật chính. Đối với nhân vật chính
13


diện nhà văn thường sử dụng các biện pháp khẳng định, đề cao, thi vị hóa hoặc

lãng mạn hóa, tô đậm những hành động tốt đẹp. Đối với nhân vật phản diện,
người ta dùng biện pháp vạch mặt, tố cáo, châm biếm, lố bịch hóa. Trong văn
học dân gian, những nhân vật như Nữ Oa, Thánh Gióng, Tấm, Thạch Sanh… là
nhân vật chính diện biểu hiện năng lực, sức mạnh của cộng đồng, lí tưởng quốc
gia độc lập, tư tưởng dân chủ ý thức công dân cổ đại và các chuẩn mực đạo đức
trong đời sống. Nhân vật chính diện trong văn học cổ điển Việt Nam là những
nhà nho tiết tháo lấy việc thực hiện lí tưởng “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ” làm lẽ sống. Trong văn học hiện thực phê phán, nhân vật chính diện thường
là những con người nhỏ bé, bị xã hội vùi dập nhưng họ vẫn giữ được phẩm chất
tốt đẹp như Chị Dậu (Tắt đèn), Lão Hạc (Lão Hạc),…Còn trong văn học hiện
thực chủ nghĩa cũng là quần chúng bị áp bức, nhưng họ đã vùng lên chống lại xã
hội áp bức bóc lột để xây dựng xã hội mới. Nhân vật phản diện trong truyện cổ
tích và truyện cười dân gian thường là đại diện cho cái ác như mẹ con nhà Cám
(Tấm Cám), Lí Thông (Thạch Sanh) là đại diện cho bọn mũ áo thênh thang mà
nhân cách hèn hạ, bọn con vua, cháu chúa, thầy đồ, sư sãi… giả dối, dốt nát,
tham lam, keo kiệt… Nhân vật phản diện trong văn học phong kiến lại là lũ nịnh
thần, bọn tôi xưng bất trung, bọn con bất hiếu… Trong văn học phục hưng, văn
học khai sáng, văn học lãng mạn, văn học hiện thực phê phán nhân vật phản
diện thường lại là những kẻ vì đồng tiền và quyền lực mà sẵn sàng trà đạp lên
lương tâm đạo đức và nhân phẩm con người.
Không nên hiểu sự phù hợp giữa nội dung và sự thể hiện nhân vật theo lối
một chiều. Nhân vật phản diện thì cái gì cũng xấu. Nhân vật chính diện thì cái gì
cũng đẹp đẽ cao cả. Thực tế văn học hết sức đa dạng, nhà viết kịch Trung Quốc,
Lí Ngư đời Thanh trong Nhân tình ngẫu kí có nói: “miêu tả nhân vật phải chú ý
đến cái nghịch cảnh của tình người. Tả cô gái giàu phải biết qua phục sức đơn
sơ mà tăng vẻ sang trọng. Tả cô gái nghèo phải thông qua sự trưng dụng khoe
khoang làm lộ vẻ nghèo nàn. Có như vậy sự thể hiện mới không đơn điệu”.
Sự vận dụng các chi tiết, hành động, sự kiện, môi trường để miêu tả các
dạng nhân vật nói trên cũng không giống nhau. Nhân vật chức năng thì phải có
14



phẩm chất đặc điểm cố định, không thay đổi từ đầu đến đuôi, không có đời sống
nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng
trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật đồng nhất với vai trò mà
nó đang đóng trong tác phẩm.
Đối với các nhân vật loại hình thì thể hiện tập trung một loại phẩm chất,
tính cách nào đó của một con người hoặc các phẩm chất tính cách, đạo đức của
một loại người nhất định của một thời đại. Chẳng hạn các nhân vật của Molie
như Acpagong, Tacstuyp thể hiện thói đạo đức giả và ông Guốc Đanh là hiện
thân cho thói phù phiếm, háo danh của gã tư sản muốn làm quý tộc.
Đối với việc khắc họa nhân vật tính cách, việc miêu tả tâm lí, cá tính đóng
vai trò cực kì quan trọng. Ở đây nhà văn chú ý đến các miêu tả đời sống bên
trong và các trạng thái cảm xúc, các quá trình tâm hồn của nhân vật. L.Tonxtoi
đã khéo sử dụng các chi tiết để khám phá những quá trình tâm lí đầy nghịch lí,
thoảng qua, lướt chảy. Những chi tiết rất cá biệt, ngẫu nhiên, bất chợt nhưng
mang lại nội dung tính cách sâu sắc. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Anna Carenia,
sự dạn vỡ trong tình cảm của Anna đối với chồng được phát hiện qua những chi
tiết rất nhỏ. Anna chợt thấy đôi tai của chồng dài một cách khác thường, hoặc
nàng cảm thấy ghê tởm cái hôn không có tình yêu của chồng, khi chồng vừa đi
khuất “Anna liền cảm thấy chỗ da tay mà môi chồng vừa tiếp xúc có cái gì đó
ghê ghê, và nàng rảy rảy bàn tay”. Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng là bậc
thầy thể hiện tâm lí, với ông các nhân vật chính đều có những khát khao, dục
vọng, hiện ra âm thầm vào lúc vắng người hoặc là để lộ ra ngoài ý muốn của
nhân vật. Nam Cao, Tô Hoài cũng là những nhà văn sử dụng tài tình các chi tiết
của ngoại giới để khắc họa tâm lí nhân vật.
Nhân vật tư tưởng thường được khắc họa bằng phương pháp tượng trưng
như các nhân vật lãng mạn chủ nghĩa của Bairon, của Noovalix hoặc các tiểu
thuyết huyền thoại như Tôn Ngộ Không trong Tây du kí. Trong văn học hiện
thực nhân vật tư tưởng thường được miêu tả như một quá trình tìm tòi hoặc thí

nghiệm về một tư tưởng. Nhân vật Người điên trong Nhật kí người điên được

15


khắc họa qua một tìm tòi đau đớn mang tính chất ẩn dụ. Nhân vật phát hiện tính
chất thù địch của con người của toàn bộ môi trường sống.
Tóm lại, nhân vật là hình thức văn học để phản ánh hiện thực. Hình thức
ấy rất đa dạng để thể hiện các khía cạnh vô cùng phong phú của cuộc sống. Việc
hình dung sự đa dạng của nhân vật là rất cần thiết để đi sâu tìm hiểu những nội
dung phong phú đó trong di sản văn học nhân loại cũng như phong phú của văn
học xã hội chủ nghĩa ngày nay.
1.2. Nguyễn Minh Châu - ngƣời “mở đường tinh anh và tài năng”
1.2.1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác
Nhà văn Nguyễn Minh Châu, tên khai sinh đồng thời cũng là bút danh
sinh ngày 20/10/1930 tại làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Vào năm 1944 - 1945, Nguyễn Minh Châu học trường kĩ nghệ Huế,
năm 1945 ông tốt nghiệp thành trung. Tháng 1/1950 ông học chuyên khoa
trường Huỳnh Thúc Kháng (Nghệ Tĩnh) sau đó nhập ngũ, cùng năm đó ông và
Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1951, ông là học viên trường sĩ quan lục quân
Trần Quốc Tuấn, trung đội trưởng sư đoàn 320. Năm 1952 - 1956 công tác tại
Ban tác chiến - Ban tham mưu tiểu đoàn 722 và tiểu đoàn 706. Năm 1956 - 1958
là Chính ủy viên phó đại đội, trợ lí văn hóa thanh niên trung đoàn 64. Năm
1958, Nguyễn Minh Châu được phong úy sau đó đi học bổ túc văn hóa khóa 2,
viết tài liệu tổng kết ở quân khu Tả Ngạn.
Năm 1959, Nguyễn Minh Châu dự hội nghị bạn viết toàn quân. Sang đến
năm 1960, ông công tác tại Phòng Văn nghệ, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân
dân Việt Nam. Năm 1961, đi học trường văn hóa quân đội ở Lạng Sơn. Năm
1962, chuyển công tác vào Tạp chí văn nghệ quân đội và phục vụ tại đây với tư
cách nhà văn quân đội cho đến lúc mất. Ông đã đi thực tế Trường 400 pháo lục

quân, đi Điện Biên Phủ. Năm 1963, đi Trà Cổ, Thái Bình và đi tiểu đoàn 48, đại
đoàn 320, Tiên Lãng - Thủy Nguyên (Hải Phòng). Cùng năm đó ông được
phong thượng úy. Năm 1964, ông đi ghi hồi kí cách mạng ở Hồng Thắng. Tháng
8 đến khu IV - Quảng Bình. Năm 1967 - 1968 đi đường 9, Nam Lào, Khe Sanh,
Cửa Việt, Đoàn vận tải quân sự. Năm 1971, đi đơn vị đặc công nước, vào Quảng
16


Bình, Vĩnh Linh, cầu Hiền Lương. Năm 1972, được hội nhà văn Việt Nam kết
nạp làm hội viên (13/4). Năm 1973 Nguyễn Minh Châu được phong đại úy, từ
tháng 3 đến tháng 6 đi 559 (đường mòn Hồ Chí Minh). Dự tao trả từ binh ở sông
Thạch Hãn. Năm 1974, là một thành viên trong đoàn nhà văn Việt Nam đi thăm
Hungari. Năm 1975 từ tháng 2 đến tháng 6 đi Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Sài
Gòn, đồng bằng sông Cửu Long, đến tháng 10 đi Cửa Việt (Quảng Trị).
Liên tục từ năm 1979 đến năm 1981, ông được ban chấp hành trung ương
Đoàn tặng bằng khen và huy hiệu Vì thế hệ trẻ, được phong trung tá. Năm 1983
là đại biểu chính thức dự Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ III tại Hà Nội, trúng
cử vào ban chấp hành hội khóa III. Năm 1984, tặng huân chương quân công
hạng Ba và huân chương chống Mĩ cứu nước hạng Nhất.
Năm 1985 ông đi Quảng Trị, Nghệ Tĩnh. Tháng 6 năm 1986 đi Liên Xô
dự Đại hội nhà văn Liên Xô lần thứ VIII, cùng năm được phong đại tá... Cùng
năm này ông phát hiện bệnh ung thư máu. 20h30 ngày 23 tháng 1 năm 1989 ông
mất tại viện Quân y 108 - Hà Nội.
1.2.2. Văn nghiệp Nguyễn Minh Châu
Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu rất phong phú bao gồm nhiều
thể loại khác nhau:
Về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã xuất bản bốn tập truyện ngắn:
+ Những vùng trời khác nhau (NXB Văn học, 1970).
+ Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (NXB Tác phẩm mới 1983).
+ Chiếc thuyền ngoài xa (NXB Tác phẩm mới, 1987).

+ Cỏ lau (NXB Văn học, 1989).
Về tiểu thuyết:
+ Cửa sông (NXB Văn học, 1967).
+ Dấu chân người lính (NXB Thanh niên, 1972).
+ Từ giã tuổi thơ (NXB Kim Đồng, 1974).
+Miền cháy (NXB Quân đội nhân dân, 1977).
+ Lửa từ những ngôi nhà (NXB Quân đội nhân dân, 1977).
+ Những ngày lưu lạc (NXB Kim Đồng, 1981).
17


+ Những người đi từ trong rừng ra (NXB Quân đội Nhân dân, 1982).
+ Đảo đá kì lạ (NXB Kim Đồng, 1985).
+ Mảnh đất tình yêu (NXB tác phẩm mới, 1987).
Về tiểu luận phê bình:
Nguyễn Minh Châu viết nhiều tiểu luận và phê bình văn học. Tất cả các
bài viết này của ông được Tôn Phương Lan tuyển chọn và giới thiệu trong cuốn
Trang giấy trước đèn (NXB Khoa học xã hội, 1994)
Ngoài sáng tác trên đây Nguyễn Minh Châu còn viết nhiều bút kí và
truyện ngắn khác nhau đăng trên các báo.
Với những cống hiến xuất sắc của mình trong hoạt động Văn học Nghệ
thuật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã được nhận các giải thưởng cao quý:
Giải thưởng Bộ quốc phòng (năm 1984 - 1989) cho toàn bộ tác phẩm của
ông viết về chiến tranh và người lính; Giải thưởng hội nhà văn Việt Nam
(1988 - 1989) cho tập truyện vừa Cỏ lau; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật cho tác phẩm Dấu chân người lính, Cửa sông, Cỏ lau, Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành.
1.3. Nguyễn Minh Châu và thể loại truyện ngắn
Truyện ngắn hiện đại là một thể loại hết sức quen thuộc và gần gũi nhưng
để tìm một định nghĩa duy nhất, đầy đủ và chính xác về nó thì không hề dễ.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn được xác định như sau: “Tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các
phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó là
ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không
nghỉ” [6, 37]. Mục truyện ngắn trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cũng ghi nhận
đây là: “Tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi… nét nổi bật
của truyện ngắn là sự giới hạn của dung lượng…” [1, 34].
Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận dạng truyện ngắn
trước hết là ở dung lượng và tính chất của nó: “hình thức tự sự nhỏ, ngắn” trở
thành đặc điểm hàng đầu và cũng là dấu hiệu đầu tiên để người đọc nhận ra diện
mạo của truyện ngắn. Cũng chính do dung lượng ngắn là yếu tố thuộc về bản
18


chất nên khác với hình thức tự sự cỡ lớn, truyện ngắn có tính cô đọng, hàm xúc
cao.Với dung lượng câu chữ giới hạn, truyện ngắn giúp người đọc tiếp nhận liền
mạch trong một khoảng thời gian ngắn. Đây cũng là thế mạnh của những hình
thức tự sự cỡ nhỏ, tỏ ra hết sức phù hợp với xu thế của thời đại bùng nổ thông
tin hiện nay.
Như đã nêu nếu xét về số lượng trang viết, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Minh Châu nghiêng về thể loại tiểu thuyết hơn là thể loại truyện ngắn. Tuy
nhiên, không vì thế mà nói rằng truyện ngắn ít có vai trò hơn trong việc làm nên
tên tuổi của ông. Khi đi sâu vào tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh
Châu giai đoạn sau 1975, ta thấy truyện ngắn có vai trò và vị trí đặc biệt,
Nguyễn Minh Châu mở đầu nghiệp văn của mình bằng một truyện ngắn và kết
thúc cái nghiệp văn ấy cũng bằng một truyện ngắn. Truyện ngắn đầu tay “Sau
một buổi tập” được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội vào năm 1960. Tiếp sau
đó là một loạt truyện ngắn khác cũng được đăng trên tạp chí này. Trước năm
1975, Nguyễn Minh Châu có 19 truyện ngắn; sau năm 1975, ông có 23 truyện
ngắn gồm 8 truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, 9

truyện in trong tập “Bến quê”, 3 truyện in trong tập “Cỏ lau”, 3 truyện in trong
tạp chí Văn nghệ quân đội . Điểm qua các sáng tác của ông, ta có thể nhận thấy
số lượng truyện ngắn viết sau năm 1975 dù không nhiều hơn bao nhiêu nhưng
có chất lượng vượt trội so với các truyện trước năm 1975. Những truyện ngắn
được đánh giá cao như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến
quê, Chiếc thuyền ngoài xa… đều thuộc về giai đoạn thứ hai này. Xuất phát từ
mối quan tâm lo lắng của nhà văn về những vấn đề phức tạp nảy sinh trong cuộc
sống mới thời hậu chiến, mỗi truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thời kì này
thường ngầm chứa một bức thông điệp nào đó về đạo đức, lối sống và quan
niệm nhân sinh. Cùng với Bức tranh một loạt truyện ngắn ra đời sau đó đã cho
người đọc thấy được nhiều trăn trở suy tư của nhà văn về cuộc sống và con
người, trong đó nổi bật lên vấn đề về sự thức tỉnh của lương tâm và sự hoàn
thiện nhân cách. Ông lưu ý mọi người về sự độc ác hồn nhiên ngoài ý muốn

19


(Đứa ăn cắp), lối sống gia trưởng (Giao thừa), nhắc nhở về lối ứng xử của con
người với cha mẹ (Mẹ con chị Hằng)….
Tiếp theo những thể nghiệm bước đầu trong tập Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành, các tập Bến quê và Cỏ lau ra đời càng gây được sự chú ý đặc biệt
của dư luận. Lấy số phận con người làm tiêu điểm cho lăng kính nghệ thuật của
mình, Nguyễn Minh Châu sâu đi khám phá những tầng nghĩa sâu thẳm của thế
giới bên trong con người. Trong các truyện ngắn của ông, xu hướng triết lí nhận
thức ngày càng rõ nét hơn, con người trong tác phẩm luôn khao khát nhận thức,
chiêm nghiệm đời sống, tự đối thoại và tự nhận thức mình trong mối nhận thức
tương quan với tự nhiên và xã hội, đằng sau những chuyện đời thường là những
chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời.
Các truyện như Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Phiên
chợ giát… còn như muốn bao quát thêm nhiều vấn đề có tính lịch sử vào trong

cái bé nhỏ của một đời người. Về nội dung phản ánh, ở các truyện này vấn đề
không chỉ là ở một lát cắt đời sống mà đã có tham vọng muốn tái hiện diễn biến
của một cuộc đời, một số phận với nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp. Nhà
văn dường như muốn thông qua câu chuyện về cuộc đời mà gợi nên những vấn
đề có tầm vóc dân tộc, thời đại.
Muôn mặt đời thường đã đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, đem lại
cho tác phẩm của ông sự đóng góp quan trọng trong việc nỗ lực lấp đầy một
khoảng trống của văn chương trước đó bằng cái hằng ngày, bằng những số phận
cá nhân trong đời sống cộng đồng. Việc tìm tòi, khám phá, đào sâu vào bản chất
con người cũng là con đường để tác phẩm của ông vươn đến tiếp cận với những
giá trị vĩnh hằng của cuộc đời.

20


×