Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về giải phóng phụ nữ và vận dụng tư tưởng ấy vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở huyện nam sách, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.53 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM


NGUYỄN THỊ NHUNG


NG Ấ

LU






Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 03 01

Ă

ẠC SỸ TRIẾT H C

ỄN LINH KHIẾU

HÀ N I - 2016




LỜ

Đ

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự giúp đỡ
khoa học của PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu. Những tư liệu mới trong luận văn này đều
chính xác và có xuất xứ rõ ràng; kết quả nghiên cứu của luận văn chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào.

Hà Nội, ngày 19 tháng 09 năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhung


LỜI C
Tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ và giải phóng phụ nữ
không phải là một vấn đề mới; nhưng nghiên cứu trên địa bàn huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương lại là một vấn đề mới, gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu. Những kết
quả đạt được trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu đã tận tình hướng dẫn và có
nhiều hướng gợi mở giải quyết tốt những vấn đề khúc mắc, để tôi phát huy tốt khả
năng nghiên cứu độc lập của mình để đề tài đạt được kết quả tốt nhất. Qua đây, tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể các thầy giáo, cô giáo khoa Triết học – Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm đã luôn quan tâm, giúp đỡ, dạy bảo và tạo mọi điều
kiện tốt nhất để tôi hoàn thành khóa học và đề tài luận văn thạc sĩ.
Cùng với đó, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến đồng chí Bí thư Huyện ủy

Nam Sách, các đồng chí đang công tác tại Văn phòng Huyện ủy Nam Sách, Hội Liên
hiệp phụ nữ huyện Nam sách đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi tiếp cận những tài
liệu gốc phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Bên cạnh những nguồn động viên, giúp đỡ trên, tôi còn nhận được sự quan tâm,
khích lệ của gia đình, bạn bè những người luôn bên cạnh tôi lúc khó khăn nhất. Tôi
luôn chân trọng, cảm ơn những tình cảm tốt đẹp ấy!
Cuối cùng, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy, cô và các
nhà khoa học để luận văn hoàn thiện hơn nữa!
Xin chân thành cảm ơn!


M CL C

ĐẦU ........................................................................................................................... 1

M

ơ

1

t ở

ơ

1.1. Tư tưởng của Hồ hí
1.2. Quan điểm của Hồ hí
1.3. Tư tưởng của Hồ hí




....................... 7

inh về phụ nữ và vai trò của người phụ nữ Việt Nam ......... 7
inh về sự cần thiết phải giải phóng phụ nữ ....................... 23
inh về nội dung giải phóng phụ nữ ...................................... 26

1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những điều kiện cơ bản để giải phóng phụ nữ ....... 27
ơ
ơ

Đẩ







tỉ

............................................................................................................................... 33

2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội huyện Nam Sách hiện nay .......................... 33
2.2. Thực trạng giải phóng phụ nữ ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương hiện nay ........... 34
2.3.

ột số giải pháp nh m đ y mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở huyện Nam

Sách, tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay ................................................................ 56

KẾT LU N ...................................................................................................................... 72
DANH M C TÀI LIỆU THAM KH O ....................................................................... 75


ĐẦ
1. Tính cấp thiết c a ề t
Trên cơ sở tiếp thu các giá trị, tư tưởng, văn hóa của nhân loại, đặc biệt là quan
điểm của chủ nghĩa

ác - ênin về nữ quyền và giải phóng phụ nữ, Hồ hí

inh đã

sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề giải phóng phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ
ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, trong toàn bộ sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Nhận thức đúng đắn, mang tính khoa
học, tính nhân văn sâu sắc ấy đã t ng bước được hiện thực hóa trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ



inh. Di sản tư tưởng về

giải phóng phụ nữ mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc ta là một tài sản qu báu mà
chúng ta cần nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn sự nghiệp giải
phóng phụ nữ hiện nay.
Việt Nam, trong những năm qua,

ảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến


sự nghiệp giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ. Trên thực tế, vai trò của phụ
nữ đã được phát huy ở một mức độ nhất định và có những đóng góp lớn trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội
ngũ cán bộ nữ ngày càng đông đảo, trưởng thành ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực;
đặc biệt, những thành tích về chỉ số phát triển con người Việt Nam (HDI) là 0,725, xếp
ở vị trí 116/182 quốc gia và vùng lãnh thổ; chỉ số phát triển giới (GDI) xếp vị trí
94/155 nước (theo Báo cáo phát triển con người của Liên hợp quốc năm 2009) là
những minh chứng sinh động về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ ở Việt Nam
nói chung, ở huyện Nam sách, tỉnh Hải Dương hiện nay còn tồn tại nhiều hạn chế cần
khắc phục.
Nghiên cứu hệ thống quan điểm của Hồ hí

inh về giải phóng phụ nữ để vận

dụng trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ nh m nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữ
trong giai đoạn hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu
này cho đến nay vẫn chưa được chú

đúng mức, những công trình nghiên cứu trong

lĩnh vực này vẫn còn chưa đầy đủ, đặc biệt là các công trình nghiên cứu nh m vận

1


dụng tư tưởng Hồ hí

inh về giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ trong


những điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội cụ thể.
Huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương với diện tích 109 km2, với dân số gần
120.000 người là một huyện mang những n t đặc trưng của v ng đồng b ng Bắc Bộ.
ể t khi bắt đầu

ổi mới đến nay, Nam Sách đã đạt được những thành tựu nhất

định về mọi mặt của đời sống xã hội. ể có thể tiếp tục phát triển mạnh m trong thời
gian tới, một vấn đề đặt ra đối với huyện là làm sao sử dụng được một cách triệt để các
nguồn lực, trong đó phải kể đến một yếu tố rất quan trọng là vai trò của người phụ nữ.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ vấn đề có
cấp bách nói trên, tôi đã chọn đề tài:
t t ởng ấy
tỉ

ơ

nghĩa l luận và thực tiễn

t ở









” làm đề tài luận văn thạc s Triết học.

ề tài

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ t lâu đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Qua tìm hiểu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ
nữ, nhiều tác gia đã đặt vấn đề vận dụng những tư tưởng căn bản của Người vào thực
tiễn sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở nước ta thời gian qua.
Xin nêu một số công trình tiêu biểu sau:
hạm Văn ồng với công trình: Hồ hí

inh và con người Việt Nam trên con

đường dân giàu nước mạnh . Trong đó, ông đề cập đến quá trình đấu tranh bền bỉ của
con người trong lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung và vai trò của người
dân Việt Nam trong lịch sử phát triển của đất nước Việt Nam nói riêng và hoạt động
của Hồ hí

inh nh m giải phóng con người, xây dựng cho người dân Việt Nam một

cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hoàng Chí Bảo với công trình: Văn hoá và con người Việt Nam trong tiến trình
NH, H H theo tư tưởng Hồ Chí Minh , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, đề cập
đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với yêu cầu phát triển văn hoá và con người,
phát triển văn hoá và xây dựng con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
hạm Hoàng

iệp với công trình:

hủ tịch Hồ

phụ nữ đã tập hợp các bài nói, bài viết của Hồ hí


2



inh với sự tiến bộ của

inh về vai trò của phụ nữ và tầm


quan trọng của sự nghiệp giải phóng phụ nữ đối với sự thành công của cách mạng Việt
Nam. Trong công trình này, tác giả còn sưu tầm những bài viết, hồi kí

thể hiện lòng

kính trọng và biết ơn của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ quốc tế đối với Hồ hí

inh.

ông trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người do Phạm Ngọc Anh
chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Tác giả dành khoảng 15 trang để trình
bày những quan điểm độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh về giải quyền phụ nữ, t
cách tiếp cận quyền phụ nữ cho đến các nội dung cơ bản về quyền phụ nữ trong tư
tưởng của Người.
Ngoài ra các tạp chí khoa học xã hội và nhân văn đều mở chuyên mục nghiên
cứu tư tưởng Hồ hí

inh đăng tải những kết quả nghiên cứu của đông đảo các nhà

nghiên cứu khoa học, các nhà lãnh đạo quản l , ví dụ như: ê Văn Dương với công

trình

ột số n t cơ bản trong tư tưởng Hồ

công trình Tìm hiểu tư tưởng Hồ





inh về con người ;

ỗ ong với

inh về quyền con người, quyền công dân ;

h ng Hữu hú với công trình Nội dung tư tưởng Hồ hí

inh về chủ nghĩa xã hội ;

Nguyễn Trọng húc với công trình Những luận điểm của Hồ hí
và con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ; B i

inh về con người

ình hong với công

trình Giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho con người - cốt lõi của tư
tưởng Hồ hí


inh ; hạm Văn

theo tư tưởng Hồ



hánh với: Ba nội dung lớn về giải phóng phụ nữ

inh ; Nguyễn

ân Dũng với: Bác Hồ với sự nghiệp giải

phóng phụ nữ ; Hoàng

nh Tuấn với: Những lát cắt đặc biệt về giải phóng phụ nữ

trong tư tưởng Hồ hí

inh ;

ặng Thị Nhiệt Thu với: Quán triệt tư tưởng Hồ Chí

Minh về vai trò của phụ nữ trong xã hội hiện nay
Tiếp theo là những công trình nghiên cứu về vai trò, ph m chất của người phụ
nữ Việt Nam trong truyền thống và hiện đại.
Trong đó có công trình nghiên cứu Phụ nữ Việt Nam từ góc nhìn văn hóa của
Trần Quốc Vượng, Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2013 trình bày
về vị trí, vai trò và những ph m chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam dưới góc độ nghiên
cứu những truyền thống văn hóa của dân tộc.
Nguyễn inh hiếu với công trình Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình, Nxb Khoa

học Xã hội, 2003, đã khái quát về gia đình và vai trò của người phụ nữ trong gia đình; sự

3


bình đẳng của phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng trong thời đại ngày nay
cũng như vai trò của phụ nữ trong việc chăm sóc, nuôi dạy và giáo dục trẻ em.
Tiếp đến là công trình Phụ nữ Việt Nam trong kỷ nguyên biến đổi xã hội nhanh
của Bùi Thế ường, Nxb T điển bách khoa, Hà Nội, 2012. Tác giả đã tập hợp các bài
viết của các tác giả trong và ngoài nước thể hiện một cái nhìn mới về vai trò và đặc
điểm của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống hiện đại.
Ngoài ra, phải kể đến công trình, Phụ nữ và quản lý cùa Nguyễn Thị Vân Hạnh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014. Trong công trình, tác giả đã trình bày các cách
tiếp cận nghiên cứu bình đẳng giới và nghiên cứu phụ nữ trong quản lý, một số lý
thuyết về trường phái nữ quyền, những rào cản và nhận định sai lầm về phụ nữ và
quản lý, thực trạng nữ lãnh đạo và quản lý trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.
Sau cùng là những công trình nghiên cứu trực tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải phóng phụ nữ và sự vận dụng tư tưởng đó và sự nghiệp ổi mới đất nước trong
giai đoạn hiện nay.
Tiêu biểu là công trình Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng phụ nữ,
do Nxb Thông tấn biên soạn và xuất bản, Hà Nội, 2005 và công trình Chủ tịch Hồ Chí
Minh với sự tiến bộ của phụ nữ của Phạm Hoàng

iệp với, Nxb Văn hoá Thông tin,

2008, đã tập hợp những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về chủ đề giải phóng phụ
nữ; những m u chuyện, hồi kí, bài viết thể hiện lòng kính trọng, yêu quý và biết ơn sâu
sắc của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ quốc tế đối với Người.
Kế đến là công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ của Lê Ngọc
Dũng, uận văn Thạc sĩ Triết học trường

HQG T .H

ại học Khoa học xã hội và Nhân văn –

, 2010. Trong đó, tác giả trình bày những nội dung cơ bản của tư

tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và đề xuất một số giải pháp để thực hiện sự
nghiệp giải phóng phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong hiện nay.
ột số luận văn, luận án khác có liên quan đến chủ đề này như: Hồ hí
với vấn đề giải phóng phụ nữ trong cách mạng Việt Nam của
tưởng Hồ hí


inh về giải phóng phụ nữ của ê

inh

ặng Thị ương; Tư

inh Hà; Vận dụng tư tưởng Hồ

inh về giải phóng phụ nữ vào hoạt động thực tiễn của Hội liên hiệp hụ nữ Việt

Nam trong thời kì đổi mới của Trương Thị Thu Thủy;

4


Ngoài ra, còn có bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ của Nguyễn Thị Trà Giang, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh trình bày khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và rất nhiều bài viết, bài
báo, trang mạng trình bày về tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, bảo vệ
quyền lợi và phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Những thành tựu đạt được trong các công trình nêu trên không chỉ làm giàu tri
thức về tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ mà còn là cơ sở lý luận để vận
dụng vào thực tiễn sự nghiệp giải phóng phụ nữ cũng như các nghiên cứu triển khai
tiếp theo xung quanh nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ.
Rõ ràng, mặc d đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải phóng phụ nữ và vận dụng các tư tưởng đó của Người vào sự nghiệp giải
phóng phụ nữ nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về tư tưởng
giải phóng phụ nữ của Hồ Chí Minh và vận dụng vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương thời gian qua.


nghiên c u

ục đích: Trên cơ sở những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giải phóng
phụ nữ, nhận diện đúng thực trạng giải phóng phụ nữ ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Dương thời gian qua; luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nh m đ y mạnh sự
nghiệp giải phóng phụ nữ ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương hiện nay.
Nhiệm vụ: để thực hiện mục đích trên, luận văn s phải hoàn thành các nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ các tư tưởng của Hồ hí

inh về phụ nữ và giải phóng

phụ nữ.
- Tìm hiểu thực trạng sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Dương thời gian qua.

-

ề xuất một số giải pháp chủ yếu nh m đ y mạnh sự nghiệp giải phóng phụ

nữ ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương hiện nay.

5


Đố t

nghiên c u
ối tượng nghiên cứu: tư tưởng Hồ



inh về vai trò của phụ nữ và sự

nghiệp giải phóng phụ nữ.
hạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: luận văn chỉ nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ hí

inh

trong việc giải phóng phụ nữ ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
- Về thời gian: luận văn s tập trung nghiên cứu về quá trình giải phóng, phát
triển phụ nữ ở Nam Sách t sau đổi mới đến nay (đặc biệt là trong giai đoạn 20052015).
ơ

5.


l

ơ

u

hương pháp luận:
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa

ác – ênin, tư tưởng Hồ Chí

inh, quan điểm, đường lối của ảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề phụ nữ.
- Luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học đi trước.
hương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – ênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp chặt ch lý luận và thực tiễn, sử dụng
phương pháp văn bản học – trích dẫn t những tài liệu; sử dụng đúng đắn, phù hợp với
các phương pháp phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh,
tổng kết thực tiễn
6 Ý

ĩ lý l

n và th c tiễn c a lu

ă

- Góp phần làm rõ quan điểm của Hồ hí
-


inh về phụ nữ và giải phóng phụ nữ.

ề xuất một số giải pháp chủ yếu nh m đ y mạnh sự nghiệp giải phóng phụ

nữ ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương hiện nay.
7. ơ ấu

l

ă

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 7 tiết.

6


ơ
B N CỦA H

1.1.

t ởng

1

CHÍ MINH VỀ GI I PHÓNG PH N




và vai trò c

i ph n Việt Nam

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc,
phụ nữ Việt Nam đã góp phần sáng tạo nên mọi của cải vật chất và tinh thần, đã tích
cực tham gia các cuộc đấu tranh chống áp bức và bóc lột, nhất là đấu tranh chống
ngoại xâm, đã đảm đang nuôi dạy con cái, góp phần bảo vệ những truyền thống tốt đẹp
của cha ông để lại.
Nhận thức được điều đó, chủ tịch Hồ hí

inh đã sớm khẳng định vai trò quan

trọng của phụ nữ Việt Nam. Trong tác ph m Lịch sử nước ta, Người đã viết:

hụ nữ

ta chẳng tầm thường. ánh đông dẹp Bắc làm gương với đời [35, tr.222].
Sớm nhận thấy phụ nữ là lực lượng đông đảo của cách mạng, t những năm 20
của thể kỷ XX trong tác ph m Đường Kách mệnh, dựa trên quan điểm của . ác:

i

đã biết lịch sử thì biết r ng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì
chắc không làm nổi , Người đã khẳng định:

n Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới

tham gia mới thành công [34, tr.289].

Có thể nói, với Hồ Chí Minh thì phụ nữ Việt Nam là lực lượng vô cùng có ý
nghĩa đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, phụ nữ Việt Nam có vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp
cách mạng và mọi lĩnh vực đời sống xã hội. ánh giá về vai trò và công lao to lớn của
phụ nữ Việt Nam, Người đã khái quát một cách ngắn gọn mà vô cùng sâu sắc b ng 8
chữ vàng:

nh h ng, bất khuất, trung hậu, đảm đang . ó thể cụ thể hóa tư tưởng Hồ

Chí Minh về vai trò của phụ nữ Việt Nam thành 4 nhóm sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ Việt Nam trong gia đình.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lao động sản xuất.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ Việt Nam trong đấu tranh chống
giặc ngoại xâm.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ Việt Nam trong quản lý xã hội.

7


1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong gia đình
Hồ hí

inh là lãnh tụ thiên tài của

ảng và của nhân dân ta, là nhà tư tưởng

lớn của thời đại. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm về giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sự nghiệp của Người bắt đầu t con
người và cũng trở về với con người. Người khẳng định cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng và vì quần chúng, trong đó phụ nữ là một lực lượng quan trọng.

Hồ hí

inh t ng nói: Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia

đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt [41, tr.523]. ũng chính t quan điểm đó,
Người đã đánh giá cao vai trò của người phụ nữ Việt Nam đối với gia đình và xã hội.
Theo Hồ hí

inh, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội là

thống nhất, bổ sung cho nhau. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội được bắt nguồn
t chính vai trò của họ trong gia đình. Tạo hóa đã ban cho người phụ nữ chức năng
sinh đẻ và nuôi dạy con cái, chăm sóc và vun trồng những mầm non của đất nước, bảo
tồn và phát triển nòi giống.

ảm nhận trọng trách thiêng liêng này, trong điều kiện và

hoàn cảnh nước ta, người phụ nữ đã chịu đựng rất nhiều vất vả, cực nhọc nhưng họ
cũng tìm thấy ở đó nguồn hạnh phúc, niềm vui sướng của mình. Người phụ nữ đóng
vai trò rất lớn trong việc nuôi dạy con cái, là người thầy dạy học đầu tiên và gần gũi
nhất của con cái. Những lời khuyên nhủ của người mẹ in sâu vào tâm hồn trong trắng
của đứa trẻ, để hình thành nhân cách, tâm l riêng. Tình cảm yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, tinh thần đoàn kết,

chí ham học, ham làm của con người trong tương lai đã

bắt nguồn sâu xa t sự dạy dỗ, t cách sống và tấm gương của người mẹ.
Người mẹ là người giữ gìn, truyền thụ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc
cho các thế hệ trẻ.


ó là những ph m chất đạo đức tốt đẹp như lòng hiếu thảo của con

cháu đối với bố mẹ, sự kính trọng người già, lòng yêu thương con trẻ, sự tương trợ đ m
bọc nhau.

đây có công lao to lớn của người mẹ trong việc vun đắp, dạy dỗ con cái.

hụ nữ Việt Nam luôn đầy lòng nhân ái. Họ không chỉ quan tâm giáo dục con
em của mình mà còn quan tâm giáo dục thế hệ trẻ nói chung. Trên thực tế đã có nhiều
phụ nữ quan tâm làm tốt công tác giáo dục thế hệ trẻ. à người luôn sâu sát thực tế, Hồ


inh đã sớm khẳng định: Sự săn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nh m làm cho con

8


cháu mình khỏe và ngoan, mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và
khỏe [43, tr.258].
Người phụ nữ không chỉ thực hiện chức năng sinh đẻ, nuôi dạy con cái mà
trong gia đình gánh nặng công việc nhà luôn đè nặng lên họ.

hị em không chỉ làm

công việc nội trợ, cơm nóng, canh ngọt, mà phải lo chạy đủ gạo ăn cho gia đình, lo giỗ
tết, cưới xin, ma chay, v.v

Họ đã cần c , tiết kiệm, giật gấu bá vai, sao cho v a đủ

ăn, làm tròn nghĩa vụ với tổ tiên, với chồng con, với họ hàng làng xóm. Trong điều

kiện hoàn cảnh sống còn khó khăn, thiếu thốn, người phụ luôn lo lắng cho gia đình,
cho con cái có cơm ăn, áo mặc, được học hành và khỏe mạnh. Nỗi lo đó của người phụ
nữ, người mẹ, người vợ cũng chính là nỗi niềm day dứt của Hồ
khẳng định:



inh. Người

hụ nữ gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái [40, tr.185]. Hồ



inh luôn có sự cảm thông sâu sắc đối với những khó khăn, vất vả của người phụ nữ.
Người phụ nữ có ảnh hưởng rất lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia đình.
Với vai trò là người vợ hiền, họ luôn là người hiểu chồng, sẵn sàng chia ngọt sẻ b i,
cũng như những đắng cay c ng chồng. Trong những năm tháng đất nước có chiến
tranh, thấm nhuần lời dạy của Hồ hí

inh, vì nghĩa lớn mà gác tình riêng, hàng triệu

phụ nữ đã động viên, khuyến khích chồng con ra trận. Ghi nhận sự hy sinh và đóng
góp to lớn của chị em phụ nữ cho cách mạng, Hồ hí

inh viết:

xuất, khuyến khích chồng con ra mặt trận [35, tr.438].

hụ nữ tham gia sản


hông chỉ xung phong sản

xuất mà còn khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận
tải [45, t.7, tr.38]. Những lúc chồng con ra đi bảo vệ đất nước, thì người mẹ, người vợ
ở nhà bám chặt lấy đồng ruộng, tiếp tục sản xuất, nuôi con cái, bố mẹ già và tiếp lương
cho quân đội. hị em phụ nữ đã làm mọi công việc thay chồng con, vì việc nước mà
vắng nhà. ông lao to lớn của các bà, các mẹ, các chị được Hồ hí

inh kịp thời thay

mặt cả nước ngợi khen và gửi lời cảm ơn: Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ hai miền
Nam - Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh h ng của nước ta [45, t.5, tr.172].
ảm đang, cần c trong lao động, anh h ng bất khuất trong đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, nhân nghĩa thủy chung trong quan hệ gia đình, xóm làng, đó chính là
những n t điển hình tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam t ngàn xưa để lại. T đó đến nay,
người phụ nữ luôn có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng họ lại

9


không hề quên trách nhiệm làm vợ, làm mẹ của mình. Người phụ nữ bên cạnh những
đóng góp cho xã hội thông qua các công việc chuyên môn của mình còn là nhân tố tích
cực, thậm chí quyết định cho một gia đình tốt như Hồ hí

inh t ng khẳng định.

Song vai trò của người phụ nữ không phải khi nào cũng được nhận thức đầy đủ
và được quan tâm phát huy. Trong xã hội cũ, người phụ nữ bị coi khinh, bị ngược đãi,
bị trói buộc bởi đạo tam tòng , bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ , không có quyền
lực gì trong gia đình, họ bị đối xử bất công, bất bình đẳng, bị bóc lột và bị nô lệ c ng

một lúc trong xã hội và trong chính gia đình của họ. Họ không chỉ bị bóc lột về thể xác
mà còn bị bóc lột về kinh tế, về tinh thần.
hê phán những tư tưởng lạc hậu kìm hãm, trói buộc người phụ nữ trong xã hội
cũ, Hồ hí

inh luôn đặt vị thế vai trò của phụ nữ ngang hàng với nam giới. Người

nhất quán tư tưởng giải phóng phụ nữ phải giải phóng toàn diện về kinh tế, chính trị,
tư tưởng, xã hội. Giải phóng phụ nữ trước hết là phải giải phóng t trong gia đình - tế
bào của xã hội, thực hiện bình đẳng giới, hôn nhân một vợ, một chồng...
Hôn nhân và gia đình, đây là một lĩnh vực mà người phụ nữ có vai trò, có trách
nhiệm rất lớn, đồng thời cũng gặp vô vàn khó khăn vất vả. Hồ hí

inh tuy không có

gia đình riêng nhưng Người hiểu và thông cảm sâu sắc với những băn khoăn, lo lắng
của người phụ nữ làm bổn phận người vợ, người mẹ trong gia đình và là người lao
động trong xã hội. Người t ng nói:

ó người nghĩ r ng Bác không có gia đình chắc

không hiểu gì mấy vấn đề này. Bác tuy không có gia đình riêng, nhưng bác có một đại
gia đình rất lớn, trong đó là giai cấp công nhân toàn thế giới, là nhân dân Việt Nam.
T gia đình lớn đó Bác có thể suy đoán gia đình nhỏ [37, tr.281].
Hồ hí

inh đã có những quan niệm về giải phóng phụ nữ rất sâu sắc thể hiện

tính nhân văn, lòng yêu thương con người nói chung và sự quan tâm đặc biệt đối với
phụ nữ nói riêng. Vấn đề vai trò của người phụ nữ trong gia đình luôn được Người

quan tâm coi trọng. Người cho r ng: Rất quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội
mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình.
phải chú

hính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội

đến hạt nhân cho tốt [37, tr.282].

10


ể bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và xây dựng gia đình kiểu mới bình đẳng, tiến
bộ, đấu tranh chống những tư tưởng lỗi thời, lạc hậu kìm hãm trói buộc người phụ nữ.
Hồ hí

inh đã tích cực chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật, trong đó có

những quy định rõ về quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới. Hiến pháp năm
1946,

iều 24 quy định:

hụ nữ nước Việt Nam Dân chủ

ộng hòa có quyền bình

đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và gia đình
[42, tr.224]. uật hôn nhân gia đình đầu tiên, năm 1960,


iều 1 nói: Nhà nước đảm

bảo nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ [42, tr.224].
uật hôn nhân và gia đình ra đời, theo Hồ hí

inh, đó là một cuộc cách mạng

thật sự bởi vì nó là cơ sở để xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Hồ hí

inh

thường xuyên theo dõi nhắc nhở việc thực hiện nghiêm chỉnh uật hôn nhân và gia
đình. Người yêu cầu các đoàn thể có trách nhiệm tuyên truyền cho t ng gia đình và
toàn thể cộng đồng trong xã hội, đồng thời nhắc nhở chị em phải tìm hiểu, nắm chắc
luật làm cơ sở đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng trong gia đình.
Theo Hồ



inh, thực hiện sự bình đẳng về giới là:

ột cuộc cách mạng

khá to và khó. Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn
sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội, vì thế không thể
d ng vũ lực mà đấu tranh [38, tr.433]. Hồ hí

inh căn dặn: giải phóng phụ nữ là

một cuộc cách mạng phải tiến hành thường xuyên, kiên trì, triệt để, phải thu hút cả xã

hội tham gia và làm cách mạng t ng người, t ng gia đình, đến toàn dân. D to và khó
nhưng nhất định thành công [38, tr.433]. Người nói: hội phụ nữ và đoàn thanh niên
phải phụ trách tuyên truyền và giáo dục một cách rộng khắp và bền bỉ cho mọi gia
đình phải hiểu rõ pháp luật nhà nước và thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa về vấn
đề ấy. Bà con trong làng xóm và trong hàng phố cần phải có trách nhiệm ngăn ng a,
không để những việc vi phạm như vậy xảy ra. Bản thân chị em phải có
tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình.

chí tự cường,

ối với những người đã được

giáo dục khuyên răn mà vẫn không sửa đổi thì chính quyền cần phải thi hành kỷ luật
một cách nghiêm chỉnh.

11


ục đích giải phóng phụ nữ x t đến c ng là thực hiện quyền bình đẳng của phụ
nữ so với nam giới.

ó phải là bình đẳng thực sự, bình đẳng t trong gia đình cho đến

ngoài xã hội.
Song Hồ hí

inh đã sớm phát hiện và phê phán tình trạng hiểu việc giải phóng

phụ nữ và thực hiện bình đẳng nam nữ theo kiểu hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, qu t
nhà, hôm sau em qu t nhà, nấu cơm, rửa bát [38, tr.433]. Theo Hồ hí


inh, bình đẳng

nam nữ cần được hiểu là công việc của phụ nữ phải được phân công một cách khoa học,
thỏa đáng, ph hợp với sức khỏe, thể chất, tính cách, thiên chức của chị em, nh m tạo mọi
điều kiện cho chị em phát huy được những khả năng, ưu thế của họ trong việc xây dựng
gia đình hạnh phúc và tham gia vào xây dựng phát triển xã hội.
Hồ



inh luôn đề cao vai trò, trách nhiệm của

ảng, Nhà nước và các tổ

chức đoàn thể trong việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và xây dựng gia đình kiểu mới,
bình đẳng tiến bộ. Người khẳng định: T nay đảng bộ, chính quyền và đoàn thể quần
chúng (trước hết là phụ nữ và thanh niên) cần phải ra sức tuyên truyền uật hôn nhân
và gia đình sâu rộng hơn nữa và phải chấp hành thật nghiêm chỉnh. Những thói dã
man đánh vợ và p duyên con cần phải chấm dứt. ợi quyền của phụ nữ cần được thật
sự bảo đảm. Gia đình là hạt nhân của xã hội.

ọi gia đình đều đoàn kết cộng lại thành

xã hội đại đoàn kết [42, tr.662].
Như vậy, trong quan điểm của Hồ hí

inh, người phụ nữ sinh ra không phải

chỉ để quanh qu n với những công việc nội trợ trong gia đình, mà họ còn là thành viên

của xã hội, có trách nhiệm giáo dục, đào tạo cho xã hội những người con có đầy đủ
sức khỏe, ph m chất và năng lực.

ồng thời họ cũng góp phần hoàn thiện nhân cách,

trình độ của nguồn nhân lực xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong lao động
sản xuất
hụ nữ không chỉ có vai trò trong gia đình mà còn có vai trò rất lớn trong lao
động sản xuất và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Họ đã tham gia vào các hoạt
động lao động sản xuất và đạt được nhiều thành tích cao trong lao động sản xuất. Vì
vậy, Hồ hí

inh khẳng định phụ nữ là lực lượng lao động quan trọng trong xã hội, là

một trong những đội quân chủ lực tạo ra của cải vật chất làm giàu cho xã hội.

12


Trên mặt trận lao động sản xuất, Hồ hí

inh luôn khẳng định phụ nữ luôn có

vai trò rất quan trọng, họ là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, chị em phụ nữ đã
góp phần công sức to lớn của mình trong việc nuôi quân và dân ăn no đánh giặc .
Người chỉ rõ: chưa bao giờ có nhiều đoàn phụ nữ

inh,


án, Thổ, N ng đi tiếp tế

vận tải đông đảo như vậy, khó nhọc, khổ sở, nguy hiểm, mà vẫn hăng hái, vui vẻ, dũng
cảm thật là đáng khâm phục [45, t.6, tr.459].

ể đánh thắng đế quốc háp và phát xít

Nhật, tất cả người già, đàn ông, đàn bà ai cũng tham gia cách mạng hoặc ra mặt trận
giết giặc hoặc ở đ ng sau trồng trọt ngô, khoai, giúp cho quân lính mình [36, tr.103].
hính nhờ có phụ nữ quyết tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều lương thực để rồi bộ
đội ta k o đến đâu cũng có dân giúp đỡ, nhất là chị em phụ nữ, họ tranh nhau giúp nấu
cơm, gánh nước, giặt áo và quần cho bộ đội [37, tr.607]. Ngoài ra ở địa phương các
chị thi đua nhau tăng gia sản xuất, rủ nhau gửi đồ qu , gạo cho chiến sĩ ở tiền phương,
có gì gửi nấy, quà bánh và thư t

[37, tr.15].

Ghi nhận vai trò của phụ nữ, Hồ hí

inh khẳng định: Nam nữ công nhân và

nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản ngại khó nhọc để giúp một phần vào
kháng chiến [38, tr.172]. ể phát huy vai trò của phụ nữ, Hồ hí
làm tốt công tác nêu gương.

inh luôn quan tâm

hi nói chuyện với đại biểu cán bộ, đảng viên tỉnh Hà

Tĩnh, năm 1957, Người đã nêu gương về những phụ nữ luôn đi đầu trong lao động sản

xuất mà ngay cả nam giới cũng cần học tập.
B ng lao động và thông qua lao động, chị em phụ nữ đã phát huy vai trò làm
chủ của mình trong lao động và đã tạo ra giá trị sản ph m gấp nhiều lần so với định
mức quy định. Trong bài Công tác cầu đường, năm 1953, Hồ



inh đã nêu ra

những tấm gương cụ thể về những phụ nữ đạt thành tích cao trong lao động sản xuất.
Người đã đưa ra những ví dụ cụ thể như:
mức đã định, đồng chí

ồng chí

ao tăng năng suất hơn gấp năm

tăng năng suất hơn 3 lần [39, tr.87].

ó được kết quả trong lao động sản xuất là nhờ sự cố gắng vươn lên, không
quản ngại khó khăn vất vả của bản thân phụ nữ.

hi nói về những tấm gương phụ nữ

vượt khó vươn lên trong lao động sản xuất, Hồ hí
như:

ó nhiều cô như cô

inh đã nêu ra những ví dụ cụ thể


ảng có 4 cháu mọn, chồng là thương binh, đã làm bí thư

chi bộ, ủy viên ban chấp hành phụ nữ xã, ủy viên quản trị kiêm đội trưởng đội lao

13


động mà vẫn làm được 220 ngày công.

ô Xịch bận 3 cháu mọn, mỗi năm vẫn làm

được 333 ngày công, nhặt được 4 tấn phân bón [42, tr.597].
Hồ hí

inh luôn tin tưởng vào vai trò và khả năng của phụ nữ. Vì vậy, Người

luôn quan tâm động viên, khích lệ, phát huy vai trò của chị em phụ nữ trong lao động
sản xuất cũng như trong mọi công việc của xã hội. Người viết:

ó vài nơi, chị em phụ

nữ không quen cày cấy, thậm chí không gánh nổi phân phải đội. ối với điểm này, chị
em cần phải cố gắng thi đua với nam giới. ánh giặc là việc nguy hiểm phụ nữ ta đã tỏ
ra rất oanh liệt, không l việc cày cấy làm ăn mà chị em lại chịu thua [41, tr.215].
Với những phụ nữ đạt thành tích cao trong lao động sản xuất đều được Hồ hí
inh biểu dương khen ngợi kịp thời. Trong bài Nói chuyện với chị em phụ nữ tỉnh
Thanh Hóa, năm 1957, Người biểu dương:

hị em phụ nữ Thanh Hóa có tinh thần


lao động cần c , lao động rất tốt. Như thế là v a làm lợi nhà, v a làm ích nước [40,
tr.401].
Trong Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt, năm 1964, Hồ hí
định:

inh khẳng

hụ nữ ta đã có thành tích cao trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, có

nhiều anh h ng chiến sĩ thi đua, đội trưởng đội sản xuất trong các nhà máy, chủ nhiệm
hợp tác xã, đội trưởng đội dân quân, bác sĩ, giáo viên
Trong cuộc kháng chiến chống

rất giỏi [43, tr.225].

, cứu nước, chị em phụ nữ hai miền đã thực

hiện tốt các phong trào thi đua năm tốt , ba đảm đang .

ác phong trào này đã có

tác dụng to lớn trong việc đ y mạnh sản xuất phục vụ chiến đấu chống

, cứu nước.

hụ nữ miền Bắc không chỉ thi đua mỗi người làm việc b ng hai người vì miền Nam
ruột thịt , mà còn thi đua góp phần vào các phong trào Ba đảm nhiệm , Ba sẵn
sàng ,


y mạnh sản xuất, bảo vệ sản xuất và phục vụ chiến đấu . Những phong trào

thi đua đó đã phát huy ph m chất đạo đức của phụ nữ, góp phần quan trọng vào thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống

. Hồ hí

inh khẳng định:

hong trào năm tốt

của phụ nữ miền Nam, phong trào ba đảm đang của phụ nữ miền Bắc là những
phong trào yêu nước nồng nàn và rộng khắp, lôi cuốn đông đảo phụ nữ hai miền thi
đua sản xuất, phục vụ chiến đấu, góp phần to lớn vào sự nghiệp chống
của toàn dân [44, tr.149].

14

, cứu nước


Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ hí

inh thấy và

đánh giá rất cao việc có nhiều phụ nữ biết điều khiển máy tiện, máy khoan, máy dệt tối
tân; trên các công trường có nữ thanh niên, có các cháu gái biết lái máy xúc, lái xe vận
tải; ở mỏ than Hòn Gai, chị em làm ở ọc 6, chỉ trong mấy ngày đã nâng mức đ y xe
t 32 xe lên 335 xe một ca [42, tr.88]. Tổng kết về vai trò của phụ nữ tham gia vào
lao động sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ:


nông thôn 60% xã viên

hợp tác xã là phụ nữ. ó những cô chủ nhiệm hợp tác xã. ô Hoàn là người đầu tiên
đã làm được 3000 cân phân, rồi phong trào thi đua lên, nhiều người làm vượt hơn cô
Hoàn, có người làm tới 7000 cân. hụ nữ tri thức cũng tham gia dân quân tự vệ, nhiều
đội rất khá. hụ nữ tri thức cũng đóng góp nhiều công trong việc xây dựng các vườn
trẻ, lớp mẫu giáo và trong các ngành nghề khác. Trong phong trào cải tạo xã hội chủ
nghĩa chị em buôn bán nhỏ đã tổ chức lại, đi vào hợp tác và sửa đổi cách làm ăn buôn
bán như thực thà, không lấy lãi, khiêm tốn, phục vụ khách hàng, rất đáng khen. hị em
tư sản tự mình tiếp thu và khuyên chồng tiếp thu cải tạo và đi vào con đường công tư
hợp doanh [42, tr.88].
ánh giá vai trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất, Hồ hí

inh khẳng

định có nhiều tấm gương như có chỗ ông chủ nhiệm đi bộ đội, công việc do cháu gái
làm, làm lại tốt hơn trước kia [44, tr.22]. Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ
cao cấp, năm 1966, Người khẳng định: Nói chung, các cháu gái rất hăng. Ví dụ: đi
chặt gỗ, việc ấy nặng nhọc, lúc hăng các cháu làm được hết; hay đi đắp đường, chỗ núi
non khó khăn, các cháu cũng làm được [44, tr.22].
ặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, Hồ



inh căn dặn:

hụ nữ công nhân cần tích cực tham gia quản l thật tốt nhà máy, công trường. hụ
nữ nông dân cần hăng hái tham gia phong trào đổi công, hợp tác, gặt tốt vụ m a, chu n
bị tốt vụ chiêm năm tới. ác tầng lớp phụ nữ ở thành phố cần chấp hành tốt chính sách

của

ảng và

hính phủ.

hị em làm nghề buôn bán cần giữ đức tính thật thà, đúng

đắn [41, tr.238].
ồng thời, Hồ hí

inh đã kịp thời biểu dương những đóng góp của phụ nữ có

những tiến bộ lớn, nhất là các cháu thanh niên gái đã trở thành công nhân, tổ trưởng
chiến sĩ thi đua ở các xí nghiệp như mỏ thiếc ao B ng, khu gang th p Thái Nguyên

15


Trong điện gửi Đại hội phụ nữ Ba đảm đang, năm 1966, Hồ hí
lòng thay mặt Trung ương

ảng và

inh viết: Bác vui

hính phủ thân ái gửi lời khen ngợi các chị em

phụ nữ ba đảm đang [44, tr.38].
hông chỉ công nhận và đánh giá cao thành tích công lao to lớn của phụ nữ

trong lao động sản xuất, Hồ hí

inh còn căn dặn chị em phụ nữ:

ể xứng đáng là

người làm chủ nước nhà, chị em phải gia sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm,
làm tốt nhiệm vụ với nhà nước, xung phong trong việc xây dựng đời sống mới, phải
đ y mạnh tăng gia sản xuất [40, tr.410].
hông chỉ căn dặn động viên phụ nữ, Hồ hí

inh còn nhắc nhở

ảng, hính

phủ các cấp muốn có nhiều sức lao động để sản xuất thì phải giải phóng sức lao động
của phụ nữ [41, tr.523].

ể cho mọi phụ nữ phát huy hết khả năng lao động sáng tạo

của mình, Người khẳng định: phải đặc biệt chú

đến sức lao động của phụ nữ. hụ

nữ là đội quân lao động rất đông. hải giữ gìn sức khỏe cho phụ nữ để chị em tham gia
sản xuất được tốt [44, tr.194].
Ngay sau cách mạng Tháng Tám, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của cách mạng được Hồ hí

inh xác định là phải diệt giặc dốt , nâng cao trình


độ văn hóa cho nhân dân. T những ngày đầu của cách mạng mới thành công, Hồ hí
inh đã chỉ ra rất rõ vai trò của phụ nữ trong việc tham gia vào đấu tranh diệt giặc
dốt . Người khẳng định: Trong phong trào phát triển bình dân học vụ, phụ nữ chiếm
một phần rất lớn trong số người dạy cũng như trong số người học [38, tr.432].
Hồ hí

inh luôn đáng giá rất cao vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục

và trong nghiên cứu khoa học. Tại Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc, năm 1956,
Hồ hí

inh khẳng định: Sau này công tác giáo dục phần nhiều phải do phụ nữ đảm

nhiệm [40, tr.137].
ó thể nói, ngay t rất sớm, Hồ hí

inh luôn quan tâm đào tạo phụ nữ để họ

trở thành những người công dân v a biết lao động chân tay v a biết lao động trí óc,
tạo mọi điều kiện để phụ nữ học văn hóa, nghiên cứu khoa học, kĩ thuật, nâng cao trình
độ, vươn lên làm chủ bản thân và làm chủ xã hội.

16


1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm
Hồ hí


inh là người sớm thấy và luôn quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ

trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, trong tổng số những bài nói, bài
viết, Hồ hí

inh có đến gần 100 bài nói đến vai trò và những đóng góp của phụ nữ

vào trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, Hồ hí

inh khẳng

định: xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái
tham gia, không thể có một lực lượng cách mạng mạnh m , nếu không có phụ nữ tham
gia [33, tr.288].
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ hí

inh đã nhận thấy một trong

những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là sự tham gia của phụ nữ.
Người khẳng định:

n Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công .

Theo Người, phụ nữ ta chẳng tầm thường, đánh ông, dẹp Bắc làm gương để đời .
Trong thời kì hoạt động bí mật, nhiều chị em đã giác ngộ tham gia hoạt động
cách mạng rất dũng cảm, mặc dầu muôn ngàn nguy hiểm, gian khổ, rất nhiều chị em
đã bảo vệ cách mang rất gan góc. Thời kì đó, ở Việt Bắc, đã có rất nhiều chị em phụ
nữ các dân tộc thiểu số không những vượt ngàn gian khổ, mà còn gạt bỏ cả mê tín, để
bảo vệ cách mạng và cán bộ hoạt động cách mạng [42, tr.87]. Hồ




inh khẳng

định phụ nữ nước ta đã có nhiều đóng góp cho cách mạng, có nhiều tiến bộ như chị
Nông Thị Trưng ở ao B ng đã t ng nuôi giấu cán bộ cách mạng, chị

á Thị hảy ở

ạng Sơn đã bất chấp nguy hiểm, nhiều lần vượt biên giới làm liên lạc cho cách mạng,
rồi những tấm gương anh dũng hy sinh của chị Nguyễn Thị

inh

hai, chị Võ Thị

Sáu
Hồ hí

inh đã ghi nhận những đóng góp to lớn của phụ nữ trong kháng chiến.

Người ca ngợi tinh thần dũng cảm chiến đấu không quản nguy hiểm, khó khăn của các
nữ du kích như thành tích của hàng vạn phụ nữ

inh, Tày, N ng,

án,

èo xông pha


lửa đạn để giúp đỡ bộ đội trong mọi việc. Nhiều bà cụ ngoài bảy, tám mươi tuổi chẳng
những xung phong đi dân công mà còn thách thi đua với các cụ ông và con cháu.



phát huy vai trò của phụ nữ và của toàn dân tộc trong kháng chiến, Người đã đưa ra
những ví dụ rất cụ thể như: Bà cụ Năm ( ao B ng) 83 tuổi xung phong đi sửa đường,

17


cán bộ khuyên bà cụ nghỉ thì cụ đã nói

àng già càng phải giúp kháng chiến, sửa

đường cho bộ đội đi cho mau, giết cho nhiều giặc, thắng cho nhiều trận [38, tr.473].
Hồ



inh rất xúc động trước tình yêu thương chiến sĩ của các bà, các cụ

trong Hội mẹ chiến sĩ ở các địa phương. Theo Người, các bà mẹ chiến sĩ và các chị
em giúp thương binh đã hòa lẫn lòng yêu nước, yêu cách mạng, yêu chiến sĩ thành một
mối yêu thương không bờ bến, mà giúp đỡ chiến sĩ và chăm sóc thương binh như con
em ruột thịt của mình [38, tr.431].

các v ng tạm chiến, các mẹ chẳng khác gì các

nữ thần hộ mệnh đã bảo vệ cho các chiến sĩ hoạt động bí mật. Việc làm của các bà,

các mẹ thật đáng khâm phục [38, tr.407]. Người đã tỏ lòng biết ơn sâu sắc các cụ đã
thương yêu săn sóc các chiến sĩ như con cháu ruột thịt và nhắc nhở các chiến sĩ phải
hiếu với các mẹ b ng cách giết giặc lập công.
Trong cuộc kháng chiến trường kì gian khổ đã có hàng ngàn tấm gương phụ nữ
hi sinh anh dũng, bị địch bắt tra tấn dã man, móc mắt, tróc thịt, hủy hoại cơ thể nhưng
các chị vẫn giữ vững tấm lòng son sắt với
trước kẻ th . Hồ



ảng, với cách mạng, hy sinh anh dũng

inh nhiều lần nhắc nhở: chúng ta có hòa bình vì đã có bao

nhiêu gương đấu tranh hy sinh anh dũng của toàn dân ta, toàn ảng ta, trong đó có phụ
nữ ta. Trong Thư gửi phụ nữ nhân dịp kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ,
năm1952, Người viết: Tôi kính c n nghiêng mình trước linh hồn các nữ liệt sĩ đã hy
sinh cho Tổ quốc

Tôi kính chào các bà mẹ có con trong bộ đội và các bà mẹ c ng

vợ con các liệt sĩ . Ngày 8/3/1952, khi cuộc kháng chống thực dân háp của nhân dân
ta bước vào giai đoạn quyết liệt, nhân ngày Quốc tế phụ nữ, Hồ hí

inh đã viết thư

gửi cho chị em phụ nữ trong nước và chị em kiều bào ngoài nước, trong đó có đoạn:
Hai Bà Trưng đã để lại cho phụ nữ Việt Nam một truyền thống vẻ vang là dũng cảm
kháng chiến.


iên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế giúp phụ nữ Việt Nam bồi dưỡng

truyền thống ấy, hăng hái đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược. hụ nữ Việt
Nam đã xứng đáng là con cháu của Hai Bà Trưng và là lực lượng trong quốc tế phụ
nữ.

hi nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống

, một đế quốc có tiềm lực kinh

tế, quân sự kĩ thuật rất mạnh, một cuộc chiến đấu hết sức gay go và quyết liệt, đáp lại
lời kêu gọi của Hồ



inh, phụ nữ ta ra sức phát huy hơn nữa truyền thống dũng

cảm, đảm đang, c ng toàn quân, toàn dân bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc, đưa sự

18


nghiệp chống

cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, chị em phụ nữ đã tỏ rõ sức mạnh

và khả năng của mình trên mọi lĩnh vực.
iền Nam, chị em phụ nữ đã trở thành lực lượng đông đảo trong các cuộc
đấu tranh cách mạng: kiên trì, bền bỉ, ngoan cường, những đội quân tóc dài đã gan dạ
xông pha, bất chấp gian khổ, đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, biến những

buổi tối tố cộng của địch thành những buổi tố cáo, vạch trần âm mưu, tội ác của bọn
tay sai. Hồ



Người viết:

inh rất tự hào về những thành tích của chị em phụ nữ miền Nam.

iền Nam anh h ng có đội quân đấu tranh chính trị gồm hàng vạn chiến

sĩ toàn là phụ nữ. Họ rất mưu trí và dũng cảm làm cho địch phải khiếp sợ và gọi đó là
đội quân tóc dài . hó tư lệnh giải phóng quân là cô Nguyễn Thị

ịnh. ả thế giới

chỉ có ta có vị tướng gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta
[44, tr.149].
miền Bắc, chị em phụ nữ đã hăng hái thi đua thực hiện phong trào Ba đảm
đang chống

, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. hị em v a chiến đấu, v a

sản xuất, chi viện sức người, sức của cho miền Nam, làm tròn vai trò là hậu phương
vững chắc cho cả nước. Hồ hí

inh đã nhiều lần gửi thư khen gợi phụ nữ miền Bắc

đã chiến đấu dũng cảm bắn rơi nhiều máy bay địch, bắn cháy nhiều tàu chiến


,

c ng nhiều thành tích chiến đấu khác. Người khẳng định: Trong phong trào thanh
niên xung phong chống

, cứu nước, nhiều cháu thanh niên gái Vĩnh inh v a sản

xuất giỏi, v a chiến đấu giỏi, tổ cầu đường Trần Thị

ở Quảng Bình và tiểu đội 9,

đại đội 814 đã đảm bảo tốt giao thông dưới làn bom đạn, đội quân gái ở Nam Ngạn đã
góp phần bắn đươc nhiều máy bay giặc
Hồ hí

[44, tr.149].

inh luôn đánh giá cao vai trò của các bà mẹ đã anh dũng che chở cho

bộ đội, khuyến khích chồng, con đi chiến đấu, cắn răng chịu đựng những mất mát đau
thương. Người nói:

ác bà mẹ chiến sĩ đã khuyến khích con cháu mình vào bộ đội

đánh giặc cứu nước. Ngoài ra, ân cần, nuôi nấng, giúp đỡ và bảo vệ cán bộ và chiến sĩ
khác như con cháu của mình. Như bà mẹ Suốt ở Quảng Bình đã xông pha bom đạn,
không sợ sóng to, gió lớn, suốt ngày đêm chèo thuyền đưa bộ đội qua sông để chiến
đấu. Bà mẹ

ần người Thái ở Sơn a có 6 người con thì 2 con đi bộ đội, 4 vào du


kích, bản thân mẹ cũng hăng hái vào bạch đầu quân. Bà mẹ

19

ích ở Thái Bình đã cho


cả 4 đứa con trai và 1 người con rể vào bộ đội. Bản thân bà mẹ v a lo việc nhà cho các
con, v a hăng hái giúp đỡ gia đình chiến sĩ.

ẹ ích rất tự hào là cả nhà gồm có 4 con

trai, 2 con gái, 1 con rể đều vẻ vang được tham gia

ảng lao động Việt Nam [44,

tr.149].
ánh giá công lao to lớn của chị em phụ nữ, Hồ hí

inh khẳng định: như thế

là t xưa tới nay, t Nam đến Bắc, t trẻ đến già, phụ nữ Việt Nam thật là anh h ng
[44, tr.159], hay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên
góp phần xứng đáng của mình và sự nghiệp giải phóng dân tộc [44, tr.148].
Hồ hí

inh khẳng định: Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng

như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ [38, tr.432].


ó cũng là lời khẳng

định vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Như vậy, Hồ hí

inh đã chỉ rõ: vai trò của phụ nữ không chỉ thể hiện ở lòng

căm th giặc ngoại xâm, động viên và hy sinh để chồng con yên tâm cầm súng ra mặt
trận, mà còn trực tiếp tham gia cầm súng đánh giặc, họ đã có nhiều hy sinh, đóng góp
cho sự nghiệp đấu tranh giành và giữ độc lập chủ quyền dân tộc. Người đã tặng phụ
nữ Việt Nam 8 chữ vàng:

nh h ng, bất khuất, trung hậu, đảm đang .

1.1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý
Hồ hí

inh là người luôn quan tâm phát huy vai trò của người phụ nữ trong

các công việc quản l nhà nước. Ngay trong phiên họp đầu tiên của
(3/9/1945), Hồ hí

hính phủ

inh nói: Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và

bầu cử [36, tr.8]. Ngày 1/6/1946, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, phụ nữ được cầm
lá phiếu trực tiếp bầu những người có đức, có tài đại diện cho mình vào trong chính
quyền cách mạng.


ây cũng là lần đầu tiên, phụ nữ Việt Nam được thực hiện quyền

công dân của mình.
Ngay sau tổng tuyển cử, Hồ hí
Việt Nam Dân chủ

inh đã giới thiệu vào Quốc hội khóa I nước

ộng hòa một số chị em tiêu biểu như giáo sư Nguyễn Thị Thục

Viên, bà Tôn Thị Quế...

ồng thời, Hồ hí

inh rất quan tâm đến công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, trong đó có cán bộ nữ, bố trí cán bộ nữ vào các cương vị lãnh đạo
của ảng, Nhà nước ở các cấp, các ngành và do đó, tỉ lệ phụ nữ tham gia vào các công
việc quản l ngày càng nhiều. Hồ hí

inh khẳng định sau khi nước nhà giành được

20


độc lập, phụ nữ Việt Nam đã tiến bộ rõ về mọi mặt, tiến bộ rõ rệt nhất là phụ nữ tham
gia chính quyền ngày càng nhiều, dưới chế độ mới, chị em phụ nữ đã được bình quyền
về kinh tế, chính trị, văn hóa. Năm 1960, trong bài Nói chuyện tại hội nghị các đại
biểu phụ nữ tham gia công tác chínhquyền toàn miền Bắc, Người nói: Số phụ nữ

tham gia công tác tại các cơ quan trung ương là 5000 người, ở huyện, xã là hơn 16000
người và ở các tỉnhcó hơn 330 người, đặc biệt trong quốc hội khóa II, có 53 đại biểu là
nữ [42, tr.184].
Sớm nhận thấy tiềm năng của phụ nữ, Hồ



inh khẳng định: Dưới chủ

nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, người phụ nữ dũng cảm có thể hoàn thành mọi
nhiệm vụ của người đàn ông dũng cảm có thể làm, d nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài
năng và nghị lực [43, tr.97].
Theo Hồ hí

inh, chị em phụ nữ không thua k m nam giới trong mọi lĩnh vực

nếu như họ được tạo điều kiện thuận lợi. Người nói: Trong hàng ngũ vẻ vang những
anh h ng quân đội, anh h ng lao động, chiến sĩ thi đua và lao động tiên tiến đều có
phụ nữ [43, tr.256].
Trong các họat động văn hóa - xã hội, chị em phụ nữ cũng đã không ng ng học
tập, nâng cao trình độ. Theo Hồ



inh, chính t những cố gắng trong học tập

nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ mà hàng vạn phụ nữ đã trở thành
chuyên gia các ngành và là cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc và phó giám đốc các xí
nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã nhà nước, chủ tịch ủy ban hành chính, bí thư chi bộ
ảng [44, tr.149], có người gánh vác những trách nhiệm nặng như làm th m phán,

chánh án [42, tr.184].
hị em phụ nữ còn vận động c ng nhau tham gia công tác xã hội như xây dựng
nhà trẻ, trường mẫu giáo, xây dựng công viên, tham gia tết trồng cây

Hồ hí

inh

vui m ng vì ngày càng nhiều phụ nữ tham gia quản l nhà nước. Người rất tự hào khi:
hó Tổng tư lệnh Quân giải phóng là cô Nguyễn Thị ịnh. ả thế giới chỉ có nước ta
có vị tướng quân gái như vậy, thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta [44,
tr.149].
Hồ



inh rất vui m ng khi trong Quốc hội, trong hội đồng nhân dân các

cấp, trong các cơ quan

ảng, Nhà nước, trong các đơn vị sản xuất, trường học, bệnh

21


×