Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG của mác và ENGHEN về mối QUAN hệ GIỮA NHỮNG NGƯỜI vô sản và NHỮNG NGƯỜI CỘNG sản TRONG tác PHẨM TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.81 KB, 19 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN VÀ NHỮNG NGƯỜI
CỘNG SẢN TRONG “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN”
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo,
được xuất bản và công bố trước toàn thế giới ngày 24 tháng 2 năm 1848 tại
Luân Đôn. Thực tiễn lịch sử chứng minh “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ra
đời đã thực sự trở thành cương lĩnh chính trị và kim chỉ nam cho hành động
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp vô
sản và nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải
phóng loài người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Việc hoàn thành và công bố tác
phẩm không phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà được xuất phát từ những điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội đã chín muồi, kết tinh của tinh hoa trí tuệ nhân
loại và công sức lao động sáng tạo, bền bỉ của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Về tình hình kinh tế, xã hội Châu Âu những năm giữa thế kỷ XIX:
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất cơ bản hoàn thành đã thúc đẩy
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng ngày càng bộc lộ rõ tính hạn chế
của nó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và đánh giá chính xác, toàn diện
về chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu, luận giải quá trình phát sinh, phát triển mâu
thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản, đồng thời chỉ ra mâu thuẫn giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản đã trở nên gay gắt. Cùng với sự phát triển của
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước
lên vũ đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Những cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản trong những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ XIX đã cho


2

thấy vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp vô sản, tiêu biểu là cuộc đấu tranh


của công nhân dệt ở thành phố Ly-ông (Pháp) năm 1837; cuộc nổi dậy của
công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương ở Anh
kéo dài 10 năm (1838-1848),…Tuy các cuộc đấu tranh đó đều thất bại, nhưng
ý thức chính trị của giai cấp vô sản đã được xác định, đó là ý thức đấu tranh
giành chính quyền, ý thức xoá bỏ chế độ tư hữu.
Các trào lưu tư tưởng trong thời kỳ này cũng hình thành đa dạng,
phong phú và phức tạp. Song trào lưu tư tưởng có ảnh hưởng nhiều nhất tới
phong trào vô sản là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Xi Mông, XácLơ-Puriê, Rô Be Ôoen. Điểm tiến bộ trong tư tưởng của các ông là mong
muốn xây dựng một chế độ công bằng, bác ái, mọi người đều có quyền bình
đẳng. Tuy nhiên, những trào lưu chủ nghĩa xã hội không tưởng lại có những
hạn chế rất cơ bản là không giải thích được bản chất thối nát của chế độ
đương thời (chế độ tư bản chủ nghĩa); chưa vạch ra được quy luật vận động
phát triển của xã hội; chưa nhận thấy được vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản, cho rằng con đường đi tới chế độ công bằng, bình đẳng, bác ái
không phải là cách mạng xã hội mà là con đường giáo dục, nêu gương; chủ
trương cải tạo xã hội bằng pháp luật, bằng thực nghiệm…Những hạn chế này
không những không đáp ứng được yêu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
mà còn kìm hãm, tạo sự không thống nhất về tư tưởng trong phong trào công
nhân. Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi bức
thiết phải có một hệ thống lý luận khoa học dẫn đường và đẩy lùi ảnh hưởng
của các trào lưu tư tưởng khác.
Vào thời kỳ này, ở Châu Âu xuất hiện nhiều tổ chức của giai cấp vô
sản, song chưa có tổ chức nào thể hiện rõ tính chất của một tổ chức chính trị.
Một trong những tổ chức được C.Mác quan tâm nhiều hơn là “Liên đoàn
những người chính nghĩa” (thành lập 1836) do Jiô Dép Môn lãnh đạo. Đây là


3

một tổ chức mang tính quốc tế, bao gồm những phần tử tiên tiến của giai cấp

vô sản ở nhiều quốc gia bị nhà nước tư sản trục xuất ra nước ngoài, sống lưu
vong ở nước Pháp. “Liên đoàn những người chính nghĩa” chịu nhiều ảnh
hưởng của tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tổ chức này mời C.Mác
và Ph.Ăngghen tham gia nhưng hai ông đều từ chối, mặc dù không tham gia
nhưng hai ông vẫn thường xuyên trao đổi thư từ để từng bước giác ngộ tư
tưởng chính trị của ban lãnh đạo Liên đoàn.
Mùa xuân năm 1847 ban lãnh đạo “Liên đoàn những người chính
nghĩa” chấp thuận điều kiện cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen được trình bày
những quan điểm của mình trước đại hội của Liên đoàn. Từ đây C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chính thức tham gia “Liên đoàn những người chính nghĩa” và
có những việc làm tích cực, hiệu quả để cải tổ, biến tổ chức này thành một
chính Đảng vô sản triệt để.
Tại Đại hội toàn thể của Liên đoàn vào mùa hè năm 1847, C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày rõ những quan điểm chính trị của mình, Đại hội thảo
luận và thừa nhận những quan điểm đó. Đại hội đổi tên “Liên đoàn những
người chính nghĩa” thành “Liên đoàn những người cộng sản”, đổi khẩu hiệu,
chương trình hành động “Tất cả mọi người đều là anh em” thành khẩu hiệu
“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Đại hội thống nhất coi đây là Đại hội
lần thứ nhất của “Liên đoàn những người cộng sản” và tuyên bố mục đích
“Lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới - xã hội không có giai
cấp”. Đại hội giao cho C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo Cương lĩnh và Điều
lệ của Liên đoàn.
Từ ngày 9/11 đến ngày 8/12/1847, Đại hội lần thứ hai “Liên đoàn
những người cộng sản” đã thảo luận và thông qua cương lĩnh, điều lệ của
Liên đoàn do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi thảo. Đồng thời, trên cơ sở sự nhất
trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được đại hội uỷ nhiệm cho nhiệm vụ soạn thảo


4


ra bản tuyên ngôn chính thức nhằm công khai trình bày trước toàn thế giới về
chiến lược, sách lược của Đảng cộng sản và đập tan những luận điệu tuyên
truyền phản động về “bóng ma cộng sản” mà các thế lực chính trị thù địch
đang loan truyền ở Châu Âu lúc bấy giờ.
Trong một thời gian ngắn, từ tháng 12/1847 đến tháng 1/1848 C.Mác
và Ph.Ăngghen đã tập trung sức lực, trí tuệ hoàn thành “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản” và gửi bản thảo sang Luân Đôn. Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản được xuất bản và công bố lần đầu tiên ở Luân Đôn vào cuối tháng 2/1848,
tháng 4 và tháng 5 năm đó “Tuyên ngôn” được in lại một lần nữa, sau đó
được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở nhiều nước khác nhau.
Việc tuyên bố “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đánh dấu sự ra đời của
một học thuyết cách mạng - Học thuyết Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử loài
người những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người
được khám phá và hệ thống hoá; toàn bộ thành tựu trí tuệ của loài người được
tổng kết và khái quát. Sự ra đời “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã đáp ứng
những đòi hỏi cấp thiết về tư tưởng, lý luận và thực tiễn của phong trào vô sản.
Bằng những nội dung trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản”, Chủ nghĩa Mác được hình thành cơ bản với tất cả các bộ phận cấu
thành của nó gồm: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa
học. Đặc biệt trong tác phẩm C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải sứ mệnh
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, khẳng định giai cấp vô sản chỉ có thể
giải phóng mình khi đồng thời phải giải phóng toàn xã hội và chỉ rõ: giai
cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không thành lập được
chính đảng của giai cấp. Đảng cộng sản ra đời xuất phát từ vấn đề giai cấp
và đấu tranh giai cấp, từ yêu cầu thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản. Đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, là


5


người lãnh đạo và tổ chức phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đến
thắng lợi.
Nội dung “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được trình bày cô đọng
trong phần mở đầu và 4 chương. Các lần tái bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đều
viết những lời tựa và bổ sung thêm một số vấn đề mà trước đó bản “Tuyên
ngôn” chưa đề cập tới. Phần mở đầu C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra cho chúng
ta thấy tính cách mạng và niềm tin tất thắng của những người cộng sản trong
sự nghiệp đấu tranh của mình. Ở chương 1- Tư sản và vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phân tích sâu sắc quá trình phát sinh, hình thành và phát triển
của chủ nghĩa tư bản, từ đó các ông chỉ ra: chính sự vận động nội tại, khách
quan của xã hội tư bản sẽ dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của giai cấp tư sản và sự
thắng lợi tất yếu của giai cấp vô sản; giai cấp vô sản là người có sứ mệnh lịch
sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chương
2- Những người vô sản và những người cộng sản, trong chương này C.Mác và
Ph.Ăng ghen giải thích mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản,
vạch rõ tính chất, nhiệm vụ trước mắt, mục đích cuối cùng và những biện
pháp cách mạng để thực hiện nhiệm vụ, mục đích ấy, đồng thời các ông cũng
vạch trần những luận điệu xuyên tạc của giai cấp tư sản đối với những người
cộng sản. Chương 3- Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa,
chương này các ông đã phân tích và phê phán các trào lưu tư tưởng phi mácxít
đang ảnh hưởng tiêu cực vào phong trào vô sản lúc bấy giờ. Chương 4- Thái
độ của những người cộng sản với những đảng đối lập, chương này các ông
trình bày lập trường chiến lược và sách lược của Đảng cộng sản, đó là lập
trường, tinh thần cách mạng không ngừng, triệt để, sách lược liên minh với
các đảng dân chủ trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện tiến bộ xã hội.
Là một trong các tác phẩm kinh điển quan trọng của chủ nghĩa Mác, là
cương lĩnh chính trị của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mỗi luận


6


điểm, mỗi tư tưởng được trình bày trong bản “Tuyên ngôn” đều thể hiện tính
định hướng tư tưởng sâu sắc. Điều đó đặt ra cho các Đảng cộng sản, các nhà lý
luận mác xít và mọi cán bộ, đảng viên cộng sản phải có sự đầu tư, nghiên cứu
công phu, khoa học để nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn.
Sau khi nghiên cứu tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, trong phạm vi
của một bài viết thu hoạch, tác giả tập trung làm rõ tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa “Những người vô sản và những người cộng
sản”, thực chất là làm rõ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản và
sự vận dụng tư tưởng đó vào công tác xây dựng Đảng ở nước ta hiện nay.
Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", bằng phương pháp tư duy
biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học về sự
diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, về tính tất yếu của sự
quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn đó là
chủ nghĩa cộng sản; rằng bước quá độ đó diễn ra không phải tự phát mà phải
bằng con đường cách mạng lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và xoá bỏ
các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã phát
hiện ra lực lượng xã hội có khả năng thực hiện bước quá độ đó là giai cấp
công nhân - giai cấp vô sản hiện đại, là người có sứ mệnh lịch sử đào huyệt
chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn - chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử đó là khách quan do địa vị kinh
tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản là giai cấp tiêu biểu cho
lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp được rèn luyện trong nền sản xuất
đại công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, cho nên
giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất,
có khả năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật
cao nhất, là giai cấp duy nhất đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. C.Mác và



7

Ph.Ăngghen còn chỉ rõ : “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp
tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp,
còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. 1
Tuy nhiên, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó thì điều kiện tiên quyết
là giai cấp vô sản phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì chỉ khi nào
giai cấp vô sản tổ chức được chính đảng chính trị độc lập của mình, thì khi đó
1. Xem C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị QG, Hà Nội, 1995, t.4, tr.610.

cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu
tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo. Như lời tựa cho lần xuất bản "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản" năm 1888, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chính do
bản thân các sự biến và những sự thành bại nhiều hơn là do những thành
công, mà vô sản không cảm thấy rằng tất cả các môn thuốc vạn ứng của họ
đều vô dụng, họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy tường tận những điều
kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp vô sản, điều kiện thực sự đó là
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản”.
C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ: trong cuộc đấu tranh của mình, giai
cấp vô sản chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả
các chính đảng cũ do các giai cấp của nó lập nên, thì mới có thể hành động với
tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức giai cấp vô sản thành một chính đảng là
cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và đạt được mục đích cuối
cùng của nó là thủ tiêu giai cấp. Như vậy chính đảng của giai cấp vô sản mà
C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập tới phải là một Đảng cách mạng, một Đảng độc
lập mang bản chất giai cấp vô sản rõ rệt, độc lập cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, không bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản, không bị giai cấp tư sản lợi dụng,
Đảng gắn bó chặt chẽ với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Mặt khác, độc
lập nhưng Đảng không phải là hội kín, tách khỏi quần chúng nhân dân lao động



8

nói chung và giai cấp vô sản nói riêng; Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng,
không đối lập với các Đảng và các tổ chức khác của giai cấp vô sản. Đảng phải
tích cực hoạt động để đưa tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học vào các tổ chức
đó và hướng hoạt động của các tổ chức đó theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
giành ra hẳn chương 2 để làm rõ mối quan hệ giữa những người vô sản và
những người cộng sản. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì cần phải làm rõ mối
quan hệ này mới xây dựng và phát huy tốt vai trò của Đảng, bảo đảm cho
Đảng gắn bó với giai cấp, với quần chúng lao động, làm tròn sứ mệnh là đội
tiên phong dìu dắt, đưa đường chỉ lối cho giai cấp tiến lên. Lẫn lộn Đảng và
giai cấp sẽ dẫn đến các quan điểm và hành động sai trái. Nếu Đảng là hội kín
tách khỏi giai cấp, đứng ngoài giai cấp thì sẽ làm cho Đảng không liên hệ mật
thiết với quần chúng, với những người vô sản, như vậy sẽ không dìu dắt được
giai cấp đấu tranh có hiệu quả. Nếu lẫn lộn Đảng và giai cấp sẽ hạ thấp vai trò
của Đảng như các tổ chức khác của giai cấp vô sản, thực chất là thủ tiêu
Đảng. Trong thực tiễn lúc đó, C.Mác, Ăngghen đã chứng kiến phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế xuất hiện nhiều tổ chức tự xưng là Đảng vô
sản đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản nhưng trên thực tế nó không
phải là một Đảng độc lập, một Đảng thực sự cách mạng của giai cấp vô sản,
đủ sức đóng vai trò lãnh tụ của giai cấp vô sản như: Đảng hiến chương ở Anh
ra đời năm 1832, nó là hình thức của Đảng vô sản nhưng thực chất chỉ là cái
đuôi của giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản. “Liên đoàn những người
chính nghĩa” ra đời ở Pháp năm 1836, hoạt động theo tư tưởng chủ nghĩa
cộng sản không tưởng; phương hướng mục tiêu của tổ chức này là hoạt động
tuyên truyền chủ nghĩa xã hội không tưởng; phương thức hoạt động của họ là
bí mật, là một hội kín để tiến hành bạo động với phương châm “đánh một

điểm thắng toàn bộ”. Mặt dù Liên đoàn là một tổ chức mang tính quốc tế,


9

hành động theo khẩu hiệu “Tất cả mọi người đều là anh em”; được tổ chức ở
nhiều nước, phát triển trở thành một tổ chức chính trị mang tính chất chính
đảng của giai cấp vô sản, tuy nhiên đó không phải là một Đảng thực sự cách
mạng, một Đảng độc lập của giai cấp vô sản. Do vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã không tham gia “Liên đoàn những người chính nghĩa” khi tổ chức này
chưa đồng ý cải tổ chức theo tư tưởng của các ông. Như Ph.Ăngghen đã viết:
“Để cho giai cấp vô sản đủ sức mạnh để chiến thắng trong giờ phút quyết
định cần phải - và điều này Mác và tôi chủ trương từ năm 1847 thành lập một
Đảng riêng biệt khác hẳn các Đảng khác và đối lập hẳn với các Đảng này, một
Đảng giai cấp tự giác” 1.
1. Xem C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Sđd, 1995, t.6, tr.704.

Trong lời tựa cho một lần xuất bản của Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen
còn nêu rõ lý do tại sao gọi là “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” mà không gọi
là “Tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa” cũng là để phân biệt rõ tính chất giai cấp
của phong trào cộng sản với các trào lưu xã hội chủ nghĩa hiện thời, qua đó
nói lên sự khác nhau giữa Đảng cộng sản với các tổ chức khác của giai cấp vô
sản. Khi những người lãnh đạo của “Liên đoàn những người chính nghĩa”
đồng ý để C.Mác và Ph.Ăngghen cải tổ triệt để tổ chức này thì các ông đã có
nhiều chủ trương và việc làm tích cực như: Đổi tên của “Liên đoàn những
người chính nghĩa” thành “Liên đoàn những người cộng sản” và tuyên truyền,
xây dựng làm cho tổ chức này trở thành một chính Đảng cách mạng của giai
cấp vô sản. Như vậy C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân biệt rõ ràng mối quan hệ
giữa Đảng và giai cấp, giữa những người cộng sản và giai cấp vô sản.
Mối quan hệ giữa những người cộng sản với những người vô sản đã

được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập trong Tuyên ngôn rằng: “Những người
cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng vô sản khác.
Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai


10

cấp vô sản. Họ không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong
trào vô sản theo những nguyên tắc ấy” 1 và “Mục đích trước mắt của những
người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác:
tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp
tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Những quan điểm lý luận của
những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những
nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra.
Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những quan hệ thực tại của
một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra
trước mắt chúng ta” 2. Nhưng “Những người cộng sản chỉ khác với các
đảng vô sản khác trên hai
1. Xem C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Sđd, 1995, t.4, tr 614.
2. Xem: Sđd, 1995, t.4, tr.615.

điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân
tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc
vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn
khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho
lợi ích của toàn thể phong trào. Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng
sản là một bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng vô sản ở tất cả các nước, là
bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn
lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết
quả chung của phong trào vô sản” 1.

Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, Đảng cộng sản là một bộ phận
không tách rời của giai cấp vô sản. Đảng thể hiện tính vô sản rõ rệt, Đảng
mang bản chất giai cấp vô sản, Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của
giai cấp vô sản để giải quyết mọi vấn đề trong xây dựng và hoạt động của
Đảng. Cương lĩnh chiến lược, sách lược của Đảng phải luôn xuất phát từ lợi


11

ích của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và phù hợp với thực tiễn mỗi
nước. Mục đích và lợi ích của Đảng cộng sản và giai cấp vô sản là thống nhất,
Đảng cộng sản luôn đại biểu trung thành và phấn đấu cho quyền lợi của toàn
thể giai cấp vô sản. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản cũng là sứ mệnh lịch
sử của Đảng cộng sản. Kẻ thù của giai cấp vô sản là giai cấp tư sản cũng là kẻ
thù của Đảng cộng sản. Đảng cộng sản không phải là hội kín tách khỏi phong
trào vô sản mà Đảng phải liên hệ chặt chẽ với toàn thể giai cấp, tích cực tham
gia các tổ chức của giai cấp vô sản và hướng dẫn các tổ chức này đi theo quỹ
đạo của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tóm lại, theo C.Mác và Ăngghen: mục đích và lợi ích của Đảng cộng
sản và giai cấp vô sản là thống nhất. Đảng cộng sản luôn đại biểu cho quyền
lợi của toàn thể giai cấp vô sản. Đó là vấn đề cơ bản nói lên tính chất giai cấp
vô sản của Đảng cộng sản. Nhưng theo C.Mác và Ph.Ăng ghen thì điều đó
1. Xem Sđd, 1995, t.4, tr.615.

không có nghĩa là đồng nhất Đảng cộng sản và giai cấp vô sản. Đảng cộng sản
khác với toàn bộ giai cấp vô sản và hơn các bộ phận khác của giai cấp vô sản ở
tính tiên phong. Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết
nhất của giai cấp vô sản, về lý luận: những người cộng sản hơn bộ phận khác
còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết
quả chung của phong trào vô sản. Một chính đảng như thế, đương nhiên phải là

đội tiên phong, lãnh tụ chính trị và là bộ tham mưu chiến đấu, là hình thức tổ
chức cao nhất của giai cấp vô sản; Đảng phải bao gồm những phần tử ưu tú, tiên
tiến nhất, có giác ngộ cộng sản chủ nghĩa, có nghị lực cách mạng, tự nguyện
phấn đấu hy sinh để thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, phục tùng nghị
quyết của đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đảng giao. Tư
tưởng đó thể hiện nhất quán một nguyên tắc là không được hạ thấp Đảng xuống
ngang giai cấp, không được xóa nhòa ranh giới giữa đảng viên và quần chúng


12

tích cực ngoài Đảng. Đã là đảng viên của Đảng bao giờ cũng phải là người tiên
phong, giác ngộ, tích cực, gương mẫu hơn quần chúng cả về lý luận và thực tiễn.
Trong Điều lệ của “Liên đoàn những người cộng sản” cũng đã xác
định mục đích của Liên đoàn là: lật đổ giai cấp tư sản, lập nền thống trị của
giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội cũ, tư sản, dựa trên sự đối kháng giai cấp, và
xây dựng một xã hội mới không có giai cấp và không có chế độ tư hữu; điều
kiện để được làm hội viên của “Liên đoàn những người cộng sản” phải là
những người có lối sống và hoạt động phù hợp với mục đích của Liên đoàn;
có nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành trong công tác tuyên truyền; thừa
nhận chủ nghĩa cộng sản; không tham gia vào mọi tổ chức - tổ chức chính trị
hoặc tổ chức dân tộc - chống cộng sản, và có nghĩa vụ báo cáo với cơ quan
lãnh đạo hữu quan về việc mình tham gia vào một tổ chức nào đó; phục tùng
các nghị quyết của Liên đoàn; giữ bí mật mọi công việc của Liên đoàn; được
một chi bộ nhất trí kết nạp. Tất cả mọi hội viên của Liên đoàn đều bình đẳng,
họ là anh em và trong mọi trường hợp, đều có nghĩa vụ giúp nhau như anh
em.
Về mặt lý luận: những người cộng sản phải là những người giác ngộ
cộng sản chủ nghĩa, được trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa
học để từ đó hiểu rõ điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào

vô sản. Đảng cộng sản là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, người vạch
ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược cho giai cấp, do vậy Đảng cộng sản phải
được trang bị lý luận tiên phong và phải thực sự tiên phong về mặt lý luận.
Đảng cộng sản phải lấy những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học làm
nền tảng tư tưởng, có như vậy mới xác định đúng đắn các vấn đề trong lãnh
đạo và xây dựng Đảng. Chỉ khi được lý luận tiên phong dẫn đường và tích
cực đấu tranh bảo vệ tư tưởng khoa học thì Đảng cộng sản mới làm tròn sứ
mệnh của mình. C.Mác và Ph.Ăngghen không những là người đầu tiên nêu


13

lên những tư tưởng về chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản mà còn là
những người đầu tiên tham gia gây dựng chính đảng cách mạng của giai cấp
vô sản. Đồng thời các ông đã tích cực tuyên truyền tư tưởng của chủ nghĩa
cộng sản khoa học vào phong trào vô sản, coi đó là một trong những yếu tố có
ý nghĩa quyết định để làm cho Đảng cộng sản thực sự là một chính đảng cách
mạng.
Mặt khác, C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng: Giai cấp vô sản chỉ có
thể chiến thắng giai cấp tư sản khi nó là cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức
chặt chẽ, có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn. Nhận thức sâu sắc vấn
đề này và từ thực tiễn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế lúc đó
xuất hiện những khuynh hướng lệch lạc về tư tưởng do chịu ảnh hưởng của
chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa cơ hội, triết học duy tâm,…nên các
ông đòi hỏi Đảng cộng sản phải thực sự tiên phong về lý luận, phải hiểu rõ
quy luật vận động, con đường đi lên của phong trào chứ không phải là hành
động thụ động, phiêu lưu; Đảng phải lấy chủ nghĩa xã hội khoa học làm nền
tảng tư tưởng và phải tích cực đấu tranh bảo vệ những nền tảng ấy. Để tiến tới
thành lập chính Đảng cách mạng của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa xã hội khoa học bằng cách viết bài đăng

trên các báo, thành lập Ủy ban thông tin cộng sản ở Bỉ, Anh, Pháp, Đức để
thống nhất về tư tưởng, tổ chức của những người xã hội chủ nghĩa và vô sản
tiên tiến của tất cả các nước. Đặc biệt, năm 1846 khi được mời tham gia “Liên
đoàn những người chính nghĩa” C.Mác và Ph.Ăngghen đã đấu tranh đưa chủ
nghĩa xã hội khoa học vào tổ chức này thay cho chủ nghĩa cộng sản không
tưởng, làm cho “Liên đoàn những người cộng sản” lần đầu tiên trở thành một
chính đảng cách mạng, khoa học.
Từ nghiên cứu mối quan hệ giữa những người vô sản và những người
cộng sản được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập trong “Tuyên ngôn của Đảng


14

cộng sản”, đặc biệt là vấn đề tính tiên phong của Đảng cho chúng ta thấy rõ
vai trò tiên phong của Đảng cả về lý luận và thực tiễn là vấn đề cực kỳ quan
trọng, nó là cơ sở, tiền đề bảo đảm cho Đảng tập hợp được đông đảo giai cấp
vô sản, dìu dắt, tổ chức cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đi đến thắng lợi
cuối cùng. Như Tuyên ngôn đã chỉ ra: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện bảo
đảm cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới mà nhiệm vụ
trước mắt của Đảng là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền. Sau đó dùng sự thống trị
chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư
sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước. Với tư
cách là giai cấp thống trị, giai cấp vô sản dùng bạo lực tiêu diện những quan
hệ sản xuất cũ, đồng thời nó tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của sự
đối kháng giai cấp, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp văn minh, trong đó sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người. Vì vậy, để hoàn thành sứ mệnh nặng nề và vẻ vang đó, giai cấp vô
sản nhất thiết phải lập ra chính đảng của mình với tư cách là lãnh tụ chính trị,
bộ tham mưu chiến đấu, thực sự tiên phong cả về lý luận và thực tiễn, cả về tư

tưởng và tổ chức để lãnh đạo phong trào.
Trải qua biết bao thử thách, biến động trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, của cách mạng thế giới, song những quan điểm, tư tưởng
được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
sẽ mãi giữ nguyên giá trị. Đó vừa là một tác phẩm kinh điểm chủ yếu của chủ
nghĩa xã hội khoa học, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, nó còn là cương lĩnh
chính trị của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; những tư tưởng trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là những chỉ dẫn hết sức quan trọng, có ý
nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng và hoạt động của các Đảng cộng sản.


15

Từ cơ sở những quan điểm, tư tưởng được trình bày trong Tuyên ngôn, Lênin,
Hồ Chí Minh và những lãnh tụ cộng sản trên thế giới đã trung thành, bảo vệ,
phát triển trở thành học thuyết cách mạng, khoa học của giai cấp vô sản, thành
ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới đi tới thắng
lợi. Sự phát triển mạnh mẽ và những thắng lợi to lớn mà phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đạt được trong gần 160 năm qua đã khẳng định tính cách
mạng, khoa học và giá trị to lớn của Tuyên ngôn, đặc biệt là những tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa những người vô sản và những người
cộng sản, giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản, về tính tiên phong của Đảng.
Do vậy đòi hỏi các Đảng cộng sản phải tuyệt đối trung thành, đấu tranh bảo vệ
và vận dụng sáng tạo, bổ sung phát triển nó, bất kỳ sự coi nhẹ dù ở góc độ nào
về vấn đề này đều phải trả những giá đắt. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế vừa qua có những nguyên nhân không nhỏ là ở đó đã xuất hiện, tồn tại
các quan điểm sai trái, xa rời hoặc đi ngược lại những tư tưởng của Mác,
Ăngghen; chưa quan tâm đầy đủ tới công tác xây dựng Đảng, để những phần tử

cơ hội chính trị chui sâu, leo cao trong Đảng; giải quyết không đúng đắn mối
quan hệ giữa Đảng và giai cấp, không phát huy vai trò tiên phong của Đảng như
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, quán triệt sâu sắc chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung và những quan điểm, tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã coi trọng đặc biệt việc xây dựng Đảng để lãnh đạo phong trào cách mạng
Việt Nam, Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong phong
trào, trước hết vào phong trào công nhân Việt Nam. Cũng như ở mọi nơi trên
trái đất, Đảng cộng sản Việt Nam là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân Việt Nam; nhưng ở Việt Nam, Đảng cộng sản không


16

chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân mà còn là
sự kết hợp chủ nghĩa đó với phong trào yêu nước Việt Nam. Từ ngày thành
lập đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn khẳng định Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là
xây dựng nước Việt Nam độc lập, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng
sản, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới và của phong
trào cộng sản, công nhân quốc tế. Đảng luôn khẳng định việc nâng cao bản
chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng là tư tưởng xuyên suốt
trong công tác xây dựng Đảng; thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả về lý luận và thực tiễn, cả về
cương lĩnh, đường lối, tổ chức của Đảng và tính tiên phong, gương mẫu của
đội ngũ đảng viên. Đồng thời Đảng luôn coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng với Nhà nước, với mặt trận tổ quốc, với các tổ chức chính trị xã

hội, đoàn thể quần chúng trong nước và với các Đảng cộng sản, công nhân
quốc tế.
Ngày nay, nhân dân ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của
toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là vai trò tiên phong của Đảng. Trong khi xác
định xây dựng kinh tế là trọng tâm, Đảng ta coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt. Kiên trì giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây
dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt là một thái độ khoa học, là trung thành với
những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về giải quyết mối quan hệ giữa
Đảng và giai cấp thể hiện trong Tuyên ngôn, đó cũng là nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.


17

Những thành tựu đổi mới và cả những yếu kém trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc vừa qua đều gắn liền với vai trò, trách nhiệm lãnh đạo
của Đảng, như Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng
định “Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm,
khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng” 1. Lợi dụng tình hình phức tạp
hiện nay trên thế giới, những khó khăn thử thách của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta, các thế lực thù địch đang ra sức xuyên tạc với âm mưu hạ thấp đi tới
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng ra sức thổi
phồng, nói xấu Đảng nhằm làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chúng
phủ nhận mọi thành tựu cách mạng do Đảng ta tổ chức lãnh đạo; chúng xuyên
tạc, vu khống nhằm hạ uy tín của Đảng, thậm chí chúng còn cho rằng Đảng là
lực cản đối với sự phát triển mọi mặt của đất nước, từ đó đòi hỏi Đảng ta phải
thay đổi bản chất, thay đổi cả cơ sở chính trị tư tưởng đến nguyên tắc tổ chức,

phương thức lãnh đạo nhằm đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
toàn xã hội, xóa nhoà ranh giới Đảng và giai cấp. Chúng ta thừa nhận những
yếu kém trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay có nguyên nhân của công tác
xây dựng Đảng chưa được quan tâm đúng mức, một bộ phận cán bộ đảng viên
chưa thật sự tiên phong, gương mẫu về mọi mặt cho quần chúng nhân dân học
tập, noi theo; một số đảng viên thoái hóa biến chất, suy thoái về đạo đức, lối
sống làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng. Nhưng chúng ta cũng phải khẳng
1. Văn kiện ĐHĐTQ lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.137.

định dứt khoát là: nếu không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì
đất nước ta không thể có độc lập tự do, nhân dân không thể có quyền làm chủ
thực sự, không có nhà nước của dân, do dân, vì dân, không thể thực hiện được
công bằng xã hội. Vì vậy phải luôn tuyệt đối kiên định với sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và yêu cầu của nhiệm vụ xây


18

dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đang đòi hỏi phải giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo và phát
huy tính tiền phong của Đảng. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
chẳng những là vấn đề cơ bản mà còn là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay.
Đảng ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng và
chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII và Nghị quyết TW4
khoá IX đó chính là những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nội dung tiến hành cuộc vận động xây dựng và
chỉnh đốn Đảng phải toàn diện cả chính trị, tư tưởng, cả con người và tổ chức,
cả phẩm chất, năng lực và phương pháp lãnh đạo, tác phong công tác, trong đó
cần tập trung vào những nội dung then chốt là: Nâng cao trình độ trí tuệ, năng
lực lãnh đạo chính trị, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo

đức, lối sống và kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên; đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới hệ thống chính trị, trước hết là
đối với Nhà nước; đổi mới công tác quần chúng của Đảng, đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội. Bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ
luật, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ, làm trong sạch đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên,
tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới.
Để góp phần xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ
mới, đòi hỏi mọi tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên phải tuyệt đối trung thành
và vận dụng sáng tạo các quan điểm, tư tưởng được nêu trong "Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản", đặc biệt cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo, linh
hoạt tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp, về ranh giới giữa người
cộng sản với quần chúng để xây dựng các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên
thật sự trong sạch vững mạnh; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện cơ


19

hội chủ nghĩa, lợi dụng danh hiệu đảng viên và chức vụ, quyền hạn được đảng
phân công để tham ô, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, thu vén cá nhân, làm
giàu bất chính. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải chú trọng thực
hiện tốt các quan điểm Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra: Phát triển
đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, coi trọng chất lượng, không chạy
theo số lượng. Chú ý những người ưu tú trong công nhân, trí thức, lao động
thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh;
những nơi còn ít hoặc chưa có đảng viên; phải “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng
lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân” 1.

Với cương vị là người học viên, một cán bộ đảng viên đang học tập,
nghiên cứu các quan điểm lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây
dựng đảng, bản thân càng thấy rõ trách nhiệm của mình phải nêu cao hơn nữa
tính tiền phong gương mẫu, tích cực học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo
các tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, vào thực tiễn hoạt động xây
dựng Đảng trong lực lượng vũ trang. Kiên quyết bảo vệ những nguyên lý,
nguyên tắc về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nghị quyết, quy
định, điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam, góp phần tiếp tục thực hiện thắng lợi
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các chủ trương, nhiệm vụ về công
tác xây dựng Đảng được nêu trong văn kiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần
thứ X tới đây của Đảng cộng sản Việt Nam.
*****************
1. Văn kiện ĐHĐTQ lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.141.



×