Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH xây DỰNG nền KINH tế độc lập tự CHỦ TRƯỚC tác ĐỘNG của XU THẾ hội NHẬP và TOÀN cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.14 KB, 21 trang )

1

XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM
TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA XU THẾ TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Hiện nay không chỉ riêng Việt Nam, mà đời sống xã hội các quốc gia,
dân tộc trên thế giới đang trải qua những biến động dữ dội mang tính toàn
cầu, đó là những biến động trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, quân
sự đến văn hoá, khoa học; từ đời sống của mỗi con người đến đời sống của cả
cộng đồng nhân loại. Tất cả những biến động ấy đã, đang và sẽ dẫn các quốc
gia, dân tộc tới sự liên kết khu vực và quốc tế bằng quá trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong thế giới hiện đại, không
chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng sang tất cả các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề về toàn cầu hóa và tác động đối với Việt Nam.
Thuật ngữ “Toàn cầu hóa” xuất hiện vào những năm 50 và chính thức
được sử dụng rộng rãi vào những năm 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên nguồn
gốc của toàn cầu hóa có từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời vào thế kỷ XVI và
được gọi là quá trình “quốc tế hóa”. Quá trình quốc tế hóa được phát triển
mạnh nhờ những phát hiện về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc
địa và sự phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất trên cơ sở áp dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế, sự giao lưu
quốc tế ngày càng mở rộng. Chính những sự phát triển đó đã phá vỡ tính chất


2

cát cứ, biệt lập, khép kín trong phạm vi quốc gia đưa đến sự mở rộng phạm vi
hoạt động kinh tế quốc tế.


Quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay đổi chỉnh
thể đời sống xã hội. Lịch sử thế giới là do sự phát triển của lực lượng sản xuất
hiện đại chi phối, nó không chỉ đánh dấu bởi một cuộc “cách mạng kỹ thuật”,
“cách mạng công nghiệp” mà bao gồm cả cuộc “cách mạng xã hội” làm biến
đổi toàn diện diện mạo của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, không chỉ
sản xuất tiêu dùng có tính chất quốc tế mà cả sự phát triển của khoa học, văn
hóa, tinh thần cũng có tính chất quốc tế. Trong khuôn khổ của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa thì quá trình này về thực chất là quá trình quốc tế hóa tư
bản, mà động lực bên trong thôi thúc nó vẫn là chiếm đoạt lợi nhuận. Mác và
Ăngghen đã chỉ rõ: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu
thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào
khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi”1.
Như vậy toàn cầu hoá là quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất trên
phạm vi quốc tế làm cho các quan hệ kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia
dân tộc, làm cho ý nghĩa biên giới quốc gia ngày càng giảm dần, theo đó tính
đan xen, phụ thuộc, liên kết khu vực và quốc tế ngày càng tăng. Do ảnh
hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển thành một
hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ
thông tin và sự mở rộng các loại thị trường. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết
định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới
các yếu tố quốc tế. Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, sự chuyển dịch hàng hóa,
dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo
ra sự biến đổi về chất so với trước đây.

1

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, T4, Nxb CTQG Hà Nội 1995, tr.601


3


Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là
xu thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều
phải gia tăng thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở
rộng khả năng tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi
toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có
xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát
triển theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.
Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự
có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công
nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo
điều kiện cho việc khuếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp
thế giới. Song do khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác
nhau, lợi ích mà họ thu được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang
nhau. Những nước kém phát triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do
hạn chế về năng lực cung ứng các nguồn lực, họ không được lợi trong thương
mại. Trong khi đó nhiều quốc gia thuộc nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp
dụng chính sách mở cửa, thu hút FDI và đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút
ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển.
Cho dù đã và sẽ còn những nghi ngại đối với toàn cầu hóa, nhưng
không thể phủ nhận và né tránh ảnh hưởng khách quan của nó đối với tất cả
các nước. Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ
ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Xu hướng này liên quan đến hàng loạt
nhân tố, đó là sự ra đời của thị trường toàn cầu; sự ra đời với tốc độ nhanh
chóng của hàng loạt công ty mới giàu tinh thần lập nghiệp và năng lực sáng
tạo kinh tế; sự xuất hiện liên tục của những kỹ thuật mới và thị trường mới; sự
gia tăng thường xuyên sức ép trên thị trường chứng khoán đối với giá cổ



4

phiếu; sự rút ngắn vòng đời của sản phẩm và sự nhất thể hóa kinh tế có hiệu
lực về mặt pháp lý... Ngày nay, bất kỳ chủ thể nào muốn trụ vững và giành
thắng lợi trên thị trường khu vực và thế giới, đều phải tính toán đầy đủ các
nhân tố đó khi thiết kế và thực hiện chính sách cạnh tranh.
Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực và quốc tế, làm
gia tăng sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng
đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau
ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, toàn cầu hóa hoàn toàn không phải là "trò
chơi" hai bên đều thắng, mà nó thường gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những
khu vực, những nước và doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu
hóa; nhưng có những khu vực, những nước và doanh nghiệp bị thua thiệt
hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động của thương mại và đầu tư
quốc tế. Nói cách khác toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, về bản chất là
toàn cầu hoá tư bản, nó đang ảnh hưởng rất sâu sắc cả theo hướng tích cực
và tiêu cực tới mọi mặt đời sống xã hội, thậm chí tới cả hệ thống các giá trị
văn hoá, các quy phạm đạo đức, tình cảm, lối sống và nhân cách con người
trong mỗi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng
lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi với mọi quốc gia là phải nhận
thức đầu đủ cả mặt tích cực và những tác động tiêu cực để có biện pháp
tranh thủ cơ hội, ngăn chặn, đẩy lùi những tác động tiêu cực, nhằm tăng
cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hoá tạo ra mặt tích cực là: nó phá bỏ những cản trở, những
hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển trong quan hệ kinh tế, văn hoá, xã hội quốc tế; đồng thời mở ra khả
năng cho các quốc gia chậm phát triển, nhanh chóng tham gia vào hệ thống
phân công lao động quốc tế; xúc tiến nhanh quá trình chuyển giao công nghệ,
thu hút đầu tư nước ngoài từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế- xã hội năng



5

động, hiệu quả để đẩy nhanh, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Các quốc gia dân tộc khi tham gia quá trình toàn cầu hoá không những
tiếp cận được nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật cũng như công nghệ quản lý
để phát triển kinh tế đất nước mà còn có cơ hội giao lưu, tiếp thu những giá trị
tinh hoa, văn hoá nhân loại, làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần
cho nhân dân, tạo động lực thúc đẩy đất nước phát triển. Hiện nay, trong điều
kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ và thông tin phát triển như vũ bão,
nên toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu như một quy luật để tồn tại và phát triển,
làm cho tốc độ phát triển kinh tế tăng nhanh. Toàn cầu hoá còn tạo ra sự liên
kết chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới nhằm chống lại âm mưu của Mỹ
và các thế lực phản động Phương tây muốn thâu tóm thế giới. Đồng thời nó
cũng là phương thức quan trọng chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi muốn cô lập
dân tộc mình với thế giới bên ngoài nhằm phục vụ lợi ích của một nhóm
người thống trị.
Bên cạnh những mặt tích cực, những thời cơ, vận hội do toàn cầu hoá
đem lại thì toàn cầu hoá còn gây nên những thách thức, những tác động tiêu
cực thậm trí là những nguy cơ đối với nhiều quốc gia, dân tộc, nhất là những
nước chậm và đang phát triển. Đó là sự tái diễn bành trướng xâm lược của
chủ nghiã thực dân mới, không phải bằng quân sự như trước kia, mà bằng sự
thâm nhập về kinh tế, bằng sự xâm lược về văn hoá và gây áp lực về chính
trị... làm các quốc gia này ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào những quốc gia
giầu có, không những về kinh tế mà cả về văn hoá và chính trị. Sự mở rộng
thị trường và tự do thị trường dẫn đến việc khai thác nguồn tài nguyên thiên
nhiên của các nước chậm phát triển và đang phát triển một cách bừa bãi, thiếu
khoa học, gây ra ô nhiễm môi trường và làm cho nguồn tài nguyên nhanh
chóng bị cạn kiệt. Sự phát triển với quy mô lớn của các công ty đa quốc gia,



6

xuyên quốc gia làm cho nhà nước mất đi khả năng điều tiết xã hội dẫn đến
phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển.
Toàn cầu hoá còn gây nên những hậu quả mang tính chất phi kinh tế
như nạn ô nhiễm môi trường, đói nghèo, chủ nghĩa khủng bố, nạn ma tuý, mãi
dâm, hoặc sự lan tràn của các loại dịch bệnh, đăc biệt là HIV/AIDS...đó là
những vấn đề mà không chỉ riêng một nước, một quốc gia nào có thể giải
quyết được. Đồng thời toàn cầu hoá còn tạo nguy cơ xâm nhập của các loại
hình văn hoá ngoại lai trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm băng hoại
đạo đức con người, xâm hại đến nền văn hoá dân tộc, làm méo mó, biến dạng
nền văn hoá truyền thống hình thành một nền văn hoá hỗn tạp, gây ảnh hưởng
lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân.
Tính hai mặt của quá trình toàn cầu hoá đặt ra đối với các quốc gia cần
có thái độ đúng đắn để vừa tránh được những tác động tiêu cực, mặt khác vẫn
tận dụng được mặt tích cực và cơ hội của nó đem lại để phát triển kinh tế, xây
dựng đất nước, tham gia vào dòng chảy chung của sự phát triển nhân loại
cùng giải quyết các vấn đề nhân loại hiện nay đặt ra.
Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam cũng đang chịu sự tác
động ảnh hưởng khá lớn của quá trình toàn cầu hoá. Với những ảnh hưởng
tích cực của toàn cầu hoá, đã làm cho các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá
xã hội của chúng ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Việt Nam chính
thức tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới và khu vực từ năm
1986. Trải qua hơn hai thập kỷ hội nhập chúng ta đã có kết quả bước đầu
quan trọng trên các mặt như thương mại, dầu tư, ngoại giao… phá bỏ thế bao
vây, cấm vận, tạo ra môi trường hợp tác và phát triển với các đối tác trên thế
giới, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt cao. Hội nhập kinh tế, quốc
tế, chúng ta có cơ hội tích lũy được những tiền đề, những điều kiện cho một



7

trình độ phát triển mới. Trước hết, chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học,
kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở
rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế
sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là
những cải cách về phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, về thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất
trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế để tham gia ngày càng nhiều
hơn vào phân công lao động quốc tế và mở rộng quá trình dân chủ hóa xã hội.
Nhưng do ảnh hưởng tác động tiêu cực của quá trình hội nhập và sự
cạnh tranh găy gắt trong lĩnh vực khinh tế, làm cho Việt Nam đang đứng
trước nhiều nguy cơ lớn, trong đó Đảng ta xác định: “Bốn nguy cơ mà Đảng
ta từng chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn
biến hoà bình”do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn
biến phức tạp”1. Từ những thách thức về kinh tế do toàn cầu hoá đặt ra chúng
ta còn phải đối mặt với những thách thức về mặt xã hội: Trước hết là nạn thất
nghiệp và thiếu việc làm... Khi nước tham gia hội nhập, nền kinh tế trở nên
năng động hơn, các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhưng cạnh tranh
cũng quyết liệt hơn. Chính sự cạnh tranh đó, làm cho nhiều cơ sở sản xuất,
nhiều doanh nghiệp bị phá sản, nhiều cơ sở sản xuất phải tinh giảm biên chế.
Tình trạng đó làm tăng thêm đội ngũ những người không có việc làm hoặc có
việc làm nhưng không thường xuyên. Thêm vào đó trong lĩnh vực nông
nghiệp mỗi năm có khoảng một tỷ ngày công dư thừa trong những thời điểm
nông nhàn, là những vấn đề không dễ gì giải quyết.

1


Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2006, tr15.


8

Mặt khác hiện nay tình trạng tham nhũng đang trở thành quốc nạn. Đại
hội toàn quốc lần thứ X của Đảng đánh giá: “Quan liêu, tham nhũng, lãng
phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu
trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức.” 2 Bên cạnh đó
ngoài số người làm giầu chính đáng, còn không ít những kẻ làm giầu bất
chính như buôn lậu, trốn thuế, bất chấp pháp luật và luân thường đạo lý... hay
việc gia tăng các tổ chức tội phạm trong nước và quốc tế hoạt động ở Việt
Nam, đó là những thách thức không nhỏ đối với nước ta trong quá trình hội
nhập.
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày
càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa
kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Ngay trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010 Đảng ta đã khẳng định phải "Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển... Trong quá trình chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả,
không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ". Như
vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia quá trình toàn cầu hóa
kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất cho thấy Việt Nam
vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc tham gia vào quá trình toàn cầu
hóa kinh tế, bao gồm cả những vướng mắc về nhận thức và những vướng mắc
trên thực tế.
Những vướng mắc về nhận thức: Hiện thời, ngay trong giới nghiên cứu
và hoạch định chính sách ở cấp chiến lược, vẫn còn nhiều bàn cãi về vấn đề
nên hội nhập như thế nào. Gắn liền với câu hỏi lớn này là hàng loạt vấn đề cụ

thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa nên như thế nào? Phải
chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh nghiệp hiện tại có thời
2

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H2006, tr175.


9

gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh tranh quốc tế? Nên
hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ vào quá trình phát triển
các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trường hiện đại? Phương thức hội
nhập nên như thế nào: thông qua việc tham gia vào các hiệp định đa phương,
khu vực và song phương, thông qua việc đơn phương tự do hóa, hay thông
qua việc kết hợp các yếu tố này? Để bổ trợ cho tự do hóa thương mại và đầu
tư nhằm tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu các rủi ro thì cần có những biện
pháp nào? Đây là những câu hỏi mà không dễ gì giải đáp và một doanh
nghiệp, một cơ sở sản xuất kinh doanh cũng không thể vượt qua.
Những vướng mắc trên thực tế, thể hiện ở một loạt các chỉ tiêu so sánh
khả năng cạnh tranh về xuất khẩu, đầu tư, khoa học - công nghệ...
Về khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu và du lịch chúng ta còn hạn
chế nhiều về kim ngạch xuất khẩu; bao gồm cả kim ngạch xuất khẩu tính theo
đầu người; tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người, thu nhập từ
du lịch tính theo đầu người và tổng kim ngạch dịch vụ xuất khẩu.
Về khả năng cạnh tranh đầu tư (liên quan đến các chỉ số: hoàn thành
vốn gộp, tổng đầu tư cố định của tư nhân, tăng trưởng tổng đầu tư trong nước,
đầu tư nước ngoài thuần-tính theo tổng số và trên đầu người): Tổng đầu tư nội
địa của Việt Nam, tuy có cao hơn mức trung bình của khu vực ASEAN,
nhưng đầu tư nước ngoài (FDI) còn thấp hơn rất nhiều so với nhiều nước
trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore.

Về khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn ở tình trạng kém phát
triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của khu
vực tư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân hàng cung cấp còn ở
mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở mức cao.


10

Về môi trường vĩ mô (bao gồm các chỉ số: khống chế lạm phát, thâm
hụt ngân sách, tổng thương mại, thuế nhập khẩu, tiền thu từ tư nhân hóa):
Phần lớn các chỉ số về chính sách vĩ mô của Việt Nam được đánh giá ở mức
trung bình, riêng thuế nhập khẩu vẫn ở mức quá cao so với yêu cầu của WTO
(từ 13 đến 15%).
Về quy chế môi trường kinh doanh, theo phân loại của Diễn đàn Kinh
tế thế giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế hành
chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức độ mở
cửa của nền kinh tế. Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa
đổi), nhưng dư luận xã hội cho rằng luật này chưa đáp ứng được các đòi hỏi
bức xúc của thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự chủ, tự hạch toán kinh
doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ
chế bao cấp, "xin cho" và các đặc quyền đặc lợi khác (khoanh nợ, dãn nợ, xóa
nợ, bù lãi suất tiền vay...). Đây chính là những kẽ hở, là nguyên nhân chính
dẫn đến tâm lý phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước là trông chờ, ỷ lại
vào sự trợ giúp của Nhà nước, không muốn vươn lên bằng cạnh tranh lành
mạnh. Những hạn chế này cũng là một căn nguyên làm tăng thêm nạn tham
nhũng và tiêu cực vốn còn đang rất nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp
nhà nước hiện nay.
Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ, theo đánh giá
của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công
nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân

sách nhà nước. Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà
nước tài trợ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu
phải trở thành hàng hóa, được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản
phẩm đó. Môi trường kinh doanh và sự phát triển ít coi trọng chất lượng và
còn mang nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép buộc


11

mọi doanh nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học,
công nghệ.
Về công nghệ thông tin và truyền thông, nếu so với trước đây, tốc độ
tăng trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá nhanh;
nhưng so với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển, Việt
Nam vẫn được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ thông
tin và truyền thông, do chưa sẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử dụng thư
điện tử và chi phí bình quân của các cuộc gọi trong nước và quốc tế còn cao...
Về kết cấu hạ tầng, trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những
nỗ lực lớn để phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chỉ số
về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 391 kWh (trong khi
Canada là 17.000 kWh/năm, Mỹ là 14.000 kWh/năm, Trung Quốc là 926
kWh/năm, Hồng Công là 5.700 kWh/năm, Nhật Bản là 8.200 kWh/năm,
Malaysia là 2.800 kWh, Thái Lan là 1.600 kWh, Singapore 8.100 kWh).
Về nguồn nhân lực (bao gồm chỉ số phát triển con người, tỷ lệ lao động
nữ, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ không được vào trung học trong độ tuổi, mức rò rỉ chất
xám ra nước ngoài): Trong năm 2003, Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung
bình yếu về nhân lực, xếp thứ 3,79/10 - đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu
vực; đáng lo ngại hơn là trình độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ cao
đều còn ở mức cuối bảng.
Những thách thức mà Việt Nam đang gặp trong quá trình hội nhập là

rất lớn nhưng không có nghĩa là chúng ta đóng cửa để từ bỏ con đường hội
nhập với thế giới. Vấn đề đặt ra đối với nước ta là phát triển một cách ổn định
và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách so với những nước đi trước trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ý thức điều đó, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự


12

chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực khác.
Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế và khu
vực”3. Tuy nhiên Đảng ta cũng khẳng định, hội nhập nhưng không hòa tan,
hội nhập phải dựa trên những nguyên tắc nhất định chứ không phải hội nhập
một cách vô nguyên tắc. Vì vậy để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình phát triển cần quán triệt một số vấn đề cơ bản có tính nguyên
tắc sau:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất,
đồng thời là nhân tố cơ bản bảo đảm cho sự kết hợp hài hòa giữa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát
triển. Chúng ta không chấp nhận hội nhập theo quan điểm của chủ nghĩa tự do
mới, nghĩa là hội nhập kinh tế theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần,
nhưng phải hy sinh sự tiến bộ và công bằng xã hội, sự hy sinh này tất sẽ dẫn
đến triệt tiêu động lực của tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững, và như thế,
rốt cuộc đất nước ta sẽ không tránh khỏi lại rơi vào vòng lệ thuộc của một thứ
chủ nghĩa thực dân mới “ kiểu mới”.
Hai là, phát huy tối đa mọi nguồn lực nội sinh, mà trung tâm là nguồn
lực con người với trí tuệ và bản lĩnh văn hóa dân tộc, đồng thời ra sức tranh

thủ các nguồn lực ngoại sinh, tạo thành một hợp lực mạnh để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thế giới cạnh
tranh quyết liệt như hiện nay, không thể có ảo tưởng chỉ dựa một chiều vào
các nguồn lực ngoại sinh để phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế
hiện nay, chỉ có trên cơ sở phát huy cao độ nội lực mới có thể tranh thủ và sử
3

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đai hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.113.


13

dụng tối đa ngoại lực, mới biến ngoại lực ấy thành nội lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Ba là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với hình thức và bước đi phù
hợp. Vừa không chần chừ, do dự để lỡ thời cơ, vừa không chủ quan, nóng vội
để mở cửa và hội nhập tràn lan mà thiếu sự chuẩn bị chu đáo cần thiết. “Muốn
tập bơi thì phải nhảy xuống nước” - đó là phương châm hành động mà Lênin
từng yêu cầu những người cộng sản Nga cần quán triệt trong thực tiễn. Song
để đảm bảo cho hoạt động thực tiễn thành công, Lênin đồng thời cũng nhắc
nhở các đồng chí mình phải luôn ghi nhớ thành ngữ “Bảy lần đo, một lần cắt”
của chính người Nga.
Bốn là, trong quá trình hội nhập phải luôn kiên trì giữ vững phương
châm bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia. Theo
phương châm này, một mặt cần nhạy bén xử lý mọi tình huống, kiên quyết
không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích kinh tế- xã hội mà lẽ ra phải được
hưởng; mặt khác, phải chấp nhận chia sẻ lợi ích hợp lý với các đối tác. Muốn
vậy, phải biết kết hợp nhuần nhuyễn nguyên tắc vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Với quan điểm đó, Việt Nam đã mở cửa, thiết lập các mối quan hệ đa
phương, song phương với tất hầu hết các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới

trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và cùng có
lợi. Tuy nhiên trong điều kiện trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, để
chúng ta thực sự ở thế chủ động trong hội nhập, tiếp tục hội nhập sâu rộng
hơn nữa và tranh thủ được mọi nguồn lực cho sự phát triển đất nước, thì một
vấn đề hết sức quan trọng, vừa mang tính hệ quả của hội nhập và vừa là điều
kiện cho hội nhập là xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ.

2. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.


14

Độc lập tự chủ về kinh tế là vấn đề có tính nguyên tắc trên con đường
phát triển đất nước theo định hướng XHCN của Việt Nam và nó càng cần
được nhấn mạnh khi chúng ta đẩy mạnh mở cửa hội nhập nền kinh tế khu vực
và quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Có độc lập tự chủ về kinh tế thì
mới có độc lập tự chủ thực sự về chính trị và văn hóa.
Quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ đã có nhiều thay đổi cùng với
sự vận động hết sức phức tạp của đời sống kinh tế, chính trị thế giới. Một nền
kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là một nền
kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi mặt
của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá trình tái sản xuất; không
bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể
vận hành một cách bình thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an
ninh quốc gia. Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện
các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí
hậu lý tưởng, quy mô thị trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát triển cao về
khoa học - công nghệ và không cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn
có thể tự tồn tại, phát triển được.
Ngày nay, khi toàn cầu hóa đã phát triển ở mức cao, các thị trường

quốc gia đã và đang tiếp tục mất đi những hàng rào ngăn cách quan trọng để
từ đó tạo điều kiện hình thành thị trường thống nhất trên phạm vi các khu vực
và toàn cầu, thì các luồng lưu chuyển khổng lồ về hàng hóa, dịch vụ, thông
tin, vốn, công nghệ, nhân công và các mạng lưới công ty đa quốc gia rộng
khắp toàn cầu đã gắn kết các quốc gia lại với nhau, làm cho chúng lệ thuộc
vào nhau trong cả quá trình sản xuất lẫn quá trình tiêu thụ sản phẩm. Toàn cầu
hóa càng phát triển thì sự tương tác, tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước càng
tăng. Khủng hoảng kinh tế hay những chấn động kinh tế, tài chính xảy ra ở


15

một nền kinh tế nào đó đều có tác động đến các nền kinh tế mà nó có quan hệ.
Mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít tùy thuộc vào quy mô của nền kinh tế đó và
sức nặng của nó trong quan hệ với các nền kinh tế khác. Thực tế cho thấy,
cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở một số nước Đông - Nam á năm 1997
đã gây ra ảnh hưởng dây chuyền nghiêm trọng đối với tất cả các nước trong
khu vực và cả nhiều nước khác trên thế giới. Suy thoái kinh tế ở Mỹ và một
số nước khác năm 2001, 2009 cũng đã kéo theo suy thoái kinh tế ở rất nhiều
nước trên thế giới và có tác động mạnh đến hầu hết các nước. Như vậy, rõ
ràng một "nền kinh tế độc lập tự chủ" theo cách hiểu truyền thống không còn
tồn tại trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Điều này buộc chúng ta phải có
nhận thức mới phù hợp hơn với thực tiễn về khái niệm nền kinh tế độc lập tự
chủ. Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được
hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình
hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó; trong bất cứ tình
huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường
của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất
nước. Ở Việt Nam để có một nền kinh tế độc lập tự chủ, cần đáp ứng được
những yêu cầu chủ yếu sau:

- Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết.
- Nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao.
- Cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng,
phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm
ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế, đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung
quá nhiều vào một vài mục tiêu.


16

- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một ngành kinh tế, nhất là
những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền
kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành
nhạy cảm.
- Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết
trong cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh.
- Giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế, gắn phát triển kinh tế
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo những tiêu chí như trên,
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam đã gia nhập
WTO cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
CNH,HĐH là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. CNH,HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật để
chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại. Tham gia hội
nhập quốc tế, chúng ta có cơ hội đẩy nhanh hơn quá trình này, đầu tư nước
ngoài sẽ tăng nhanh, chúng ta sẽ có vốn, sẽ tranh thủ được những thành tựu
mới nhất của khoa học – công nghệ, sẽ học hỏi được kinh nghiệm quản lý
hiện đại…trên cơ sở đó tranh thủ ngoại lực cho xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ. CNH, HĐH ở nước ta hiện nay cần được thực hiện một cách toàn diện

và có chiều sâu, không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà phải
bao hàm cả lĩnh vực dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, không chỉ dừng ở việc
chuyển từ trình độ thủ công lên trình độ cơ khí mà phải hướng tới ứng dụng
ngay những thành tựu mới nhất của KH – CN hiện đại gắn với phát triển nền
kinh tế tri thức. Để tận dụng tốt cơ hội cho đẩy mạnh CNH,HĐH cần đẩy


17

mạnh cải cách hành chính, đổi mới quản lý, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng đồng bộ các loại thị trường cơ bản theo
cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Bên cạnh đó phải cụ thể hoá lộ trình hội nhập
bằng các chương trình, kế hoạch và qui hoạch phát triển kinh tế; có chính
sách hợp lý định hướng và hỗ các doanh nghiệp thích nghi với lộ trình hội
nhập.
Thứ hai, có chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế.
Chúng ta cần có các chuyên gia tầm cỡ để tham gia hoạch định chính
sách thương mại toàn cầu và đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế công
bằng. Đẩy mạnh đào tạo các học giả đủ trình độ để tham gia hoạch định các
chính sách quốc gia phù hợp với định chế của các tổ chức quốc tế khác nhằm
vừa tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và lành mạnh, cho phép thu hút đầu
tư nước ngoài hiệu quả nhất, vừa đảm bảo sự độc lập tự chủ về đường lối
chính trị, đường lối, chính sách và mô hình phát triển kinh tế. Chủ động đào
tạo, bồi dưỡng các nhà quản lý, các nhà khoa học và đội ngũ công nhân lành
nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế để tham gia vào quá trình làm ra các sản phẩm đủ
sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Không thể có nền kinh tế phát triển ở một
quốc gia có nguồn nhân lực kém phát triển, hiện nay chúng ta có nguồn nhân
lực dồi dào nhưng trình độ thấp và không đồng đều. Phát triển nguồn nhân lực
được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trung tâm, vừa là mục

tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH. Trong thực hiện chiến lược
này, giải pháp cải cách giáo dục đào tạo được coi là trọng tâm, cơ bản, tuy
nhiên thực trạng nền giáo dục của chúng ta hiện nay còn tồn tại nhiều hạn chế
yếu kém chậm được khắc phục. Cần phải rà soát, sắp xếp lại hệ thống các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung học dạy nghề, đẩy nhanh quá trình xã hội
hoá giáo dục, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh ngay trong hoạt động giáo dục


18

đào tạo nhằm vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của
thị trường sức lao động, vừa giảm bớt sức ép về chi phí bao cấp cho giáo dục
của nhà nước. Song song với cải cách giáo dục, nhà nước cũng cần có chính
sách cụ thể nhằm gắn kết quá trình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực sao
cho đạt hiệu quả cao nhất, khắc phục tình trạng doanh nghiệp nước ngoài
không mất chi phí đào tạo nhưng lại được sử dụng nguồn nhân lực có chất
lượng cao hơn các doanh nghiệp trong nước nhờ chính sách tiền lương linh
hoạt và nghệ thuật quản lý kinh doanh.
Thứ ba, có chiến lược mở rộng thị trường trên cơ sở phát huy tối đa lợi
thế so sánh.
Không phải cứ tham gia hội nhập quốc tế là hàng Việt Nam có thể tự
nhiên đi vào thị trường quốc tế, bên cạnh hạn ngạch hàng hóa, dịch vụ được
dỡ bỏ và thuế quan sẽ được cắt giảm, thị trường các nước phát triển có sự đòi
hỏi hết sức khắt khe về chất lượng hàng hoá, dịch vụ và đây chính là điểm
yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng xuất khẩu nông sản là một
minh chứng. Theo báo cáo của Vụ kế hoạch, Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn năm 2003, Trung Quốc là thị trường tương đối dễ tính, nhưng kim
ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ đạt 400 - 500
triệu USD, chiếm 1% kim ngạch nhập khẩu nông sản của nước này. Những
con số tương tự đối với thị trường Nhật Bản là 200 triệu USD, chiếm 0,3%

kim ngạch nhập khẩu nông sản của Nhật Bản, đối với thị trường Mỹ là 5,6 - 7
tỷ USD, chiếm 0,4 - 0,5% kim ngạch nhập khẩu nông sản của Mỹ. Muốn
nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ trước hết phải thay đổi tư duy của
người sản xuất, sản xuất phải dựa trên nhu cầu của thị trường. Điều này tưởng
chừng đơn giản nhưng lại đang là vấn đề khó khăn nổi cộm với các nhà sản
xuất trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp. Gia nhập WTO, các doanh nghiệp lại càng gặp khó


19

khăn khi không được hưởng khoản trợ cấp xuất khẩu như trước đây. Nhà
nước cần giúp các doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin thị trường, hỗ
trợ đổi mới công nghệ, hỗ trợ đào tạo nâng cao tay nghề của người lao động.
Bên cạnh việc mở rộng thị trường thì việc nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu
cũng là vấn đề đáng quan tâm. Thực tế hiện nay chúng ta thường xuất nguyên
liệu thô hoặc hàng hoá có giá trị thấp, vì thế chúng ta phải tập trung phát triển
mạnh các ngành công nghiệp chế biến trong thời gian tới, đặc biệt là công
nghiệp chế biến hàng nông sản.
Thứ tư, nâng cao tiềm lực KH - CN nội sinh và xây dựng cơ cấu công
nghệ mới đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong điều kiện khoa học và công nghệ đang có bước phát triển nhảy
vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất thì việc nâng cao tiềm lực KH - CN nội sinh và xây dựng cơ
cấu công nghệ mới có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế đất nước, KH - CN quyết định sức cạnh tranh của nền sản xuất. Nâng
cao tiềm lực khoa học công nghệ cần chú trọng phát triển cả khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, kĩ thuật và công nghệ . Phải đổi mới
chính sách trong đào tạo, quản lý, quy hoạch và sử dụng các nhà khoa học,
phải đầu tư hợp lý cho phát triển cơ sở vật chất phục vụ cho nghiên cứu khoa

học, phải khuyến khích và hỗ trợ việc ứng dụng khoa học kĩ thuật vào đời
sống. Cơ cấu công nghệ mới cần được xây dựng theo hướng kết hợp chặt chẽ
cơ cấu công nghệ với cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh
tế; kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại nhằm vừa phát huy
tối đa nguồn lực trong nước, vừa thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu. Cơ cấu
công nghệ mới cần tập trung vào một số lĩnh vực như các ngành năng lượng,
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến, … đây sẽ là
những ngành có hiệu quả kinh tế cao và có sức cạnh tranh ở cả thị trường


20

trong nước và quốc tế trong thời gian tới. Tiếp cận công nghệ mũi nhọn cần
phát huy có hiệu quả vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, bởi
lĩnh vực này đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và trình độ quản lý hiện đại mà
ngoài thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ra, chỉ có kinh tế nhà nước
là đáp ứng được. Tham gia lĩnh vực này đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước
phải đổi mới quản lý, sắp xếp lại tổ chức, đẩy mạnh cổ phần hoá, có như vậy
mới vừa giúp doanh nghiệp nhà nước huy động được một lượng vốn lớn vừa
tạo ra sự năng động, linh hoạt trong hoạt đông sản xuất, kinh doanh, đó cũng
là các điều kiện thiết yếu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn với sức cạnh
tranh ngày càng cao. Phát triển doanh nghiệp nhà nước thành các tập đoàn
kinh tế lớn không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà quan trọng hơn, nó
góp phần củng cố vững chắc vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước,
nhân tố cơ bản để xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ năm, có chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:
Có thể nói, cạnh tranh luôn gắn với kinh tế thị trường, là linh hồn của
nền kinh tế thị trường; vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá
sức sống của nó và chúng ta cần chấp nhận và cần có chiến lược nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trong hội nhập quốc tế. Để nâng cao

năng lực cạnh tranh, trước hết cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh
giới giữa thị trường và Nhà nước; hình thành được hệ thống thị trường đồng bộ
và hoàn thiện. Bên cạnh đó cần xây dựng chính sách cạnh tranh theo chuẩn
mực hiện đại, phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường và
thông lệ quốc tế, kết hợp hợp lý và có hiệu quả các biện pháp pháp chế, với
kinh tế và biện pháp hành chính cần thiết; đồng thời cần đẩy mạnh nghiên cứu
và thực hiện việc quốc tế hóa chính sách cạnh tranh. Trong quá trình này, cần
chú trọng tính quốc tế hóa của luật và chính sách cạnh tranh của Việt Nam.
Cùng với đó vấn đề hết sức quan trọng là các doanh nghiệp cần chú trọng đổi


21

mới công nghệ, tận dụng những lợi thế của Việt Nam và từng địa phương,
nhằm giảm tối đa giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, gắn với
đẩy mạnh hoạt động ma - ket - ting, quảng bá thương hiệu sản phẩm…

KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa, là một xu thế khách quan hiện nay, đã và đang lôi cuốn
các nước tham gia vào với mức độ khác nhau. Thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, Việt Nam bắt đầu chính thức hội nhập sâu rộng vào thị
trường quốc tế từ năm 1986. Đây là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh
vô cùng phức tạp. Hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ đến Việt
Nam theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực; nó không chỉ đem đến cho chúng
ta những cơ hội thuận lợi mà còn có cả những thách thức và khó khăn mới. Vì
vậy, việc nhận thức đúng đắn bản chất và nguyên nhân của toàn cầu hóa cũng
như những tác động nhiều mặt của nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
hoạch định đường lối chiến lược và thực thi các chủ trương, chính sách, giải
pháp nhằm đưa đất nước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế
giới; đồng thời bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng

xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020.



×