Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGHÀNH VAI TRÒ của NÔNG dân TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.88 KB, 28 trang )

1

Mục lục
Trang
Mở đầu
I.

QUAN NIỆM VỀ VAI TRÒ NÔNG DÂN TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN.

1.

Vai trò nông dân trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

2.
II.

Thực trạng vấn đề nông dân ở nước ta hiện nay
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NÔNG DÂN TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY

1.

Nông dân Việt Nam trước yêu cầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiên đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện


2.

nay - Những định hướng và mục tiêu cơ bản.
Một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nông dân
trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay.

Kết luận
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục


2

VAI TRÒ CỦA NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY

MỞ ĐẦU
Việt Nam là đất nước có một nền nông nghiệp truyền thống lâu đời với
hơn 70% dân số làm nông nghiệp. Vì thế, dù ờ thời kỳ nào, người nông dân,
nông thôn và kinh tế nông nghiệp cũng có một vai trò vô cùng quan trọng trong
sự phát triển chung của đất nước. Nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng này,
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu là đến năm
2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
phát triển nông thôn. Điều này được thể hiện rất rõ trong một số chỉ thị, nghị
quyết của một số Đại hội VI, VII, VIII. Đặc biệt trong đại hội IX, nghị quyết
TW 5 về “ Đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
thời kỳ 2001 – 2010” đã nhấn mạnh “…Ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn

và phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự
chỉ đạo và tạo các nguồn lực cần thiết cho Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, phát triển nông thông toàn diện, tiêu thụ nông sản háng hóa, bảo hiểm
sản xuất và bảo hiểm xã hội, phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn,
phân bố dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn, việc
làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông
thông mới”… Một lần nữa tại Đại hội X của Đảng khẳng định: “Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện


3

đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh,
quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường
sinh thái của đất nước”1. Có thể khẳng định: Thiếu sự tham gia của nông dân
thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đạt hóa đất nước không bao giờ thành công.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông
thôn ở nước ta cho tới nay đã đạt được rất nhiều các thành tựu, tuy nhiên cũng
này sinh rất nhiều vấn đề bất cập và hạn chế như vấn đề đất đai cho sản xuất
nông nghiệp, vấn đề ứng dụng các kỹ thuật hiện đại cho sản xuất, vấn đề về bao
tiêu sản phẩm…Và minh chứng rõ rệt nhất là mức sống và thu nhập. Thu nhập
bình quân của những người thuần túy sản xuất nông nghiệp rất thấp (tỷ lệ hộ
nghèo theo số liệu năm 2005 là 3,9 triệu hộ chiếm 22% số hộ cả nước). Kéo theo
đó là sự chênh lệch vô cùng rõ rệt mức sống giữa thành thị và nông thôn, sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng cao (mức chênh lệch giữa nhóm hộ giàu nhất và
nhóm hộ nghèo nhất năm 2006 là 8.5 lần trong khi năm 2004 chi ở mức 7.1
lần)... Để có thực hiện tốt được tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát
triển đất nước, nhất thiết phải tìm nguyên nhân cùng các biện pháp phát huy
những ưu điểm và khắc phục cho những hạn chế và bất cập. Đánh giá nhìn nhận

đúng vai trò quan trọng của nông dân trong thời đại mới hiện nay, đưa nông thôn
gần với thành thị thực hiện thành công nếp sống mới, nông thôn mới…tạo mọi
điều kiện cho sự phát triển bền vững và hùng mạnh của đất nước. Vì vậy, tôi
chọn đề tài tiểu luận “Vai trò của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay”
NỘI DUNG

1

ĐCSVN, số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008, Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khoá X về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn


4

I. QUAN NIỆM VỀ VAI TRÒ NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN.
1. Vai trò nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn.
* Quan niệm về nông dân và giai cấp nông dân.
- Khái niệm về nông dân: Nông dân là người lao động cư trú ở nông thôn
sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, sau đó bằng các ngành, nghề mà tư liệu sản
xuất chính là đất đai tùy theo từng thời kỳ lịch sử ở từng nước, có quyền sở hữu
khác nhau vè ruộng đất. Những người này hình thành nên giai cấp nông dân.
- Khái niệm giai cấp nông dân, theo Bách khoa toàn thư: Giai cấp nông
dân là bao gồm những tập đoàn người sản xuất nhỏ hoặc làm thuê cho địa chủ
và cho phú nông trong nông nghiệp dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về
ruộng đất. Vậy giai cấp nông dân là những người sống lâu đời ở nông thôn
(làng, bản, ấp) lấy sản xuất nông nghiệp làm nguồn sống chính dưới hình thức tư
hữu nhỏ. Nông dân là lực lượng cách mạng trong cuộc cách mạng dân tộc dân

chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có thể thấy giai cấp nông dân ở nước ta là lực lượng quan trọng, là lục
lượng cơ bản cùng giai cấp công nhân hợp thành đội quân chủ lực của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đưa nông dân đi theo con đường cách mạng xã hội hủ
nghĩa là tạo ra một lực lượng chủ yếu trong cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
* Vai trò nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.


5

Chủ nghĩa Mác –Lê Nin đã từng khẳng định vai trò của quần chúng nông
dân lao động là người quyết định, là người sáng tạo chân chính ra lịch sử xã hội.
Ở nước ta , nông dân chiếm hơn 70% số dân cả nước – họ là một bộ phận của
dân cư, là lực lượng đông đảo trong quần chúng nhân dân lao động, là động lực
cách mạng xã hội chủ nghĩa và chính họ là người trực tiếp sản xuất ra của cải
nuôi sống xã hội.
Trong chế độ phong kiến, người nông dân là lực lượng sản xuất chính và
cũng là giai cấp cơ bản bị áp bức trong xã hội. Vốn là những người sản xuất nhỏ
và bị hạn chế trong tầm nhìn hẹp của làng xã, họ thường thụ động trước các vấn
đề xã hội và trước các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là lực lượng sản xuất cơ
bản của xã hội, song trước sau họ vẫn không thay đổi được phương thức sản
xuất để hình thành một mô hình xã hội tiến bộ hơn. Vì vậy, họ không trở thành
giai cấp lãnh đạo cách mạng mà chỉ có thể liên minh với giai cấp công nhân, tầng
lớp trí thức và các giai tầng xã hội khác cùng giai cấp công nhân thực hiện cuộc
cách mạng giải phóng mình, giải phóng dân dộc do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ănghen viết: “Các Đảng tư sản và phản động đều cự kỳ ngạc nhiên khi
thấy, ngày nay, đột nhiên những nước xã hội chủ nghĩa khắp nơi đều dặt vấn đề
nông dân vào chương trình nghị sự, đáng lẽ họ phải ngạc nhiên vì sao vấn đề đó

lại không được đặt ra từ lâu”2. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng: “Giai cấp nông
dân muốn giành thắng lợi trong cách mạng thì phải tập hợp được giai cấp nông
dân, tranh thủ họ, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và các
thế lực áp bức, bóc lột khác”.
Vận dụng quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể nước ta, Đảng và Bác Hồ sớm nhận thấy: Nông dân là lực lượng cách mạng
to lớn, một người bạn đồng minh tự nhiên, tin cậy, trung thành của giai cấp công
2

C. Mác-Ph. Ănghen toàn tập , tập IV, Nxb CTQG, H. 1995trang 169


6

nhân. Nông dân và công nhân là đội quân chủ lực của cách mạng “là gốc cách
mệnh”. Sau này, Bác tiếp tục khẳng định: “Nông dân là một lực lượng to lớn
của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân.”
Trong quá trình tổng kết lãnh đạo cách mạng, Bác lại một lần nữa khẳng
định: Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và quyết định đúng đắn vấn đề
nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh chống xu hướng
“hữu khuynh” và “tả khuynh” đánh giá thấp vai trò của nông dân là quân chủ lực
của cách mạng, là bạn đồng minhchur yếu và tin cậy của giai cấp công nhân, là
lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò của giai cấp nông dân, Đảng và Bác Hồ
luôn coi trọng công tác vận động nông dân đã sớm xây dựng được khối liên
minh công nông vững chắc và có những chủ trương chính sách thích hợp để tạo
nên những thành quả to lớn trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ
xây dựng dất nước. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân đã phát huy
được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đã sớm hình thành những phẩm
chất mới của người nông dân trong cuộc cách mạng to lớn của dân tộc, thể hiện

rất rõ nét ở các anh hùng, chiến sĩ thi đua trên mặt trận nông nghiệp, đã được
tuyên dương qua từng chặng đường của đất nước.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung;
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng, giai cấp nông
dân ngày càng có vai trò quan trọng hơn để góp phần vào việc thực hiện công
cuộc đổi mới. Nông dân không chỉ là lược lượng chủ yếu sản xuất ra của cải cho
xã hội, nuôi sống xã hội mà còn là động lực cho sự phát triển của xã hội, là nhân
tố cơ bản cho quá trình tiến hành thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng một nước Việt Nam ngày một phát triển và giàu mạnh hơn.


7

Để phát huy vai trò của nông dân hiện nay, Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng nêu rõ: “Nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện
để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề,
chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ,
tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền
vững

công

cuộc

xóa

đói,


giảm

nghèo,

làm

giàu

hợp

pháp”3.

2. Thực trạng vấn đề nông dân ở nước ta hiện nay.
Với số lượng đông đảo (hơn 70% dân số) nông dân Việt Nam có vai trò
hết sức quan trọng không những trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn mà còn cung cấp nguồn lực về con người, tài nguyên,
bảo tồn sinh thái và không gian chung cho quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
cả nước (đô thị và nông thôn). Có thể nói, quá trình công nghiệp hóa và đô thị
hóa diễn ra tương đối mạnh, nhưng phần lớn nông dân chưa thực sự tham gia và
làm chủ quá trình này. Thực tế nông dân nước ta phải đối mặt với nhiều vấn đề
nan giải.
Kể từ đầu những năm 1990 của thế kỷ 20 đến nay, đất nước ta bắt đầu
công nghiệp hóa đất nước. Một bộ phận nông dân “nhường” những thửa ruộng
của mình, làng quê mình để xây dựng những khu đô thị mới, khu công nghiệp
mới, những nhà máy thủy điện mới. Việc rời xa những thửa ruộng vừa là công cụ
sản xuất, tài sản vừa là niềm vui, lẽ sống của người nông dân thật không hề đơn
giản. Sau nhiều năm đổi mới, thu nhập bình quân đầu người một năm của người
dân Việt Nam nói chung tăng mạnh từ năm 1996-2006. Năm 2006, thu nhập đầu
3


ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H.2011, tr.241


8

người cao gấp 2,8 lần năm 1996. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng thu nhập rất khác
nhau trong các vùng của cả nước. Ở các vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, mức thu
nhập cũng như tốc độ tăng thu nhập thuộc hàng thấp nhất. Cùng với xu hướng
tăng thu nhập cả nước, thu nhập bình quân của cư dân nông thôn cũng tăng gần
300% trong vòng 10 năm (1996-2006). Nếu xét về khoảng cách tương đối, thì thu
nhập của cư dân nông thôn với cư dân thành thị có xu hướng giảm dần (năm
1996: 2,7 lần; năm 2006 còn 2,1 lần). Cả nước hiện có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo,
chiếm 22% số hộ cả nước (theo chuẩn mới, 2005), trong số các hộ nghèo, vẫn còn
tới khoảng 12% là nghèo về lương thực. Những con số trên cho thấy, những thành
tựu của công nghiệp hóa còn chưa với tới được nhiều người dân ở nông thôn.
Hiện nay sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn. Mức chênh lệch thu nhập giữa
nhóm hộ giàu nhất và nghèo nhất ngày càng cao: năm 2006, mức chênh lệch là
8,5 lần trong khi năm 2004 chỉ ở mức 7,1 lần. ĐBSCL là vùng có tỷ lệ nghèo vào
loại cao nhất trong cả nước, chỉ xếp sau vùng núi phía Bắc.
Nơi tiếp nhận người di cư nhiều nhất là các thành phố lớn, các tỉnh phát
triển công nghiệp mạnh như TPHCM, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh và Đà
Nẵng. Áp lực về lao động ở nông thôn gia tăng dẫn đến các dòng di cư lao động
từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm. Theo tỷ lệ lao động được khảo
sát tại tám xã của cả nước do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và
Trung tâm Phát triển nông thôn thuộc Viện Chính sách và Chiến lược phát triển
nông nghiệp nông thôn thực hiện năm 2006, có đến 90% số người di cư tạm thời
và 75% số người di cư dài hạn có động cơ di cư để tìm kiếm việc làm.
Song song với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn hiện nay vấn nạn về việc làm cho nông dân trở nên một việc cấp bách và
nan giải, nông dân mất đất sản xuất rơi vào thiếu việc làm, một số ít lâm vào tình

cảnh thất nghiệp. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê, năm 2009 nước


9

ta có 6,51% thất nghiệp và thiếu việc làm ở khu vực nông thôn, trong đó chủ yếu
là lao động nữ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục đưa ra những
quan điểm chỉ đạo đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đại hội XI
đã khẳng định những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những
kết quả đạt được của nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng và nhấn mạnh:
“Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân
được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển các
cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác động tích cực đến
việc sản xuất, tạo việc làm và xóa đói, giảm nghèo”4.
Nhận thức của nông dân có phần được khắc phục do nhanh tiếp cận với
thông tin, khoa học công nghệ, báo chí… Tuy nhiên còn nhiều hạn chế. Việc áp
dụng khoa học vào sản xuất chưa được nhân rộng, nông dân vẫn chịu cảnh “bán
mặt cho đất bán lưng cho trời” không thoát khỏi tư duy “Con trâu đi trước, cái
cày theo sau”. Một số tệ nạn tai hại có nguy cơ gia tăng tại nông thôn như cờ
bạc, cướp giật… các trào lưu văn hóa thực dụng tại đô thị lan tràn về nông thôn
gây xáo trộn cuộc sống yên bình của người nông dân bao đời nay, như karaoke,
massa, game online… Không ít con em nông dân trở thành những con nghiện
của các trò chơi điện tử. Sự chênh lệc giàu nghèo không ngừng gia tăng, một số
nông dân có vốn nhờ vào tiền đền bù đất bị thu hồi tổ chức kinh doanh, phân
phối các loại hình dịch vụ mang lại lãi suất cao và ổn định, kinh tế gia đình ổn
định vươn lên giàu có. Có nhiều trang trại ở nông thôn thu hút hàng trăm lao
động tham gia sản xuất, mỗi ngày tạo ta hàng trăm triệu dồng… Ngược lại, số

4

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H.2011, tr.151,


10

đông nông dân vẫn sống dưới mức nghèo khổ (Năm 2009 mức nghèo khi người
nông dân ở nông thôn có mức thu nhập bình quân dưới 200 ngàn một người /
tháng). Nông dân một số nơi không có điều kiện tiếp xúc với các loại hình dịch
vụ tối thiểu, nông dân còn thiếu thốn trong đời sống tinh thần nhất là thông tin…
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nhanh đã chuyển dần
các nhà máy chế biến và sản xuất, hình thành các khu công nghiệp tại nông thôn
gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng, nhất là môi trường đất, môi
trường nước… Một số nơi bị ô nhiệm nặng đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của nhân dân, người dân mắc nhiều loại bệnh tật khó lường, xuất hiện những
làng ung thư ngày một nhiều.
Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đã đem lại những
thành tựu to lớn. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, năng suất lao
động được nâng lên rõ rệt, xã hội con người đều đổi mới phù hợp với sự phát
triển chung của xã hội. Con người dần được đáp ứng tốt nhất những nhu cầu
thiết yếu, và có đòii hỏi ngày một cao hơn. Những yếu tố tích cực này tạo tiền đề
cho sự phát triển đất nước một cách bền vững nói chung và nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nông dân ở nông thôn nói riêng trong tương lai.
Tóm lại, “sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn”. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo
hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế
cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng

công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi
mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông


11

thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông
thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống
chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát
huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của
giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững,
tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt
nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công
nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản
xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp.
Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản
xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá.
Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó
với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu,
vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn
lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một
cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân,

nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu


12

tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi
nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách nhà nước và
các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà nước
còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi
còn hạn chế…
II. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN
ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Nông dân Việt Nam trước yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa,
hiên đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay - Những định hướng và mục
tiêu cơ bản.
Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng theo
hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, nhằm tranh thủ tốt nhất những điều kiện về
chuyển giao công nghệ và khoa học kỹ thuật phục vụ thành công quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa trong nước. Trong bối cảnh đó việc tập trung đầu tư
phát triển kinh tế nông thôn, giải quyết các vấn đề nông dân trở nên cần thiết và
cấp bách, với mục tiêu đưa nông thôn sát lại gần hơn với thành thị, đô thị hóa
nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn. Trên cở đó Đảng ta đã xác định quan điểm: “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm



13

bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ
môi trường sinh thái của đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông
dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây
dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn
bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt”5.
Với quan điểm như vậy về vấn đề nông nghiệp,nông thôn và nông dân
đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay, là
chủ thể cho sự phát triển kinh tế tại nông thôn, là lực lương sản xuất chủ yếu tại
nông thôn. Đòi hỏi nhiều thách thức đối với nông dân trong thời kỳ mới, đặc biệt
về trình độ tiếp nhận vận dụng khoa học kỹ thuật, trình độ học vấn…Với mục
tiêu rổng quát: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư
nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các
nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông
thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại,
bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và
lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái
được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông

5

ĐCSVN, Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn


14

dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định: “Đến năm 2020 tốc độ tăng trưởng nông,
lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả;
duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước
mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch
vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của
dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay”6.
Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng
50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là
hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2 vụ,
mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ động
cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông suốt 4
mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản; xây dựng cảng
cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt cho hầu hết
dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; đảm bảo cơ bản điều kiện
học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông
thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu
quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị
thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp
và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống
đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông,
thuỷ lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn mặn và chống
6

ĐCSVN, Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn


15

nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng bằng sông Cửu
Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; chủ động triển
khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng
môi trường nông thôn.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn
và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, nhất là ở các vùng còn nhiều
khó khăn; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ tiên tiến,
tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực; tăng cường công tác xoá đói, giảm
nghèo, đặc biệt ở các huyện còn trên 50% hộ nghèo, tập trung giải quyết các vấn
đề xã hội bức xúc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn. Triển khai
một bước chương trình xây dựng nông thôn mới. Tốc độ tăng trưởng nông, lâm,
thuỷ sản 3 - 3,5%/năm. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
không thấp hơn mức bình quân của cả nước. Lao động nông nghiệp còn dưới
50% lao động xã hội. Giảm tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới, cơ bản không còn hộ
dân ở nhà tạm, tăng tỉ lệ che phủ rừng và tỉ lệ dân cư nông thôn được sử dụng
nước sạch. Xây dựng thành công và đồng bộ nông thôn mới tạo đà cho quá trình
công nghiệp háo hiện đại hóa đất nước theo hướng phát triển cao.
2. Một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nông dân trong quá trình

công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay.
Trong nông nghiệp và nông thôn, vấn đề nông dân luôn có vị trí đặc biệt
quan trọng và được Đảng ta xác định là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt
Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, nông dân đã có những đóng góp to lớn,
góp phần cùng toàn dân làm nên thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc. Ngày nay, trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,


16

nông dân vẫn là lực lượng đông đảo, nòng cốt và chủ yếu tham gia trực tiếp vào
quá trình này. Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa qua là thành quả của toàn Đảng, toàn
dân nhưng đặc biệt trong đó có một phần đóng góp đáng tự hào của nông dân.
Để quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta đi vào chiều
sâu, tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong những năm đầu của
thế kỷ XXI, đòi hỏi nước ta phải nỗ lực xây dựng, hoàn thiện một hệ thống
những chủ trương, chính sách, phương hướng, giải pháp đồng bộ nhằm phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Với tư cách là chủ thể, là
lực lượng nòng cốt và chủ yếu trực tiếp tham gia vào sự nghiệp này, điều quan
trọng hơn hết là phải khơi dậy cho được sự cố gắng, lòng nhiệt tình, tính năng
động, tích cực sáng tạo của nông dân cả nước. Bởi mỗi bước phát triển của nông
nghiệp và nông thôn suy cho cùng cũng là nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống cho nông dân. Nông dân là mục tiêu, là động lực phát triển của nông
nghiệp, nông thôn. Phát triển nông nghiệp và nông thôn là do nông dân và vì
nông dân. Vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn là vô cùng to lớn.
Thứ nhất, một số giải pháp về kinh tế.
Vấn đề phát triển kinh tế cho nông dân hiện nay đang là một vấn đề cần
được quan tâm hàng đầu của Đảng và nhà nước ta. Người nông dân nước ta hiện

nay có đời sống kinh tế quá thấp, mức độ chênh lệch trong thu nhập còn cao, đời
sống nhân dân còn khó khăn. Vì vậy giải quyết được vấn đề kinh tế đồng nghĩa
với việc phần nào giải quyết tốt các vấn đề khác của nông dân trong giai đoạn
hiện nay. Nông dân có kinh tế ổn định sẽ chăm lo cho xây dựng hạnh phúc gia
đình, xây dựng nếp sống mới… Chính vì vậy giải pháp cho phát triển kinh tế
cho nông dân phải mang tính tổng quát và có chiến lược lâu dài.


17

Đầu tiên phải tiếp tục quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn theo hướng ngày càng hiện đại đi theo từng bước bằng việc
dần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại nông thôn song song với chuyển
dịch cơ cấu lao động.
Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu
thị trường và lợi thế từng vùng, sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm, có hiệu quả,
duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước
mắt và lâu dài. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và thị
trường. Phát triển sản xuất với quy mô hợp lý các loại nông sản hàng hoá xuất
khẩu có lợi thế nông sản thay thế nhập khẩu. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học, thuỷ lợi
hoá, cơ giới hoá, thông tin hoá, thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán
canh tác lạc hậu để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản.
Phát triển ngành trồng trọt, hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung,
thực hiện đầu tư thâm canh, áp dụng các giống và quy trình sản xuất mới có
năng suất, chất lượng cao; hoàn thiện hệ thống tưới tiêu; đẩy nhanh cơ giới hoá
đồng bộ các khâu sản xuất; hiện đại hoá công nghiệp bảo quản, chế biến, nâng
cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và giá trị gia tăng của nông sản hàng
hóa. Bố trí lại cơ cấu cây trồng, mùa vụ và giống để giảm thiệt hại do thiên tai,

dịch bệnh phù hợp với điều kiện của từng vùng. Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh
sản xuất lúa, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Đảm
bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài và ưu tiên hàng
đầu trong phát triển nông nghiệp. Có chính sách bảo đảm lợi ích cho người trồng
lúa, địa phương và vùng trồng lúa. Xây dựng các vùng sản xuất cây công nghiệp,
cây ăn quả, rau, hoa hàng hoá tập trung, trước hết là các vùng nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến và xuất khẩu.


18

Phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán
công nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế của từng vùng; chú trọng
phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ ở trung du, miền núi và Tây Nguyên; tập trung
cải tạo và nâng cao chất lượng giống, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến để
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả; tăng cường công tác thú y, phòng chống
dịch bệnh; phát triển sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp; tổ chức lại và hiện
đại hoá cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm.
Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm
giàu rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh
thái. Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, khuyến khích các tổ chức, cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển rừng. Cho phép
khai thác lợi ích kinh tế từ rừng sản xuất là rừng tự nhiên theo nguyên tắc bền
vững, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu từ rừng.
Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại hoá
công nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản, chú trọng phát triển
lâm sản ngoài gỗ.
Triển khai có kết quả chương trình khai thác hải sản trong chiến lược
phát triển kinh tế biển, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh,
quốc phòng. Cơ cấu lại lực lượng đánh bắt gần bờ, đồng thời có chính sách hỗ

trợ ngư dân chuyển đổi nghề tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống
của ngư dân ven biển. Phát triển nhanh lực lượng khai thác xa bờ theo hướng
đầu tư trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ cơ sở hạ
tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tàu thuyền theo quy hoạch, hệ
thống thông tin liên lạc, tìm kiếm cứu nạn. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản
đa dạng, theo quy hoạch, phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường; xây
dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi, trồng, trước hết là thuỷ lợi; áp dụng
rộng rãi các quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo; xây dựng hệ thống thú y thuỷ


19

sản; kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, môi trường nuôi; hiện đại hoá
các cơ sở chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn theo quy
hoạch. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế
biến tinh, chế biến sâu gắn với vùng nguyên liệu và thị trường, đẩy mạnh sản
xuất tiểu thủ công nghiệp, triển khai chương trình bảo tồn và phát triển làng
nghề. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng các loại dịch vụ phục vụ sản xuất,
đời sống của dân cư nông thôn
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, nước ta tiến
hành chuyển dịch nền kinh tế theo cơ cấu phát triển bền vững: Công nghiệpDịch vụ - Nông nghiệp. Nhưng giai đoạn đầu nền nông nghiệp vẫn giữ vai trò
quan trọng trong nền kinh tế, phát huy những tiềm năng cơ bản của nông thôn
nước ta! Thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn hiện nay nhằm từng bước xóa dần khoảng cách giữa nông thôn với thành
thị, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý theo những giai đoạn cụ thể mà giai đoạn đầu
phải thực hiện theo cơ cấu: Công nghiệp - Nông nghiệp và Dịch vụ song song
với đầu tư xây dựng phát triển nông thôn mới.
Một số hình thức sản xuất truyền thống đã dần chuyển sang các mô hình
sản xuất tập trung theo hướng công nghiệp, áp dụng rãi những tiến bộ khoa học

kĩ thuật hiện đại. Chính vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một xu thế tất yếu ở
nước ta hiện nay, nó phù hợp với sự phát triễn chung của nền kinh tế trong nước
và xu thế chuyển dịch kinh tế trên thế giới. Kinh tế nông thôn đã phản ánh sự
chuyển dịch này theo giai đoạn đầu là Công nghiệp-Nông nghiệp và Dịch vụ.
Đưa khoa học kỹ thuật về với nông thôn, hình thành các khu công nghiệp
tập trung hướng vào vùng nguyên liệu, lao động và thị trường tiêu tụ tiềm ẩn ở


20

nông thôn và nông dân. Chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng
hiện đại hóa, cơ giới hóa tạo thời gian cho người nông dân tiến hành học tập nghề
nghiệp thích ứng với quá trình chuyển đổi kinh tế nói chung, tạo sự chủ động cần
thiết cho nông dân.Chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ nông nghiệp nông
thôn theo hướng Tam Nông gắn liền sản xuất với dịch vụ. Đây là xu thế tất yếu
cho sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta và thế giới hiện nay.
Với 75% dân số sống ở nông thôn, chiếm ¾ lực lượng lao động tham gia
vào hoạt động sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. Hầu hết lao động nôn thôn
đều là nông thuần túy, ở trong tình trạng thiếu việc làm, một ít trong số đó có
nguy cơ thất nghiệp hoặc đã thất nghiệp.(không có việc làm). Lao động ở nông
thôn hoạt động theo mùa vụ, có nhiều thời gian nông nhàn, lao động không có
tay nghề và chưa được đào tạo nghề. Chính vì vậy trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu về kinh tế phải gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động song
song với đào tạo nghề. Xem đây là điều kiện tiền đề cho quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế tại nông thôn một cách bền vững, thực hiện thành công quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động
qua một số hình thức cơ bản sau:
Tạo mọi điều kiện cho nông dân tự chuyển đổi nghành nghề qua các
chương trình, hình thức đào tạo nghề cho nông dân ở nông thôn. Như mở các lớp
sơ cấp nghề, trung cấp nghề, chú trọng các nghề mới có hiệu quả kinh tế cao, các

nghề phù hợp với quá trình tuyển dụng của các công ty khi khu công nghiệp ở
các vùng nông thôn dần được hình thành và đi vào hoạt động. Đào tạo cho nông
dân về những phương pháp canh tác mới ánh dụng mạnh mẽ những thành tựu
khoa học kĩ thuật, các mô hình chăn nuôi công nghiệp, dần dần giúp nông dân tự
nhận thức trong sản xuất, không những chú trọng vào việc “Trồng cây gì? Nuôi
con gì?” mà còn phải biết trồng và nuôi bằng cách nào, như thế nào để có hiệu


21

quả kinh tế cao nhất. Tạo những chính sách ưu đãi trong đào tạo nghề, miễn
giảm học phí cho nông dân nghèo, nông dân trong khu vực quy hoạch, nông dân
cần chuyển đổi nghành nghề
Tiếp tục khuyến khích mở rộng các mô hình kinh tế tập thể theo nguyên
tắc 3chung: chung vốn, chung đất đai và chung nguồn nhân lực. Đây là điều kiện
phát triển tốt nhất năng lực sản xuất của nông dân hiện nay. Khi nông dân nước
ta không có nhiều ruộng đất, vốn và thiếu những kinh nghiệp sản xuất tiên tiến
thì nghuyên tắc 3 chung sẽ là biện pháp tốt nhất!
Chuyển dịch cơ cấu lao động là nhu cầu thiết yếu và cần thiết để thực
hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tề tại nông thôn, giải quyết việc làm
cho nông dân, tăng thu nhập làm cho nông dân dần ly nông bất ly hương.
Quy hoạch lao động là một chiến lược có tầm vĩ mô, hiện nay trên thế
giới các nước có nền kinh tế phát triển hiện đại là những nước thực hiện thành
công quá trình quy hoạch lao động. Như tại Trung Quốc đã thực hiện chương
trình quy hoạch đặc biệt, chú trọng phát triển đô thị thu hút dân nông thôn về đô
thị, dành đất nông thôn cho việc mở rộng vùng công nghiệp. Hiện nay có hai
hướng quy hoạch lao động nông thôn:
Một là: Đưa dân nông thôn về thành thị, chung sống với thành thị,
nhường đất ở nông thôn để nhà nước đầu tư xây dựng thành đô thị mới và tiếp
tục đưa dân về định cư. Đưa dân về các khu công nghiệp, đi xuất khẩu lao

động…Đây là biện pháp khó thực hiện ở nước ta, với 75% dân số sống ở nông
thôn, phong tục tập quán thuần túy khó thích nghi, nông dân có trình độ thấp.
Hai là: Phát triển kinh tế nông thôn, đưa công nghiệp vầ nông thôn, xây
dựng nông thôn mới, gắn liền phát triển kinh tế với đào tạo con người xã hội mới.


22

Đây được xem là giải pháp hữu hiệu nhất cho nước ta hiện nay, nó tận dụng được
những lợi thế so sánh ở nông thôn, nhưng nó đòi hỏi phải có thời gian và vốn.
Trên cơ sở đó mở rộng các mô hình kinh tế nông thôn theo hướng đầu tư
về khao học công nghệ, sản xuất được áp dạng mạnh mẻ khoa học kỹ thuật.
Hình thành các vùng chuyên canh, các khu sản xuất tập trung… nhân rộng các
mô hình kinh té trang trại, nông trại, tận dụng các chính sách của nhà nước về hỗ
trợ vốn sản xuất. Việt Nam là một nước nông nghiệp, ¾ lao động làm nông
nghiệp nhưng hiện nay vốn đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiềm khoảng 14% tổng
vốn đầu tư cho nền kinh tế. Chính vì vậy cần phải đầu tư cho nông nghiệp từ xây
dựng cơ bản đến đầu tư cho sản xuất, xây dựng các trung tâm nghiên cứu nông
lâm ngư, các viện nông nghiệp, phát triển đào tạo kỹ sư nông nghiệp, khoa học
kỹ thuật cho nông nghiệp….
Thứ hai, giải pháp về những vấn đề xã hội cho nông dân ở nông thôn.
Vấn đề xã hội ở nông thôn hiện nay ngày càng phức tạp khi mà các luồn
văn hóa lai căn, văn hóa đô thị đang tràn về nông thôn phá vở sự yên bình vốn có
của các làng quê. Những tệ nạn xã hội ngày một tăng lên nư rượu chè, cướp
bóc…Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn chưa được giải quyết, không
tận dụng được quỹ thời gian tập trung cho sản xuất…Để giải quyết được các vấn
để này tôi đưa ra một số giải pháp cơ bản sau:
Cần nhanh chóng tạo ra nhiều hơn việc làm cho nông dân, mang lại thu
nhập cho nông dân, tân dụng thời gian nhàn rỗi. Tiến hành các giải pháp về
chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghành nghề, chính sách đào tạo nghề, chính sách

vay vốn tín dụng, chính sách hỗ trợ sản xuất… Thực hiện chính sác lao động và
việc làm thông qua các mô hình hoạt động đầu tư phát triển làng nghề truyền
thống. Để làm được điều này trong quá trình đầu tư phát triển làng nghề cần phải


23

tìm hiểu thị trường, tìm dầu ra cho sản phẩm, chuyển đổi mô hình sản xuất từ
thử công sang sản xuất công nghiệp theo hình thức chuyên môn hóa. Bên cạnh
đó chú trọng vào việc đào tạo công nhân lành nghề cũng như quá trình thay đổi
mẫu mã sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị hiếu của thị trường. Cần thực hiện các
chương trình điều tra thị trường mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đang sản
xuất. Quan tâm vào những nghề thử công có năng lực cạnh tranh cao có nhu câu
và lợi thế cho xuất khẩu.
Khuyến khích các mô hình sảo xuất mới như trang trại nông trại, sản
xuất chăn nuôi theo hướng công nghiệp, các công ty cổ phần, hợp tác xã địch
vụ… các làng thanh niên lập nghiệp, các hội tương trợ trong sản xuất.
Cần có những chương trình khuyến nông, phòng chống thiên tai, dịch
bệnh phòng rủi ro trong sản xuất cho nông dân, tạo mọi điều kiện cho nông dân
được tiếp cận với các giống cây trồng con vật nuôi mới có hiệu quả kinh tế cao
qua các chương trình khuyên lâm, khuyên nông, khuyến ngư…mở các buổi hội
thảo vầ kinh tế nông nghiệp, giới thiệu các sản phẩm khoa học công nghệ hiện
đại cho nông dân.
Về chính sách xuất khẩu lao động cần chú trọng đến công tác hỗ trợ vốn
vay, công tác đào tạo về ngoại ngữ, nghề nghiệp…các chính sách bảo hộ cho
người lao động, đồng thời cần có những chính sách hợp lý để tận dụng lao động
nước ngoài về nước có tay nghề kỹ thuật cao. Song song với các quá trình xuất
khẩu lao động trong nước phải chú trọng xuất khẩu lao động sang các nước trong
khu vực và thế giới. Tăng cường tuyên truyền pháp luật chính sách của nhà nước,
để nông dân hiểu và làm theo pháp luật tránh xa các tệ nạn xã hội. Tăng cường

công tác giáo dục tại nông thôn, đào tạo thế hệ trẻ có trình độ tri thức và văn hóa.


24

Thứ ba, những giải pháp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng gắn liền với
xây dựng lối sống văn hóa mới ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là điều kiện quan trọng
trong tiến trình nâng cao dân trí tại nông thôn Việt Nam hiện nay. Cụ Thể như
sau: Phát triển Điện _ Đường _ Trường _ Trạm tại nông thôn, các cơ sở an sinh
xã hội, vui chơi cho trẻ em. Nhất là các hệ thống trường mầm non tại nông thôn;
Chú trọng công tác giáo dục tại nông thôn, tuyên truyền các chính sách của nhà
nước thông qua các cuộc họp định kỳ của làng xã, gắn liền với các lợi ích cụ thể
như các hình thức khuyến nông, hỗ trợ… tuyên truyền lối sống văn hóa mới, bảo
vệ giá trị tốt đẹp loại bỏ hủ tục… tuyên dương khen thưởng các gia đình sản xuất
giỏi, gia đình văn hóa…Thực hện chính sách kế hoạch hóa gia đình… giúp nhân
dân thấy được tác hại của gia đình đông con, khuyến khích nhân dân áp dụng các
biện pháp tránh thai… Dần đưa công nghệ thông tin về nông thôn với các trạm
văn hóa làng, xã được kết nối Internet sách báo nông nghiệp …Khôi phục các lễ
hội truyền thống văn hóa, qua đó tuyên truyền gióa dục thế hệ trẻ giữ gìn phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tóm lại, nếu bằng nội lực thì người nông dân ở nông thôn chỉ đảm bảo
vấn đề mưu sinh. Do vậy muốn phát triển bền vững nông dân ở nông thôn cần rất
nhiều đến sự hổ trợ quan tâm của nhà nước, doanh nghiệp… Cần những cải cách,
đầu tư hợp lý của nhà nước và những can thiệp của quốc tế về đầu tư, đào tạo
nâng cao năng lực toàn diện. Phát triển mở rộng mô hình Tam nông trong việc
giải quyết vấn đề nông dân, thực hiện nguyên tắc tứ gia: Nhà nông – Nhà nước –
Nhà doanh nghiệp – Nhà khoa học trên cở sở cùng có lợi cùng nhà công tác xã hội
tạo ra thuyết ngũ gia phát triển bền vững. làm được như vậy đã góp phần giải
quyết tốt vấn đề nông dân trong thời đại hiện nay. Đưa nước ta tiến nhanh, tiến

mạnh, tiến vững chắc lên CNXH hoàn thành quá trình CNH_HĐH đất nước.


25

KẾT LUẬN
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất – kinh doanh - dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội mà ở đó nông dân đóng vai trò quyết định, bởi giai cấp
nông dân là một lực lượng chính trị - xã hội, là lực lượng sản xuất quan trọng,
nông dân và nông thôn còn là nơi lưu giữ kho tàng văn hoá dân tộc. Nhìn lại
chặng đường hơn 20 năm đổi mới, có thể đánh giá rằng, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to
lớn. Nhờ phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa với tốc độ khá cao,
nâng cao được năng suất, chất lượng, hiệu quả mà an ninh lương thực quốc gia
được bảo đảm vững chắc và một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
đã có vị thế cao trên thị trường thế giới. Nhờ chuyển dịch kinh tế nông thôn theo
hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề và đổi mới các hình thức tổ chức
sản xuất cùng với tăng đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội mà bộ
mặt nông thôn ở nhiều vùng trong nước đã có những thay đổi rõ rệt. Ðời sống vật
chất và tinh thần của dân cư nông thôn mà chủ yếu là nông dân đã được cải thiện
về căn bản, trong đó xóa đói, giảm nghèo là một thành tựu nổi bật.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn, điều quan trọng trước hết là mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa
phương cần phải quán triệt sâu sắc những quan điểm của Đảng và đặc điểm kinh
tế – xã hội hiện nay ở nước ta để vận dụng một cách sáng tạo vào quá trình tổ
chức thực hiện. Xác định rõ nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn hiện nay, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở
những tiến bộ khoa học, kỹ thuật và trong công nghệ sản xuất ; mở những ngành
nghề phù hợp trong nông thôn, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế

biến nông sản ; tập trung mọi nguồn vốn xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng trong


×