Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Giáo dục đạo đức môi trường cho thanh niên tỉnh vĩnh long trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.13 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Thùy Trang

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
CHO THANH NIÊN TỈNH VĨNH LONG
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Thùy Trang

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
CHO THANH NIÊN TỈNH VĨNH LONG
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số
: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội
dung trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đảm bảo tính trung
thực; nội dung nghiên cứu khách quan và chưa được công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thùy Trang


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến quý thầy cô của
Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long, Học viện Khoa học xã hội đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi tham gia tốt khóa học và đặc biệt là cô giáo - TS. Nguyễn Thị
Lan Hương - người đã hướng dẫn tận tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài khoa
học này nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong
muốn được sự nhận xét, góp ý của quý thầy cô và các bạn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thùy Trang



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG CHO THANH NIÊN VIỆT
NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ......................................................................... 8

1.1 Một số khái niệm cơ bản ...................................................................................8
1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục đạo đức môi trường cho thanh niên ...............15
1.3. Nội dung của GD ĐĐMT cho thanh niên Việt Nam ......................................21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG
CHO THANH NIÊN TỈNH VĨNH LONG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY .......... 35

2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Long ............35
2.2. Những thành tựu trong giáo dục đạo đức môi trường cho thanh niên tỉnh
Vĩnh Long hiện nay ...............................................................................................37
2.3. Một số hạn chế trong công tác GD ĐĐMT cho thanh niên tỉnh Vĩnh Long
trong tình hình hiện nay .........................................................................................47
2.4. Một số giải pháp thúc đẩy việc GD ĐĐMT cho thanh niên trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long ..............................................................................................................58
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BVMT

: Bảo vệ môi trường

2. ĐĐMT


: Đạo đức môi trường

3. ĐVTN

: Đoàn viên thanh niên

4. GDĐĐ

: Giáo dục đạo đức

5. GD ĐĐMT

: Giáo dục đạo đức môi trường

6. HS

: Học sinh

7. HSSV

: Học sinh sinh viên

8. SV

: Sinh viên

9. TN – MT

: Tài nguyên và môi trường


10. UBND

: Ủy Ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ của sự
bùng nổ thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay.
Những thành tựu đó đã thúc đẩy sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất lượng
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con người và làm thay đổi
cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới. Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam từ một
nước nông nghiệp đang có những bước phát triển nhanh về kinh tế. Dưới tác động
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại Việt Nam đang từng ngày, từng
giờ thay đổi diện mạo của mình.
Song, bên cạnh sự phát triển trên thì ô nhiễm môi trường của Việt Nam đã và
đang trở thành vấn đề nóng bỏng, cấp bách. Vì thế, BVMT trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay là yêu cầu cấp thiết đối với cả hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân. Nhận thức rõ tầm
quan trọng của vấn đề này, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách về BVMT, điển hình là Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về BVMT trong thời kỳ công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước; chỉ thị 29 – CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban
Bí thư và thông tư thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị; Luật bảo
vệ môi trường (sửa đổi); các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật
BVMT. Các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp quy này đi vào cuộc sống đã bước
đầu tạo nên những chuyển biến tích cực trong hoạt động BVMT.
Tuy nhiên, trong Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính
trị (khóa IX) về BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cũng
đã nhận định: “Môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, có nơi, có lúc

đã đến mức báo động… các thảm họa do thiên tai và những diễn biến xấu về khí
hậu toàn cầu đang tăng, gây áp lực lớn lên tài nguyên và môi trường, đặt công tác
BVMT trước những thách thức gay gắt” [19, tr.1]. Sở dĩ, thực trạng môi trường như

1


vậy là do chúng ta còn chưa nhận thức một cách đúng đắn về tầm quan trọng của
công tác bảo vệ, phát triển và gìn giữ môi trường; chưa biến nhận thức, trách nhiệm
của bản thân đối với việc BVMT thành hành động cụ thể; chưa đảm bảo được sự
hài hòa giữa phát triển kinh tế và BVMT,…
Chính vì vậy, việc đẩy mạnh GD ĐĐMT cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt
là lực lượng thanh niên, “rường cột” của nước nhà là vô cùng cần thiết.
Trước tình hình trên, Vĩnh Long là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu
Long - vùng trọng điểm nông nghiệp và an ninh lương thực của cả nước. Vĩnh Long
nằm giữa vùng ảnh hưởng của hai trung tâm kinh tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh
và thành phố Cần Thơ, là tỉnh có mật độ dân số cao, với 70% dân số sống ở nông
thôn và chủ yếu làm nông nghiệp. Nông nghiệp tạo ra hơn 1/2 GDP và chiếm gần
90% giá trị xuất khẩu, cho nên nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Tuy nhiên, những năm qua tỉnh cũng
phải đối mặt với những hệ lụy của môi trường như: ô nhiễm không khí do khói bụi
và tiếng ồn, ô nhiễm không khí ở những làng nghề sản xuất gạch ngói và gốm, một
số nơi dư lượng của các chế phẩm hóa học làm cho đất bị chai cứng, nứt nẻ, giảm
khả năng duy trì các chất dinh dưỡng, tăng hàm lượng các độc tố. Nguồn rác đến từ
rác thải sinh hoạt từ các khu dân cư, rác thải từ các chợ, rác thải từ các cơ sở sản
xuất công nghiệp, các làng nghề, rác thải trong xây dựng, rác thải y tế… cũng ngày
càng quá tải. Đặc biệt, tình trạng bị hạn và xâm ngập mặn hiện nay của đồng bằng
sông Cửu Long trong đó có Vĩnh Long là một trong những thách thức lớn.
Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc tái sản xuất của tỉnh đạt hiệu quả cao, vấn
đề GD ĐĐMT là rất cần thiết, nhất là GD ĐĐMT cho thanh niên tỉnh Vĩnh Long.

Bởi lẽ, “Thanh niên chính là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội” [20, tr.3]. Với Vĩnh Long, vai
trò của thanh niên trong xây dựng đất nước nói chung và trong BVMT có một tầm
quan trọng đặt biệt.
2


Nhận thức được tầm quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp BVMT và để
thực hiện được sứ mệnh này nhất thiết phải chú trọng việc GD ĐĐMT cho thanh
niên của tỉnh, chính vì thế tác giả chọn “Giáo dục đạo đức môi trường cho thanh
niên tỉnh Vĩnh Long trong tình hình hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại nước ta, trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết
về ĐĐMT và GD ĐĐMT, điển hình là một số công trình như sau:
Đạo đức môi trường - Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới, Báo
cáo đề tài cấp bộ, do PGS.TS Nguyễn Văn Phúc chủ nhiệm, Hà Nội, 2010. Trong
công trình này tác giả đã nêu lên những quan điểm khác nhau về ĐĐMT, những
chuẩn mực chung và căn bản nhất về ĐĐMT như sau: Phải biết tôn trọng và bảo vệ
sự hài hòa của hệ thống con người – xã hội – tự nhiên; cần sử dụng tài nguyên tiết
kiệm và có hiệu quả; tự giác và tự nguyện nâng các yêu cầu BVMT trong các hoạt
động sản xuất, khai thác, y tế, du lịch… được thể chế hóa trong các cam kết quốc tế
hoặc luật môi trường trong các quốc gia; nâng cao tinh thần tương trợ và phối hợp
hành động giải quyết các sự cố môi trường; giữ gìn môi trường sống xanh, sạch, đẹp
trong đời sống thường nhật; thực hành lối sống văn hóa, thể hiện quan hệ hài hòa
giữa mức sống và ý nghĩa cuộc sống. Đồng thời qua sự phân tích kinh nghiệm
BVMT trên thế giới tác giả đã đưa ra một số giải pháp xây dựng ĐĐMT ở nước ta
hiện nay.

Đạo đức môi trường ở nước ta - Lý luận và thực tiễn (GS.TS Vũ Dũng; Viện
Tâm lý học; nhà xuất bản Từ điển bách khoa; 2011). Công trình này đã đề cập đến
một số nội dung chính như sau:
Trong phần “Một số vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức môi trường” tác giả
trình bày một số khái niệm và vấn đề cơ bản như: đạo đức, ĐĐMT, các tiêu chí
đánh giá ĐĐMT, sự xuất hiện và những khuynh hướng cơ bản của ĐĐMT, các chức
năng cơ bản của ĐĐMT.

3


Bên cạnh đó, tác giả cũng tập trung phân tích kinh nghiệm BVMT một
số nước nhìn từ góc độ ĐĐMT, chỉ ra những khía cạnh đạo đức của hoạt động
BVMT. Đây là những kinh nghiệm quý đối với Việt Nam chúng ta.
Từ góc độ của ĐĐMT, tác giả cũng chỉ ra thực trạng hành vi ĐĐMT ở nước
ta. Tác giả cho rằng vẫn còn tồn tại nhiều hành vi mang tính phi ĐĐMT xảy ra ở
nhiều nơi từ thành thị, nông thôn đến miền núi. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn tới sự ô nhiễm môi trường và việc BVMT chưa bền vững ở nước ta
hiện nay. Điều đáng lo ngại là nhiều khi chúng ta đã ý thức được hậu quả của hành
vi của mình, song vẫn thực hiện hành vi đó.
Trong cuốn Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam (2003),
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã trình bày: mục tiêu của phát triển bền
vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên…
Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2004) đã cho xuất bản cuốn “Chiến lược bảo
vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Nêu lên thực
trạng môi trường ở nước ta và những thách thức đặt ra, quan điểm, mục tiêu và các
nội dung cơ bản BVMT, các giải pháp thực hiện chiến lược và việc tổ chức thực
hiện chiến lược BVMT ở nước ta.
Ngày 29.11.2005, Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã

thông qua Luật bảo vệ môi trường để thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 1993.
Luật quy định những chuẩn mực hàng đầu để BVMT, thực hiện các chuẩn mực này
cũng là thực hiện các hành vi ĐĐMT.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu trên. Có thể kể
đến một số công trình có liên quan như: Hà Huy Thành (chủ biên), Một số vấn đề xã
hội, nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Nguyễn Đức
Khiển – Nguyễn Kim Hoàng, Đạo đức môi trường, nhà xuất bản Truyền thông –
thông tin. Hà Nội, 2011; Hồ Sỹ Quý (chủ biên), Mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000; Trần

4


Lê Bảo (chủ biên), Văn hóa sinh thái nhân văn, nhà xuất bản Văn hóa - thông tin,
Hà Nội, 2001; Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), Quản lý Nhà nước đối với tài
nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội – nhân văn,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Phạm Thị Ngọc Trầm (2005), Đạo
đức sinh thái trong hoạt động khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, Tạp chí Triết học, số 12; Phạm Thị
Ngọc Trầm Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường,
Triết học, số 3/2002; Hồ Sỹ Quý, Về đạo đức môi trường, Triết học, số 9/2005;
Trần Đắc Hiến (2009), Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải
pháp, Tạp chí Triết học, số 11; Nguyễn Thị Lan Hương (2010), Đạo đức môi
trường và truyền thống mục đích luận, Tạp chí Triết học, số 12 và Trách nhiệm môi
trường – một phương diện của trách nhiệm xã hội, Tạp chí Triết học, số 8/2009…
Các công trình trên đã phân tích mối quan hệ giữa con người và môi trường.
Trong đó môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của
xã hội. Con người tác động vào môi trường nhằm phục vụ cho nhu cầu của mình, sự
tác động đó một mặt giúp con người tận dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên, con

người từ chỗ lệ thuộc vào tự nhiên đến cải tạo chinh phục tự nhiên. Tuy nhiên, dưới
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, môi trường tự nhiên đang bị ô nhiễm, con
người luôn phải sống trong cảnh lo âu về thiên tai, dịch bệnh… Do vậy, BVMT tự
nhiên đang trở thành một yêu cầu cấp bách. Trong đó, giáo dục là một trong những
giải pháp hàng đầu đối với BVMT. Bởi lẽ, thông qua giáo dục sẽ hình thành nên ý
thức trách nhiệm, nghĩa vụ và định hướng hành vi BVMT ở con người.
Công trình Giáo dục đạo đức môi trường cho học sinh trung học cơ sở (TS.
Dương Quang Ngọc chủ nhiệm, Bộ Giáo dục và đào tạo - Viện khoa học giáo dục
Việt Nam, Hà Nội, 2009). Công trình này được thực hiện nhằm giải quyết các mục
tiêu như sau: Làm sáng tỏ các khái niệm về ĐĐMT, giá trị ĐĐMT và đưa ra một số
giá trị đạo đức cơ bản cần giáo dục cho học sinh trung học cơ sở. Đồng thời, tác giả
còn đưa ra một số định hướng mang tính giải pháp để thực hiện GD ĐĐMT cho học
sinh trung học cơ sở có hiệu quả.

5


Công trình Vấn đề giáo dục sinh thái cho sinh viên Việt Nam hiện nay đề tài
luận án tiến sĩ của Phan Thị Hồng Duyên, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật
lịch sử, được bảo vệ năm 2012; Giáo dục bảo vệ môi trường cho sinh viên trường
đại học sư phạm Đồng Tháp, Lê Hiển Dương (2013), Luận văn Thạc sĩ môi trường
học, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học quốc gia Hà Nội...
Các công trình nhằm cung cấp cho sinh viên các chuẩn mực ứng xử với môi trường
sinh thái đồng thời hình thành cho sinh viên những tình cảm, niềm tin, tri thức và
thói quen và từ đó biến thành những động cơ, nhu cầu và hành vi đạo đức sinh thái
bên trong mỗi cá nhân sinh viên.
Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu điển hình trên đã tập trung
nghiên cứu ĐĐMT và GD ĐĐMT với nhiều góc độ khác nhau. Song những công
trình trực tiếp bàn về GD ĐĐMT cho thanh niên cả nước nói chung và thanh niên

tại tỉnh Vĩnh Long nói riêng chưa được đề cập một cách cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn của GD ĐĐMT cho thanh niên nói
chung, luận văn tập trung phân tích thực trạng GD ĐĐMT cho thanh niên tại tỉnh
Vĩnh Long hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả GD ĐĐMT cho thanh niên tại tỉnh Vĩnh Long trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận của GD ĐĐMT và tầm quan trọng của GD ĐĐMT
cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng GD ĐĐMT cho thanh niên tỉnh Vĩnh Long hiện nay,
từ đó đánh giá ưu điểm, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GD ĐĐMT cho
thanh niên tỉnh Vĩnh Long trong tình hình hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
GD ĐĐMT cho thanh niên nói chung và ở địa bàn tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
6


4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo cứu thực trạng GD ĐĐMT cho thanh niên trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2011 - 2015.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về BVMT
đồng thời kế thừa các công trình nghiên cứu, bài viết trước đó có liên quan đến đề
tài luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn
sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: lịch sử và logic, phân tích và tổng
hợp, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GD
ĐĐMT cho thanh niên nói chung và thanh niên tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các đề tài nghiên cứu về ĐĐMT và vấn đề GD ĐĐMT cho thanh niên, phục vụ
công tác nghiên cứu, giảng dạy, những vấn đề liên quan đến GD ĐĐMT cho thanh
niên hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 7 tiết.

7


Chƣơng 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG CHO THANH NIÊN VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1 Một số khái niệm cơ bản
* Đạo đức: Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề
thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa), còn “luân lý” thường
xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Ethicos nghĩa là lề thói;
tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi nói đến đạo đức cũng là nói đến những lề
thói, tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao
tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt
nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi,
về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên.

Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Những nhà duy vật trước Mác, tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo
đức trong mối quan hệ giữa người với người. Song, quan niệm về con người trong
ông chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp,
dân tộc và thời đại. Tuy nhiên, đóng góp của ông là ở chỗ coi trọng những phẩm
chất người, đặc biệt là những phẩm chất đạo đức.
C.Mác_Ph. Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời
sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Đạo đức chính là sản phẩm của lao
động, của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. “Xét cho
cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình
hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [37, tr.137]. Và đạo đức chính “là một sản
phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” [38, tr.43]
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi nhất trí với quan niệm đạo đức như
sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp qui tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp
8


với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân –
cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội” [12, tr.55].
Theo đó, đạo đức là một hình thái ý thức của xã hội. Đạo đức hình thành rất
sớm trong lịch sử phát triển của nhân loại và được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi
thời đại quan tâm. Sự phát triển của đạo đức xã hội cho thấy sự tiến triển giá trị của
con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất và thông qua sự đấu tranh, gạn lọc,
kế thừa các giá trị. Nội dung cũng như hình thức biểu hiện đạo đức ngày càng
phong phú và hoàn thiện. Về mặt cấu trúc, đạo đức bao gồm ý thức, tình cảm và
hành động thực tiễn. Ba yếu tố đó thống nhất với nhau tạo nên nhân cách của một
con người. Vì vậy, GDĐĐ phải chú ý đến ba mặt trên.
* Đạo đức môi trường: Nếu như đạo đức điều chỉnh mối quan hệ giữa người
và người, giữa cá nhân và xã hội thì ĐĐMT với tư cách là một bộ phận của đạo đức

lại là cơ sở cho điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Có rất nhiều
quan niệm khác nhau về ĐĐMT, trong đó phải kể đến các quan niệm cơ bản sau:
Thứ nhất là quan niệm lấy con người là trung tâm (anthropocentric). Quan
niệm này cho rằng: Con người là trung tâm và quan trọng nhất trên hành tinh. “Tất
cả mọi trách nhiệm về mặt môi trường đều xuất phát từ lợi ích của con người mà
thôi. Ở đây người ta cho rằng chỉ có con người là những sinh vật mới đáng kể về
mặt đạo đức. Vì môi trường vô cùng hệ trọng cho sự an vui và sự sống còn của con
người nên chúng ta phải có bổn phận đối với môi trường, một bổn phận xuất phát từ
lợi ích của con người” [dẫn theo 30, tr.139]. Quan niệm này tuy có quan tâm đến
môi trường nhưng cơ bản chỉ quan tâm đến lợi ích con người, đề cao quyền con
người hơn hết thảy quyền của các sinh vật khác. Từ đó, quan niệm này cho rằng,
con người có toàn quyền trong việc khai thác và sử dụng tự nhiên, mà không quan
tâm nhiều lắm đến việc cần phải tôn trọng tự nhiên. Đó cũng chính là nguyên nhân
sâu xa của tình trạng ngày càng xấu đi của môi trường.
Thứ hai là quan niệm đạo đức học duy sinh vật (biocentric). Quan niệm này
cho rằng “tất cả một hình thức của sự sống đều đương nhiên có quyền tồn tại” [30,
tr.150]. Mọi sinh thể, mọi vật thể đều có giá trị nội tại. Đại diện cho quan niệm này

9


là P.Taylor, theo ông, mỗi một sự vật, một thực thể bất kỳ đều có hai giá trị: “Giá trị
thực dụng: là giá trị của nó đối với con người, là khả năng đáp ứng nhu cầu nào đó
của con người; Và giá trị nội tại là giá trị vốn có của nó với tư cách là một thực thể
tương ứng và bình đẳng với các thực thể khác. Vì, con người thường chỉ thấy được
giá trị thực dụng mà không thấy được giá trị nội tại của sự vật cho nên con người
cho mình cái quyền tự do khai thác, hủy hoại tự nhiên nhằm phục vụ cho nhu cầu
ích kỷ của mình” [47, tr.48 - 49]. Theo quan niệm này thì tự nhiên là bình đẳng về
mặt giá trị với con người. Vì thế con người phải tôn trọng tự nhiên, có trách nhiệm
bảo vệ tự nhiên, BVMT.

Thứ ba là quan niệm đạo đức học duy sinh thái (ecocentrism). Quan niệm
này cho rằng: “Môi trường đáng được quan tâm về mặt đạo đức chứ không phải
quan tâm vì những lợi ích của con người (hay của các động vật)” và “Môi trường có
những quyền rõ ràng, nó có tư cách như là con người về mặt đạo đức, nó đáng được
chăm sóc, nó có giá trị tự thân. Môi trường tự nó được xem là một giá trị đạo đức
ngang với con người” [dẫn theo 30, tr.140]. Quan niệm này cũng đòi hỏi con người
cư xử với tự nhiên một cách “có đạo đức”. Đại diện cho quan niệm này là Aldo
Leopold. Ông cho rằng tất cả các loài, kể cả con người, là sản phẩm của một quá
trình tiến hóa lâu dài trong quá trình sống của họ. A.Leopold đề xuất một quy luật
đạo đức phổ quát nhằm định hướng và đánh giá hành động của con người như sau:
“Một hành động được coi là đúng khi nó nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, sự ổn định và vẻ
đẹp của cộng đồng sinh vật, nếu ngược lại thì đó là một hành động sai” [dẫn theo
12, tr.98]. Tư tưởng của A.Leopold về việc xây dựng một thái độ, một quan hệ mới,
bình đẳng giữa con người và tự nhiên đã được nhiều học giả tiếp thu, phát triển và
mở rộng để xây dựng một nền đạo đức mới - ĐĐMT.
Bên cạnh những quan điểm điển hình trên, có thể kể đến một số khái niệm
ĐĐMT như sau:
Từ điển Bách khoa thư xuất bản tại Mỹ cho rằng: ĐĐMT là một bộ phận của
triết học môi trường nghiên cứu mối quan hệ đạo đức giữa con người với môi
trường tự nhiên. Còn trong Bách khoa thư triết học Stanford thì khẳng định: ĐĐMT

10


là lĩnh vực nghiên cứu mối quan hệ đạo đức của con người với các giá trị và chuẩn
mực đạo đức đối với môi trường.
Trong cuốn sách Giới thiệu về đạo đức môi trường của Ernest Partridge,
Trường Đại học tổng hợp California, Mỹ (2008) cho rằng: ĐĐMT thể hiện trách
nhiệm của con người đối với việc tôn trọng đất đai, thực vật, tài nguyên, sinh vật
không phải là con người.

Theo Baird Callicort (2008) thì: ĐĐMT là lĩnh vực nghiên cứu những phạm
trù, những quan điểm đạo đức liên quan đến sự phát triển dân số, sự tiêu dùng tài
nguyên, đảm bảo các quyền của động vật, sinh vật sống… [12, tr.59 - 60].
Ở Việt Nam, ĐĐMT đôi khi còn được gọi là đạo đức sinh thái. Trong bài viết
“Xây dựng đạo đức sinh thái, một trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên”,
tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm cho rằng: Đạo đức sinh thái bao gồm những quan điểm,
quan niệm, tư tưởng, tình cảm, những nguyên tắc, chuẩn mực, quy định, điều chỉnh
hành vi của con người trong quá trình biến đổi và cải tạo tự nhiên nhằm phục vụ cho sự
sống của con người, cho sự tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội trong những
điều kiện tự nhiên - xã hội nhất định [xem 58]. Trong công trình nghiên cứu “Văn hóa
sinh thái nhân văn” do Trần Lê Bảo chủ biên, các tác giả đã sử dụng thuật ngữ đạo đức
sinh thái để chỉ ĐĐMT và định nghĩa: “Đạo đức sinh thái là quan niệm và cách ứng xử
của con người và xã hội loài người đối với giới tự nhiên nhằm đảm bảo sự cùng tồn tại
và phát triển của tự nhiên và xã hội” [4, tr.161].
Tác giả Hồ Sỹ Quý thì cho rằng: ĐĐMT là những chuẩn mực tự nhiên, bình
thường ngấm sâu trong hành vi và trong phong cách sinh hoạt, ứng xử của mỗi
người và mỗi cộng đồng. Con người BVMT, tôn trọng giới tự nhiên và cẩn trọng
trước hệ sinh thái một cách tự nhiên, không cần ai ra lệnh, không vì mục đích vụ lợi
nào khác; ĐĐMT biểu hiện thiết thực trong hành vi của mỗi người, mỗi cộng đồng.
Trình độ cao của ĐĐMT biểu hiện ở ý thức và kỹ năng xử lý những vấn đề môi
trường; ĐĐMT, trước hết, được biểu hiện ở tình cảm tự nhiên của con người - con
người biết ửng xử thân thiện và biết tôn trọng môi trường sống quanh họ [xem 49].

11


Đáng chú ý nhất trong các định nghĩa về ĐĐMT cho đến nay, theo chúng tôi
là hai định nghĩa sau:
Trong giáo trình “Đạo đức môi trường”, tác giả Nguyễn Văn Phúc định
nghĩa: “Đạo đức môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh

quan hệ giữa con người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững” [47, tr.73].
Còn theo tác giả Vũ Dũng thì: “Đạo đức môi trường là tổng hợp các qui tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình với
môi trường sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã
hội và với sự phát triển môi trường một cách bền vững, thể hiện sự tôn trọng của
con người đối với môi trường” [12, tr.60].
Dù nhấn mạnh phương diện này hay phương diện khác của ĐĐMT thì các
định nghĩa trên đều cho thấy những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, coi ĐĐMT là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh
và đánh giá hành vi, cách ứng xử của con người đối với môi trường.
Thứ hai, nhấn mạnh tính tự giác trong điều chỉnh hành vi của con người với
môi trường, coi đó là một đặc trưng của đạo đức.
Thứ ba, xem ĐĐMT là lĩnh vực thể hiện mối quan hệ của con người với
môi trường tự nhiên (tài nguyên, đất đai, thực vật, động vật, không khí...). Đây
là mối quan hệ đề cao sự tôn trọng và có trách nhiệm của con người đối với
môi trường.
Như vậy, ĐĐMT thể hiện hành vi của con người đối với môi trường vừa
mang tính bắt buộc và vừa mang tính tự giác. Do đó, để điều chỉnh hành vi này
phương pháp giáo dục là phương pháp mang lại hiệu quả nhất.
* Giáo dục và giáo dục đạo đức
Khái niệm giáo dục được sử dụng trong khoa học sư phạm hiện nay để chỉ
“Quá trình hình thành, phát triển nhân cách con người, được tổ chức một cách có
mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục và
đối tượng giáo dục nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội mà loài
người đã tích lũy trong lịch sử. Đó là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có

12


kế hoạch, có phương pháp mà nhà giáo dục tiến hành trong các cơ quan chuyên

biệt” [23, tr.9]. Bản chất của giáo dục là quá trình truyền thụ và tiếp thu, lĩnh hội tri
thức của các thế hệ người nhằm mục tiêu xác định đáp ứng yêu cầu của phát triển
xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đồng thời mục đích cuối cùng là xây
dựng nhân cách con người toàn diện.
Theo đó, giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng của giáo dục
nhằm hình thành ở họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng, hành vi đạo đức, đó là
những phẩm chất đạo đức cần thiết theo yêu cầu của xã hội, trong từng giai đoạn
phát triển nhất định.
GDĐĐ với tư cách là phức hợp các hoạt động cũng chính là giải pháp nâng
cao ý thức đạo đức của con người, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của đạo đức
đối với hành vi của con người, của các thành viên xã hội phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Sự cần thiết GDĐĐ là
do hệ thống giá trị đạo đức xã hội luôn vận động biến đổi theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, GDĐĐ nhằm góp phần định hướng giá trị đạo đức, điều chỉnh hành
vi đạo đức xã hội, xây dựng nhân cách theo nhu cầu phát triển của xã hội.
* Giáo dục ĐĐMT
Giáo dục cũng là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu đối với
việc BVMT. Bởi lẽ, thông qua giáo dục hình thành ở các cá nhân, cộng đồng những
nhận thức đúng đắn, thái độ và hành vi BVMT phù hợp. Trong giáo dục BVMT thì
GD ĐĐMT có vai trò quan trọng. Nó hướng tới sự hình thành ở con người ý thức
trách nhiệm và nghĩa vụ đối với việc BVMT, khơi dậy lương tâm, ý thức đối với
vấn đề BVMT.
GD ĐĐMT là một lĩnh vực của GDĐĐ. Cũng như mọi hình thức giáo dục
khác, “GD ĐĐMT là một quá trình giáo dục cho con người những tri thức khoa
học, hiểu biết đúng đắn về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, về sự thích
nghi của con người với những biến đổi của môi trường tự nhiên nhằm đảm bảo sự
thống nhất biện chứng giữa con người với tự nhiên, hướng tới mục tiêu phát triển
bền vững vì cả giới tự nhiên và con người, giúp con người có được tri thức đúng

13



đắn về giá trị của môi trường tự nhiên đối với cuộc sống của chính mình. Đồng thời,
giáo dục con người những tình cảm yêu quý, tôn trọng tự nhiên, thân thiện với thiên
nhiên, có thái độ, trách nhiệm và lối sống văn hoá đối với tự nhiên, sống hòa thuận
với thiên nhiên” [xem 54].
GD ĐĐMT gắn bó chặt chẽ với giáo dục môi trường mà thực chất là cung
cấp cho con người những nhận thức đúng đắn về môi trường. Bởi lẽ, giáo dục môi
trường có mục đích “làm cho cá nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất phức
tạp của môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều
nhân tố sinh học, lý học, xã hội, kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ kiến thức, nhận
thức về giá trị, thái độ và kỹ năng thực hành để họ tham gia một cách có trách
nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý
chất lượng môi trường” [31, tr.178].
Như vậy, GD ĐĐMT là một hoạt động có định hướng, nhằm cung cấp tri
thức ĐĐMT, những chuẩn mực, nguyên tắc trong ứng xử với môi trường tự nhiên.
ĐĐMT hình thành ở đối tượng được giáo dục những tình cảm, tri thức, niềm tin, ý
chí, thói quen và từ đó biến thành nhu cầu, động cơ và năng lực ĐĐMT bên trong
mỗi cá nhân. ĐĐMT thúc đẩy sự quan tâm đến lợi ích của tự nhiên, của cộng đồng
xã hội, từ đó hình thành con người thái độ, hành vi đạo đức sinh thái đúng, ứng xử
tích cực đối với các vấn đề môi trường cụ thể, khắc phục những hành vi lệch chuẩn
trong ứng xử với tự nhiên, đồng thời xây dựng tình yêu thiên nhiên, sống thân thiện
với môi trường thiên nhiên, bồi dưỡng lòng yêu thương con người, đảm bảo sự hài
hòa giữa quyền lợi của cá nhân với quyền lợi của người khác và cộng đồng trong
ứng xử với môi trường tự nhiên vì sự phát triển bền vững của cả tự nhiên, cả xã hội.
Như vậy, theo chúng tôi thực chất của GD ĐĐMT là xây dựng quan niệm,
thái độ và chuẩn mực nhân văn của con người với tự nhiên, từ đó giúp cho con
người hành động phù hợp với những chuẩn mực nhân văn đó. Những chuẩn mực
ĐĐMT xã hội luôn có tính chất mệnh lệnh. Vì thế hành vi ứng xử với tự nhiên được
coi là có đạo đức phải là một hành động tự giác, tự nguyện, xuất phát từ động cơ,

tình cảm, niềm tin đạo đức của con người. Quá trình nội tâm hóa những quy tắc
ĐĐMT thành hành động tự giác cũng chính là bản chất của việc GD ĐĐMT.

14


1.2. Tính tất yếu của việc giáo dục đạo đức môi trƣờng cho thanh niên
GD ĐĐMT cho thanh niên nước ta hiện nay là công việc quan trọng, cần
thiết vì các lý do sau:
Thứ nhất, ô nhiễm môi trường hiện nay mang tính chất toàn cầu
Để cảnh báo cho tình trạng ô nhiễm môi trường mang tính chất toàn cầu vào
ngày 18 tháng 11 năm 1992, 1.572 nhà khoa học trên toàn thế giới đã cùng nhau
phát đi lời cảnh báo về vấn đề môi trường trên phạm vi toàn thế giới về bất hạnh to
lớn mà con người phải hứng chịu cũng như những đột biến đang xảy ra trên trái đất
khi khởi thảo văn kiện “Lời cảnh báo của các nhà khoa học đối với nhân loại”. Phần
mở đầu của văn kiện nêu: nhân loại và thế giới tự nhiên đang bước trên một con
đường đầy mâu thuẫn với nhau. Văn kiện cũng chỉ ra những nguy cơ môi trường
hiện nay: tầng ôzôn bị mỏng đi, không khí bị ô nhiễm nặng, lãng phí nguồn nước,
biển cả bị nhiễm độc, ruộng đồng bị phá hoại, các loài giống động thực vật bị giảm
đi, dân số tăng nhanh… một loạt vấn đề. Trên thực tế, những nhân tố đó làm nguy
hại đến các sinh mệnh trên trái đất. Các nhà khoa học về môi trường đã khái quát
lên 8 yếu tố lớn vấn đề ô nhiễm môi trường: mưa axít; nồng độ khí CO2 tăng trong
khí quyển; tầng ôzôn bị phá hoại; sự tồn tại do các chất hóa học; nước sạch bị ô
nhiễm; đất đai bị sa mạc hoá; rừng mưa nhiệt đới không ngừng bị giảm; sự uy hiếp
về hạt nhân [31, tr.78-79]
Ở Việt Nam, ô nhiễm môi trường cũng đang là một thách thức lớn. Ô nhiễm
môi trường từ các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế, làng nghề… đang gia tăng
nhanh về số lượng, quy mô và mức độ, tác động xấu lên môi trường, làm cho môi
trường đất, nước, không khí nhiều nơi bị ô nhiễm, có nơi đã đến mức nghiêm trọng
có nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái, ảnh hưởng nhiều mặt đến

đời sống kinh tế - xã hội, điều kiện sống và sức khỏe của nhân dân. Theo Báo cáo
môi trường quốc gia năm 2010, môi trường nước ta đang trong tình trạng như sau:
1. Dân số và quá trình đô thị hóa tăng nhanh ở nước ta đã gây hậu quả đáng
kể đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội và môi trường. Năm 2005 tổng dân số
nước ta có 82,4 triệu người, năm 2010 đã là 86,9 triệu người.

15


2. Về biến đổi khí hậu: Ở nước ta biến đổi khí hậu được hiểu là sự thay đổi
một cách bất thường một số hiện tượng khí hậu tự nhiên theo chiều hướng bất lợi
đối với môi trường, sự phát triển kinh tế cũng như sức khỏe của con người. Tuy
không phải là một nước có mức độ phát khí thải nhà kính cao nhưng nước ta lại là
một trong những nước chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu. Những biến đổi
của khí hậu cùng với các hoạt động phá rừng đầu nguồn, gây ô nhiễm môi trường
trong sản xuất và sinh hoạt đã làm gia tăng mức độ nghiêm trọng của thiên tai.
Hằng năm, nước ta phải gánh chịu những thiệt hại to lớn do thiên tai gây ra lên đến
hàng chục tỉ đồng. Đó là bão lốc, lũ lụt, nước biển dâng gây nên hiện tượng ngập
úng, nước bị nhiễm mặn. Kéo theo đó là bệnh tật lây lan và có khả năng bùng phát
như các bệnh dịch cúm, dịch tả, sốt rét, một số bệnh nhiệt đới như sốt rét, viêm não
Nhật Bản, đau mắt đỏ… làm suy giảm tuổi thọ,và suy giảm môi trường tự nhiên.
3. Môi trường đất đang bị suy thoái nghiêm trọng: Do quá trình đô thị hóa,
gia tăng dân số diện tích đất sử dụng suy giảm đáng kể. Bên cạnh đó, việc khai thác
và sử dụng đất không hiệu quả là cho đất này càng bị suy thoái, ô nhiễm, xói mòn,
rửa trôi, nhiễm mặn, nhiễm phèn, hoang hóa, đồi trọc…
4. Môi trường nước hiện đang đối mặt tình trạng ô nhiễm: Việc khai thác
nguồn nước đã làm suy thoái nghiêm trọng về số lượng và chất lượng tài nguyên
nước trên các lưu vực sông lớn của Việt Nam như sông Hồng, Thái Bình và sông
Đồng Nai. Nước thải chưa qua xử lý, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học… là
những nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước. Nước thải sinh hoạt trên quận

Hà Đông và nước thải sản xuất của các cơ sở sản xuất và làng nghề trong khu vực
đã làm lưu vực sông Nhuệ bị ô nhiễm nghiêm trọng. Lưu vực sông Đáy cũng trong
tình trạng trên, nhưng mức độ ô nhiễm ở mức độ nhẹ hơn và mang tính cục bộ. Lưu
vực sông Cầu có nhiều đoạn bị ô nhiễm nặng bởi các chất gây ô nhiễm hữu cơ, chất
rắn lơ lửng, có những đoạn có dấu hiệu ô nhiễm dầu mở. Lưu vực sông hệ thống
sông Đồng Nai ô nhiễm do hoạt động các ngành công nghiệp, nhất là đoạn nước
chảy qua thành phố Biên Hòa. Nước sông Sài Gòn khu vực thành phố Hồ Chí Minh

16


bị ô nhiễm hàm lượng COD, coliform đều không đạt chuẩn chất lượng nước mặt
dùng làm nguồn cung cấp sinh hoạt…
5. Môi trường không khí bị ô nhiễm, nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động
giao thông vận tải, hoạt động xây dựng, hoạt động công nghiệp, sinh hoạt của dân
cư và xử lý chất thải. Ở nông thôn, ô nhiễm không khí là do các nguồn thải từ sản
xuất nông nghiệp, sản xuất của các làng nghề và sinh hoạt của dân cư.
6. Phát sinh chất thải rắn: Quá trình phát sinh chất thải rắn là do quá trình
sản xuất và hoạt động của con người. Vào năm 2008, “lượng chất thải rắn đô thị
bình quân 1,45kg/người/ngày, nông thôn 0,4 kg/người/ngày” [6, tr.109], “lượng
chất thải rắn công nghiệp là 13.100 tấn/ngày” [6, tr.111], “chất thải rắn y tế là 490
tấn/ngày, trong đó có khoảng 60 – 70 tấn/ngày là chất thải rắn nguy hại cần phải xử
lý” [6, tr.112-113], chất thải rắn hầu hết ở các làng nghề chưa được thu gom triệt để,
nhiều làng nghề xả thải trực tiếp ra môi trường không khí, đất, nước và tác động xấu
đến cảnh quan môi trường xung quanh.
7. Đa dạng sinh học: Ở nước ta có nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối… là
môi trường sống của hơn 10% tổng số loài chim, thú hoang dã trên thế giới. Tuy
nhiên có một số loài sinh vật được xếp ở mức độ bị đe dọa tuyệt chủng và các cấp
nguy cấp trong Sách đỏ Việt Nam và danh sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên
quốc tế (IUCN). Độ che phủ của rừng có tăng nhưng chất lượng rừng suy giảm…

[xem 6].
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến một loạt suy thoái môi trường sinh thái trên là do
sự phát triển công nghiệp ồ ạt, đặc biệt là từ các ngành công nghiệp gây ô nhiễm; tệ nạn
phá rừng ngày càng nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu; sự gia tăng dân số quá mức…
Song, nguyên nhân sâu xa phải nói đến là từ nhận thức và hành vi của con người. Đó là
tình trạng vô trách nhiệm đối với môi trường, con người vì lợi ích của mình, mà không
quan tâm đến lợi ích của tự nhiên, chú ý đến lợi ích kinh tế mà không tính đến trách
nhiệm của mình đến môi trường tự nhiên. Đó là hành vi phi ĐĐMT.
Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, việc khai thác tài nguyên quá mức,
bất hợp lý, thậm chí là tàn phá tự nhiên đã làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm

17


trọng, gây tổn hại đến toàn thế giới nói chung và các quốc gia, dân tộc nói riêng.
BVMT trở thành vấn đề cấp bách và mang tính toàn cầu. Để BVMT, đảm bảo sự
phát triển của nhân loại cần phải có một số phương thức điều chỉnh nhất định. Hiện
đã có những phương thức điều chỉnh mang tính bắt buộc như luật quốc tế, các công
ước, các nghị định thư, các thỏa thuận quốc tế liên quan đến BVMT. Những phương
thức này giúp con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho lợi ích của con người
phù hợp với lợi ích của môi trường, từ đó thể hiện trách nhiệm đối với môi trường.
Về mặt lý luận, trách nhiệm BVMT khi được phản ánh vào ý thức đạo đức và thể
hiện ra trong hoạt động của cuộc sống thì trở thành trách nhiệm đạo đức đối với môi
trường, và là một nội dung quan trọng của ĐĐMT. Vì vậy, việc GD ĐĐMT là rất
cần thiết. Bởi lẽ, nó giúp hình thành trách nhiệm đạo đức của con người đối với việc
khai thác và BVMT một cách tự nguyện, tự giác.
Thứ hai, GD ĐĐMT là một yêu cầu cấp bách đối với thanh niên hiện nay
GD ĐĐMT cũng là trang bị cho con người tri thức để hiểu được bản chất của
môi trường, đồng thời hình thành ở con người ý thức trách nhiệm BVMT, biến
những suy nghĩ thành hành động cụ thể bảo vệ sự toàn vẹn của môi trường trong

mọi hoạt động. Trong giai đoạn hiện nay, trách nhiệm BVMT được coi là “trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân” [16,
tr.78], trong đó có thanh niên. Bởi lẽ, thanh niên là lực lượng đông đảo, năng động,
sáng tạo và đầy nhiệt huyết nhất trong xã hội. Vai trò to lớn của thanh niên đã được
Đảng ta đánh giá như sau: Đó là một lực lượng “giàu lòng yêu nước, tự cường dân
tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng,
ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hoá, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh
trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp
trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất nước. Cổ vũ thanh niên
nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học - công
nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại. Hình thành một lớp thanh niên ưu tú
trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

18


chủ, văn minh”; góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sánh vai
cùng các nước tiên tiến trên thế giới” [20, tr.4]. Do đó, GDĐĐ, trong đó có GD
ĐĐMT, có tầm quan trọng đặc biệt trong việc định hướng đúng đắn để những người
chủ tương lai của đất nước nhận thức được sự cần thiết phải BVMT sinh thái, có
hành vi đạo đức, tự giác trong cuộc sống, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế xã hội bền vững của đất nước - là một yêu cầu cấp bách đối với thanh niên hiện nay.
Về sinh lý, lứa tuổi thanh niên được coi là một cấp độ phát triển hoàn thiện
về mặt thể chất. Sự phát triển này là điều kiện để thanh niên tự khẳng định vai trò,
vị trí và trách nhiệm của mình trong xã hội.
Về tâm lý, thanh niên luôn là những người giàu ước mơ, hoài bão, đầy lòng
nhiệt tình, hăng say, ý chí, nghị lực, luôn có nhu cầu tìm hiểu, thích khám phá, sáng
tạo, giàu óc tưởng tượng, thích giao tiếp, thích tham gia các hoạt động xã hội, thích
công bằng, ghét bất công, có nhu cầu cao về tình bạn, tình yêu nam nữ và lập gia

đình. Tuy nhiên, thanh niên ngày nay do điều kiện sinh hoạt vật chất ngày càng
được nâng cao nên con người sinh lý, tố chất sinh học đã phát triển chín muồi
nhưng những phẩm chất xã hội thì chưa hoàn thiện, chưa ổn định vững vàng. Trong
đời sống cá nhân, nhiều khi sự trưởng thành về mặt xã hội thường chậm hơn so với
sự phát triển về mặt sinh học của họ. Sự tác động của giáo dục từ gia đình, nhà
trường và xã hội chỉ mới hình thành ở họ khung nhân cách ban đầu. Do đặc điểm
này, bên cạnh những ưu điểm nổi trội trong thanh niên vẫn tiềm ẩn những nhân tố
tiêu cực và những hạn chế nhất định.
Như vậy, do đặc điểm của tuổi trẻ là nhiệt tình, năng động, giàu sinh lực,
luôn là lực lượng xung kích, nên thường là những lực lượng đi đầu, nòng cốt trong
BVMT. Tuy nhiên, do những hạn chế về tâm, sinh lý, kinh nghiệm nên cần phải GD
ĐĐMT cho họ để các hoạt động của họ thực sự có hiệu quả, thật sự xuất phát từ
lương tâm, từ tình yêu thiên nhiên, ý thức được trách nhiệm đối với môi trường. Để
các hoạt động của họ không mang tính bề nổi, phong trào. Làm được điều này hay
không phụ thuộc vào GD ĐĐMT cho họ. Do đó, để thanh niên có ý thức BVMT thì
GD ĐĐMT là hết sức cần thiết.
19


×