Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN PHƯƠNG HƯỚNG và GIẢI PHÁP cơ bản đổi mới tổ CHỨC hệ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ dân CHỦ ở tây NGUYÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.78 KB, 25 trang )

1

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI TỔ
CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ, THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TÂY
NGUYÊN HIỆN NAY.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Tây Nguyên giữ một vị trí hết sức quan
trọng trong hệ thống chính trị nước ta. Nó vừa có những đặc điểm chung của
hệ thống chính trị cả nước vừa có những đặc điểm riêng, vấn đề riêng. Vì thế,
quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Tây Nguyên phải được giải
quyết trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị nói chung. Trong những năm
gần đây nhiều vấn đề bức xúc đã và đang đặt ra cho hệ thống chính trị cấp cơ
sở ở Tây Nguyên. Vì thế, việc đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị cấp
cơ sở ở Tây Nguyên là vấn đề quan trọng hàng đầu hiện nay, nó đảm bảo cho
sự phát triển toàn diện, ổn định, lâu dài của Tây Nguyên; góp phần vào sự
phát triển chung của đất nước
I.THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
TÂY NGUYÊN HIỆN NAY.
Bốn tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng ( gọi chung là Tây
Nguyên ) có diện tích tự nhiên 54.474 km, có gần 600 km đường biên giới với
Lào và Campuchia, có khoảng 4,7 triệu dân của 44 dân tộc sinh sống, trong
đó có 1,57 triệu người dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 33,5%. Toàn vùng có 51
đơn vị hành chính cấp huyện, 605 đơn vị hành chính cấp xã ( trong đó: 510
xã, 47 phường, 48 thị trấn )
Tây nguyên là địa bàn có ý nghĩa chiến lược về chính trị, kinh tế- xã hội,
quốc phòng và an ninh của đất nước, là vùng có tiềm năng lớn về tài nguyên
đất đai, khoáng sản để phát triển nông- lâm nghiệp, thủy điện và một số ngành
công nghiệp. Trong những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu về phát
triển kinh tế-xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng…, tình hình trong vùng có nhiều
phức tạp, bức xúc, qua đó bộc lộ nhiều điểm yếu kém trong tổ chức và hoạt
động của chính quyền xã, phường, thị trấn. Trình độ kiến thức về mọi mặt và




2

năng lực điều hành, quản lý, thuyết phục, tập hợp quần chúng của đội ngũ cán
bộ cơ sở nói chung còn yếu, khi có vụ việc xảy ra thì lúng túng, không nắm
và tập hợp được dân, không chủ động tìm giải pháp hợp lý để giải quyết tình
hình, có nơi mất phương hướng, trông chờ cấp trên.
- Số lượng các tổ chức ( Đảng, MTTQ, các đoàn thể nhân dân)và các loại
cán bộ ( Xã, Trưởng thôn, Già làng) Các tỉnh Tây Nguyên đa số các xã có số
dân dưới 10.000 người, nên hầu hết mỗi xã được bố trí 19 cán bộ. Toàn vùng
có 12.846 cán bộ xã phường, thị trấn; trong đó có 3.170 cán bộ chủ tịch Mặt
trận và các đoàn thể, 2.261 cán bộ 4 chức danh chuyên môn và 1.346 cán bộ
các chức danh khác. Số cán bộ là người dân tộc ít người có 3,992 ( chiếm
31,07% ), cán bộ nữ có 1.086 ( chiếm 8,45% ).
Ngoài ra mỗi xã còn được bố trí 5 cán bộ phó các đoàn thể, với tổng số toàn
vùng là 3.025 người. Do đặc điểm địa hình rừng núi phức tạp, nhiều xã thuộc địa
bàn xung yếu, vùng biên giới có yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh- trật tự nên đã
bố trí Trưởng công an chuyên trách và thêm chức phó xã đội trưởng
Thôn, buôn ở Tây nguyên có vị trí rất quan trọng, là cộng đồng dân cư
tự quản trong bảo đảm an ninh, trật tự nông thôn, phát huy bản săc văn hoá
tiên tiến của dân tộc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, đồng thời giúp chính
quyền các cấp một số nội dung về quản lý. Thôn buôn ổn định, giúp đỡ nhau
sẽ tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Do đó vai trò, vị trí của
trưởng thôn, buôn rất quan trọng.
Theo thống kê của các Tỉnh, vùng Tây nguyên có 6.387 Trưởng thôn,
buôn, làng, tổ dân phố. Trưởng thôn là người đại diện cho thôn do nhân dân
bầu ra với nhiệm kỳ từ 2 đến 2,5 năm và được chỉ định ở những nơi tình hình
an ninh chính trị có vấn đề nổi cộm.
Già làng là người có vai trò lãnh đạo cao nhất và được dân làng suy tôn.

Đó là người có hiểu biết phong tục, tập quán, lễ nghi, luật tục của dòng họ và
của các dân tộc cùng sinh sống trong làng, gương mẫu trong sinh hoạt và sản
xuất, có uy tín, được nhân dân trong làng kính trọng, tôn sùng một cách tự


3

nhiên và là người điều khiển chung công việc của dòng tộc hoặc dân làng.
Hoạt động của già làng được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, không
đòi hỏi thù lao. Các nội dung hoạt động của già làng tập trung chủ yếu vào
việc hoà giải mâu thuẫn trong nội bộ dòng tộc, nội bộ các dân tộc cùng sinh
sống trong một làng; nhắc nhở dân làng giữ gìn tập tục, nghi lễ, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc; già làng trực tiếp xét xử đối với người dân trong làng khi
vi phạm luật tục; chủ trì các lễ hội; vận động dân làng đoàn kết thực hiện các
phong trào do chính quyền và đoàn thể phát động.
- Chất lượng các tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên
Trong những năm gần đây các Tỉnh Tây nguyên đã có sự quan tâm đến
việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở nhưng so với yêu cầu
nhiệm vụ thì còn nhiều cán bộ chưa đáp ứng được. Đội ngũ cán bộ hiện nay ở
cơ sở chủ yếu là cán bộ về hưu và bộ đội phục viên, trình độ năng lực không
đồng đều. Chính sách đãi ngộ, sử dụng chưa phù hợp, chưa tạo được động lực
để thu hút cán bộ, hướng phát triển cán bộ chưa rõ… dẫn đến thiếu nguồn cán
bộ để quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng.
Hiện nay, trình độ văn hoá của cán bộ cơ sở ở các Tỉnh trong vùng Tây
nguyên: Cấp 1: 15,79%, cấp 2: 36,91%, cấp 3: 47,30%. Trình độ quản lý Nhà
nước từ sơ cấp trở lên 14,26%. Trình độ lý luận sơ cấp: 17,20%, trung cấp:
22,31%, đại học: 1,8%, chưa đào tạo: 48,08%.
Thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ
đảng viên có chuyển biến tích cực nhất định. Phân tích chất lượng đảng viên
cho thấy: về tổ chức: đạt TSVM 39,5%, hoàn thành nhiệm vụ 56,79%, yếu

kém 3,7%; về phân loại đảng viên: 58,3% hoàn thành tốt nhiệm vụ, 32,25%
hoàn thành nhiệm vụ, 2,01% không hoàn thành nhiệm vụ. Qua kết quả phân
loại chất lượng tổ chức và đảng viên cho thấy sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
và đảng viên được nâng lên, những ưu, khuyết điểm được xác định rõ, sau khi
kiểm điểm từng tổ chức và đảng viên đều xác định kế hoạch phát huy ưu
điểm, khắc phục khuyết điểm, phòng ngừa sai phạm.


4

Những hạn chế, yếu kém của đội ngũ cán bộ cơ sở
Trình độ, năng lực còn nhiều hạn chế , bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ,
số tuổi đời cao chiếm tỷ lệ lớn. Đa số cán bộ có trình độ học vấn thấp ( hơn
70% cán bộ có trình độ cấp 2 trở xuống ); chuyên môn nghiệp vụ chưa được
đào tạo cơ bản; việc lãnh đạo, quản lý, điều hành chủ yếu theo kinh nghiệm,
một số còn bảo thủ, trì trệ trong công tác. Hoạt động của cán bộ cơ sở còn bị
động, lúng túng, chưa khoa học, chưa phân định rõ nội dung công tác, thiếu
sự phối hợp trong thực thi nhiệm vụ. Tính ỷ lại trông chờ vào cấp trên còn
nặng nề; các chức danh chủ chốt được đào tạo ở trình độ trung cấp còn quá ít;
có nơi bố trí cán bộ cho đủ số lượng, chưa chú ý đến chất lượng, chưa chú ý
đến đào tạo và sử dụng cán bộ trẻ.
- Kết quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây
nguyên- ưu điểm, khuyết, nhược điểm và những kinh nghiệm.
Về xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên:
Hầu hết các cấp uỷ thường xuyên làm tốt công tác rà soát, bổ sung quy
chế làm việc của cấp uỷ, quy chế hoạt động của chi bộ. Qua đó đã làm rõ
chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ, trách nhiệm, quyền hạn của tập thể
và cá nhân, các chế độ làm việc và mối quan hệ công tác. Việc thực hiện quy
chế đã từng bước đi vào nề nếp, đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất trong đảng,
hạn chế được tình trạng buông lỏng hoặc bỏ sót công việc.

Việc cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng tiếp tục có kết quả.
Trong sinh hoạt, cấp uỷ, tổ chức đảng giữ vững được nguyên tắc tập trung dân
chủ. Nhiều đồng chí trong cấp uỷ đã nêu cao được tinh thần trách nhiệm với
nhiệm vụ , chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, xác định
nhiệm vụ trung tâm và khâu then chốt để tập trung vào giải quyết. Trong quá
trình triển khai thực hiện nghị quyết, cấp uỷ, chi bộ đã bám sát vào nghị quyết,
nói và làm theo nghị quyết. Nhìn chung hội họp hiện nay từng bước cởi mở,
dân chủ hơn, đảng viên đã chủ động nêu lên ý kiến của mình; nghị quyết của
cấp uỷ, chi bộ nhiều nơi đạt được các yêu cầu cơ bản, vừa bảo đảm tính định


5

hướng của Đảng vừa sát thực tế yêu cầu của địa phương.
Việc phân công, kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ và làm công tác
vận động quần chúng, tăng cường đoàn kết… được tăng cường hơn. Qua đó
tạo được điều kiện cho đảng viên gần dân, góp phần vào sự lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp uỷ đảng, chính quyền có hiệu quả hơn, đồng thời từng bước giúp cho
từng hộ gia đình hiểu và thực hiện đúng các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, những quy định của địa phương, nhất là về chuyển
dịch cơ cấu sản xuất, xoá đói giảm nghèo, nâng cao cảnh giác cách mạng, giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Công tác kết nạp đảng viên mới được cấp uỷ các cấp chú trọng cả về số
lượng và chất lượng. Việc tích cực kết nạp đảng viên đã góp phần xoá “làng
trắng”, “thôn trắng” đảng viên. công tác kết nạp đảng được kết hơpù chặt chẽ
với tạo nguồn cán bộ cho cơ sở.
Về nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND và quản ly, sự điều hành của
UBND. Chất lượng đại biểu HĐND nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước cả
về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị. Chất
lượng hoạt động của HĐND được nâng lên một bước và theo đúng quy chế.

ý kiến, kiến nghị của cử tri bước đầu được quan tâm giải quyết. Phần lớn đại
biểu HĐND thể hiện được vai trò đại biểu của dân, phối hợp với các tổ chức
khác nắm tâm tư nguyện vọng của dân và có những kiến nghị xác đáng vào
các nghị quyết, vào quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ
trên địa bàn. UBND xã, phường, thị trấn đã xây dựng và thực hiện được quy
chế làm việc. Nền nếp, thời gian làm việc ở một số nơi đã được duy trì
nghiêm túc hơn. Phương pháp, chế độ làm việc, chế độ công tác nhiều nơi đã
được cụ thể thành những chương trình, kế hoạch cụ thể và thực hiệu có hiệu
quả.
Quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, các thành viên của UBND đã phát
huy được vai trò trong quản lý, điều hành, theo dõi và chỉ đạo kịp thời việc
thực hiện nhiệm vụ của các ban ngành. Vì vậy, hiệu quả công tác có chuyển
biến tích cực. Kinh tế- xã hội phát triển; an ninh quốc phòng được giữ vững;


6

các vấn đề bức xúc về đất đai, cơ bản được giải quyết. UBND từng bước thể
hiện được vai trò của mình trong hướng dẫn, giúp đỡ và giám sát đối với hoạt
động tự quản ở các thôn, làng, tổ dân phố. Công tác tiếp dân, giải quyết các ý
kiến, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân có chuyển biến.
Về đổi mới công tác Mặt trận và các đoàn thể nhân đân ở xã, phường, thị
trấn. Đến nay hầu hết các tổ chức này đã xây dựng được quy chế hoạt động và
đang từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Có nơi xây dựng
được chương trình phối hợp hoạt động giữa các đoàn thể thanh niên, phụ nữ,
hội cựu chiến binh…
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên, đoàn viên đã có những
chuyển biến tích cực. Các tổ chức và đoàn thể nhân dân đã hăng hái tham gia
giám sát hoạt động, điều hành của UBND, thể hiện vai trò người đại diện cho
quyền lợi, nghĩa vụ của đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân. góp phần

xoá đói, giảm nghèo, xây dựng thôn, làng, khu phố văn hoá…
Các phong trào do Mặt trận và các đoàn thể phát động được đông đảo
đoàn viên, hội viên, quần chúng nhân dân ủng hộ, nhiệt tình tham gia và
mang lại hiệu quả thiết thực.
Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
trên địa bàn Tây nguyên còn có những khuyết, nhược diểm như sau:
Về tổ chức đảng và đảng viên
Nhận thức của một số cấp uỷ xã, phường, thị trấn về tầm quan trọng của
việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng chưa sâu,
chưa chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch nâng cao chất lượng
tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đảng viên. Một số nới tuy có quán triệt và thực
hiện chủ trương của trên nhưng hiệu quả chưa cao, có nơi còn lúng túng. Có
nơi lãnh đạo nhưng thiếu kiểm tra. Có nơi chưa xác định được những vấn đề
yếu kém nên không có giải pháp khả thi trong giải quyết các vấn đề đó. Đội
ngũ cán bộ còn có tính ỷ lại, ít chịu khó nghiên cứu,học tập vươn lên…
Tự phê binh và phê bình, đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng


7

viên chưa nghiêm, còn hình thức, đối phó, chưa đúng với yêu cầu của trên.
Còn biểu hiện e dè, nể nang, né tránh, ngại va chạm trong đấu tranh. Sau khi
kiểm điểm chưa xây dựng thành kế hoạch để phát huy ưu điểm, khắc phục
khuyết nhược điểm, ngăn ngừa sai trái
Công tác phát triển đảng chưa được quan tâm đúng mức, có nơi nhiều
năm không kết nạp được đảng viên, có nơi “trắng” đảng viên. Số đảng viên
trong đội ngũ công nhân, trong vùng có đạo, là người thiểu số, là thanh niên
và trí thức rất ít.
Vai trò, trách nhiệm của số đảng viên được phân công phụ trách hộ, nhóm
hộ ở một số cấp uỷ chưa quan tâm đúng mức, có nơi buông lỏng. Còn nhiều

đồng chí chưa gương mẫu trong vận động gai đình và nhân dân trên địa bàn chấp
hành đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
tham gia công tác xã hội và các quy định, quy ước của khu dân cư.
Về HĐND và UBND Một số đại biểu HĐND trình độ, năng lực còn hạn
chế, nhiều nơi còn nặng về cơ cấu nên có đại biêu chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Hoạt động của nhiều đại biểu HĐND còn mang thính hình thức, chưa
gắn bó với cử tri và do đó không làm tròn trách nhiệm đối với cử tri. Bộ máy
của HĐND còn nhiều bất cập, đại biểu HĐND kiêm nhiệm quá nhiều chức
trách trong các tổ chức khác nhau nên ít thời gian giành cho hoạt động của
HĐND. Một số chức năng, nhiệm vụ của HĐND chưa cụ thể, không rõ ràng,
thiếu kinh phí hoạt động…
Chất lượng nhiều phiên họp còn hạn chế, trình độ của nhiều đại biểu hạn
chế nên ngại phát biểu, không phản ảnh được ý kiến của cử tri. Một số nơi
HĐND hoạt động chỉ mang tính hình thức.
Vai trò quản lý, chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội của UBND một số nơi
còn hạn chế, do đó tình hình phát triển kinh tế-xã hội chưa vững chắc, tình
hình tội phạm, mại dâm trẻ em không giảm, tình trạng tranh chấp đất đai,
khiếu kiện, buông lỏng quản lý hoạt động tôn giáo, quản lý hộ khẩu ảnh
hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số nơi.


8

Nhìn chung chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nhân
viên UBND còn hạn chế, yếu kém. Một số nơi, một bộ phận cán bộ của
UBND giải quyết công việc mang năùng cảm tính, chủ quan, làm việc chưa
có chương trình kế hoạch, thiếu tính định hướng, chủ động.
Phong cách làm việc của một số cán bộ UBND còn quan liêu dẫn đến không
nắm được tình hình, không được lòng dân, giải quyết công việc khó khăn.
Về Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng: Nội dung, phương thức

hoạt động của các tổ chức này ở xã, phường, thị trấn chậm đổi mới, còn trông
chờ, ỷ lại, hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa nắm chắc được đoàn viên, hội
viên; phong trào chưa đến hoặc chưa đều ở vùng sâu, vùng xa; chưa thực hiện
tốt vai trò giám sát hoạt động của chính quyền. Đội ngũ cán bộ của các tổ
chức này còn chắp vá, trình độ hiểu biết pháp luật, kinh tế… hạn chế; năng
lực tuyên truyền vận động quần chúng còn yếu.
Sự phối hợp giữa Mặt trận và các tổ chức đoàn thể còn một số mặt chưa
chặt chẽ, có nơi còn hình thức, chưa đồng bộ trong thực hiện nhiệm vụ kinh
tế-xã hội, nhất là trong cuộc vận động toàn dân xây dựng cuộc sống mới ở
khu dân cư, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Một số nguyên nhân của những khuyết điểm, hạn chế
Về khách quan:
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tổ chức bộ máy trong
hệ thống chính trị cơ sở còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa rõ ràng, chậm được
sửa đổi.
Cấp trên trực tiếp cơ sở chưa quan tâm đúng mức đến củng cố, xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở.
Việc bố trí cán bộ cho hệ thống chính trị cơ sở nói chung còn nặng về cơ
cấu, coi nhẹ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực.
Cơ chế, chính sách đầu tư cho cơ sở chưa đổi mới kịp với yêu cầu thực
tiễn đặt ra.
Xuất phát điểm cả về kinh tế-xã hội, cả về trình độ lý luận kinh tế,xã hội,


9

chính trị còn thấp kém, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa
Về chủ quan:
Sự lãnh đạo của cấp uỷ cơ sở về củng cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở vững mạnh có lúc chưa kịp tnhời, thiếu giải pháp phù hợp với tình hình

thực tế; công tác kiểm tra đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở
chưa thường xuyên.
Quy chế phối hợp công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ
sở ở nhiều nơi chưa được xây dựng và tổ chức thực hiện.
Một số cấp uỷ và chính quyền cơ sở chưa tạo nhiều điều kiện thuận lợi
cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động.
Thực hiện chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân
tộc vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng có lúc chưa kịp thời và còn kẽ hở
dễ bị kẻ thù lợi dụng; khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng còn lớn.
Cán bộ chủ chốt cơ sở nhiều đồng chí tuổi cao, sưc khoẻ yếu, trình độ
năng lực hạn chế; nguồn cán bộ trẻ chưa được chuẩn bị đầy đủ nên rất khó
khăn trong việc bổ sung, kiện toàn, thay thế khi cần thiết.
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI TỔ
CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ, THỰC HIỆN TỐT QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
TÂY NGUYÊN HIỆN NAY.
II.1.những phương hướng cơ bản nhằm khắc phục các nguyên nhân và
đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở các tỉnh Tây
Nguyên hiện nay.
Từ thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở vùng dân
tộc thiểu số, trên địa bàn Tây Nguyên, trước yêu cầu của việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở, có tính đến những nhân tố tác động trực tiếp từ những
đặc điểm cư dân, dân tộc - tộc người với thiết chế xã hội truyền thống, từ
những nguyên nhân khách quan, chủ quan làm hạn chế đến tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị cấp cơ sở, có thể đưa ra những phương hướng cơ


10

bản nhằm khắc phục các nguyên nhân và đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ

thống chính trị cấp cơ sở ở các tỉnh Tây Nguyên theo quan điểm của Đảng là:
1. Củng cố đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị và thực hiện quy chế
dân chủ các vùng dân tộc thiểu số phải luôn luôn tính đến đặc điểm tự nhiên,
kinh tế - xã hội, nhằm từng bước khắc phục những khó khăn hạn chế và khai
thác, phát huy những yếu tố truyền thống tốt đẹp của các dân tộc - tộc người
Quá trình củng cố, đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở là quá
trình gắn bó và tác động biện chứng. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cũng
không thể tách rời quá trình đó. Tuy nhiên những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã
hội, dân tộc dân cư ở các vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số, những
thiết chế xã hội truyền thống, nhất là sự tồn tại và tác động của phong tục tập
quán, luật tục, vai trò của già làng, trưởng bản, v.v..đòi hỏi phải được xem xét
khách quan trong quá trình xây dựng, phát huy vai trò của hệ thống chính trị cũng
như quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc điều tra, khảo sát thực trạng
về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sơ ở nông thôn miền núi,
vùng cao, vùng dân tộc thiểu số cũng như sự tác động của luật tục, tộc ước, lệ ước
ở các thôn, bản,v.v..là rất cần thiết nhằm tìm ra các giải pháp kết hợp trên cơ sở kế
thừa những truyền thống tốt đẹp trong thiết chế dân chủ truyền thống, tính tự
quản, tính cộng đồng của các dân tộc thiểu số.
Việc đào tạo bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cũng
như tuyên truyền giáo dục pháp luật, thực hiện pháp luật Nhà nước cũng cần
phải chú ý đến những yếu tố đặc trưng vừa trình bày ở trên. Đối với các vùng
dân cư, dân tộc khác nhau không thể rập khuôn, vận dụng máy móc quy chế
dân chủ ở cơ sở nói chung. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
các địa phương này cũng luôn luôn tính đến những đặc điểm xã hội - tộc người


11

2. Gắn việc xây dựng, phát huy vai trò của hệ thống chính trị, thực hiện
cơ chế dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện tốt những nhiệm vụ phát triển kinh

tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số
Trong nhận thức cũng như trong hành động phải thấy rằng, việc phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội là nhiệm vụ thường xuyên và cũng chính là nội
dung, mục đích của đổi mới hệ thống chính trị và thực hiện cơ chế dân chủ ở
cơ sở. Ở miền núi, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, những nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội như: thực hiện định canh, định cư, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, xoá đói giảm nghèo, xóa mù chữ, phổ cập tiểu học, bảo đảm
an ninh an toàn biên giới v.v.. đang là những nhiệm vụ bức xúc thường xuyên.
Bởi vậy, quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng và phát huy vai
trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở luôn luôn phải được kết hợp đồng bộ trong
lúc triển khai các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá - xã
hội ở các địa phương này.
Trong thực tế các địa phương đã bước đầu có sự kết hợp giữa đổi mới
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở với các các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Thông qua các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội mà đánh giá, rà soát lại đội ngũ cán bộ các loại trong hệ thống chính trị…
Tuy nhiên, nhìn chung ở đa số các địa phương, các nhiệm vụ và vấn đề chính
trị, kinh tế, xã hội thường bị tách rời nhau, thậm chí chồng chéo nhau, thiếu
thống nhất, đồng bộ. Hiện nay, việc thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội
nông thôn, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đổi mới hoạt động hệ thống chính trị
ở cơ sở…chính là tạo ra những điều kiện đổi mới để đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội của vùng dân tộc thiểu số.
3. Trong quá trình củng cố, xây dựng đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cần có
sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, theo phương châm
hiệu quả, thận trọng, vững chắc


12


Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở phụ thuộc rất lớn vào sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và
chính quyền cơ sở. Qua tài liệu khảo sát, điều tra và tình hình thực tế ở các
địa phương cho thấy, các đảng bộ, chi bộ, chính quyền chưa phát huy hết vai
trò của mình, nhất là trong việc vạch ra các nghị quyết, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Phát huy vai trò lãnh đạo, vai trò
nhân tố hàng đầu của đảng bộ, chi bộ trong xây dựng hệ thống chính trị cần
gắn với thực hiện đổi mới cơ cấu, tổ chức và phương thức hoạt động. Quy chế
dân chủ ở cơ sở chỉ có thể thực hiện đúng đắn, phù hợp khi các cấp bộ đảng
và chính quyền quan tâm chỉ đạo một cách đồng bộ.
Do đặc thù về kinh tế - xã hội, tâm lý, tình cảm dân tộc, phong tục tập
quán, v.v.. quá trình đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, lựa chọn
phương thức hoạt động đúng, mở rộng dân chủ theo tinh thần của quy chế dân
chủ cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên phải bảo đảm
phương châm hiệu quả, thận trọng và vững chắc, tránh tình trạng gây xáo trộn
lớn, kém hiệu quả, kém chiều sâu, kém bền vững. Đương nhiên, đây là quá
trình phải thực hiện thường xuyên và lâu dài.
4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ của tất cả các thành viên trong hệ thống
chính trị ở cơ sở mà trước hết phải chú trọng đến vai trò của đội ngũ cán bộ
chủ chốt ở cơ sở
Vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là phát huy quyền làm
chủ của các tổ chức, đoàn thể quần chúng phải được thể hiện cụ thể từ quá trình
đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị và thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở. Tất cả thành viên của hệ thống chính trị đều phải tích cực tham gia vào quá
trình này, tránh tình trạng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên hoặc phó thác cho cấp uỷ
hoặc chính quyền. Từ yêu cầu của việc phát huy vai trò của hệ thống chính trị,
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cần đặc biệt chú trọng đến đội ngũ cán bộ chủ



13

chốt cấp cơ sở. Từ thực trạng hiện nay là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở vùng
dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên còn hạn chế và yếu kém về năng lực
công tác, đòi hỏi các ban, nghành liên quan đến tổ chức cán bộ từ Trung ương đến
tỉnh huyện cần tăng cường chỉ đạo về quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở các địa bàn đặc thù trên đây.
5. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ chính trị trực tiếp của các địa phương, cơ
sở, đòi hỏi phải khai thác, phát huy tiềm năng, bài học kinh nghiệm từ các cơ
sở
Phát huy vai trò của hệ thống chính trị, thực quy chế dân chủ ở cơ sở
đòi hỏi tính năng động, sáng tạo của các địa phương, cơ sở. Cần khắc phục tư
tưởng thụ động, ỷ lại trông chờ cấp trên. Kinh nghiệm một số địa phương đã
bước đầu cho thấy những kinh nghiệm, xây dựng mô hình về đổi mới hoạt
động của hệ thống chính trị gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, kinh
nghiệm về phát huy vai trò của các già làng, trưởng thôn, trưởng bản, kết hợp
những yếu tố tích cực của luật tục trong xây dựng quy ước làng, bản văn hoá,
phát động toàn dân hưởng ứng xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư cùng
với triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở v.v.. Tuy vậy, đây là quá
trình không đơn giản, dễ dàng, đòi hỏi các tổ chức, các thành viên trong hệ
thống chính trị phải hoạt động tích cực phối hợp triển khai tạo lập các mô
hình để nhân rộng trong các địa phương và phù hợp với đặc điểm dân tộc - tộc
người.
2.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở vùng dân
tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay
Về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở có nội dung rất rộng lớn và liên quan đến tất cả các



14

thành viên của hệ thống chính trị cũng như tính tích cực chính trị của quần
chúng nhân dân các dân tộc - tộc người. Bởi vậy, từ những giải pháp đặt ra
cho từng thành viên trong hệ thống đó, phải tùy theo điều kiện kinh tế - xã
hội, đặc điểm dân cư, từng dân tộc, tộc người mà có những giải pháp cụ thể.
Tình trạng sinh sống xen kẽ của cư dân các dân tộc càng đòi hỏi phải có nhiều
giải pháp cụ thẻ thiết thực. Có thể nói cần thực hiện một hệ thống giải pháp
đồng bộ trong quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở các địa phương đã trình bày ở trên đây.
1. Những giải pháp chủ yếu đổi mới tổ chức, hoạt động của tổ chức cơ sở đảng
Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng nâng
cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo cho đảng viên. Đây
là một công việc phải được tiến hành bằng nhiều hình thức và kết hợp đồng
bộ nhiều biện pháp thích hợp với đặc điểm từng đối tượng dân cư và tộc
người. Trọng tâm để nâng cao hiệu quả công tác chính trị - tư tưởng cho đảng
viên là:
Kết hợp công tác chính trị - tư tưởng với các biện pháp hành chính - tổ
chức, nhất là việc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa đối
với người có công với nước, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá.
Phát huy dân chủ, giúp cho đảng viên có điều kiện tự nhận thức, tự giáo dục và
thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Nâng cao tính chiến đấu và đấu tranh tích cực với tư tưởng giao động và
âm mưu “diễn biến hoà bình” dưới các hình thức lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Tăng cường thông tin nội bộ và công tác tuyên truyền miệng, bồi
dưỡng và sử dụng tốt lực lượng báo cáo viên tại địa phương. Thực hiện có nề
nếp việc thông báo đến từng đảng viên tình hình thời sự cũng như tổ chức học
tập nghiêm túc và đầy đủ đường lối, nghị quyết của Đảng.
Hai là, tổ chức cơ sở đảng phải xác định đúng nhiệm vụ kinh tế - chính trị

ở địa phương để có chủ trương và nghị quyết thực hiện có hiệu quả, nhất là trong


15

việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong việc thực hiện giải pháp này rất cần có sự hỗ
trợ của đảng bộ huyện, nhất là đối với các tổ chức cơ sở đảng chưa tự mình xây
dựng được các chủ trương, nghị quyết có tính khả thi ở địa phương.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng đối
với Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân xã bằng việc xây dựng quy chế
hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và chính quyền cơ sở. Đây là giải pháp
nhằm khắc phục tình trạng tổ chức cơ sở đảng “lấn sân”, làm thay chức năng,
nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã; hoặc chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã lại quyết đáp nhiều công việc vượt quyền hạn, không tôn
trọng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể cấp xã
vùng dân tộc thiểu số trên địa bànTây Nguyên. Cần sử dụng linh hoạt nhiều
hình thức đào tạo, bồi dưỡng tại địa phương để bồi dưỡng kịp thời những nội
dung cần thiết, thông tin phổ biến kinh nghiệm học tập, những văn bản, tài
liệu hướng dẫn mới; hoặc mở lớp học tại chức, tập trung ở huyện, nhằm trang
bị kiến thức cập nhật, đồng thời trang bị kiến thức tương đối có hệ thống.
Năm là, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của cấp uỷ đảng, công
tác kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của tổ chức cơ sở đảng
vùng dân tộc thiểu số:
Công tác kiểm tra của cấp uỷ đảng đối với chính quyền và đoàn thể các
cấp xã phải có kết luận rõ ràng, cần biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá
nhân và bộ phận có thành tích, đồng thời phê phán hoặc có biện pháp xử lý thích
đáng đối với cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật nhà Nước.
Sáu là, nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động và sinh hoạt của các chi
bộ và tổ chức đảng tại từng cụm dân cư trong các buôn làng. Giải pháp này

rất quan trọng vì điều kiện dân cư phân tán trên địa bàn rộng. Hiện nay, tại
vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên đã tổ chức các chi bộ theo mô


16

hình cụm dân cư. Mỗi xã có một chi bộ hoặc đảng bộ. Mỗi thôn, buôn hoặc
một số thôn, buôn có một tổ đảng hoặc chi bộ, các tổ trưởng đảng (hoặc đảng
viên) ở các thôn, bản, trực tiếp làm trưởng thôn, trưởng buôn hoặc đội trưởng
sản xuất. Việc tổ chức theo cụm dân cư như thế tạo nên sự chuyển biến trong
hoạt động của tổ chức cơ sở đảng. Tuy nhiên, chất lượng sinh hoạt chi bộ ở
vùng dân tộc ít người vẫn rất thấp. Mỗi chi bộ có từ 5 - 7 đảng viên, nhưng
sinh hoạt thất thường. Do đó, cần phải tập trung nâng cao chất lượng và nề
nếp sinh hoạt chi bộ. Kết hợp sinh hoạt chi bộ với phổ biến thông tin cho đảng viên
theo chủ đề sinh hoạt của chi bộ, để từng bước nâng cao trình độ mọi mặt cho đảng
viên. Việc hướng sinh hoạt chi bộ theo chủ đề đã định sẽ dần dần hướng được các chủ
đề này bám sát vào thực tiễn địa phương.
Bảy là, đổi mới phương thức chỉ đạo của cấp huyện, tỉnh và Trung ương đối
với tổ chức cơ sở đảng vùng dân tộcthiểu số Tây Nguyên. Cụ thể, cấp huyện cần giúp
đảng bộ, chi bộ cơ sở trong xây dựng chương trình hành động, chỉ đạo quy hoạch cán
bộ. Đối với những tổ chức cơ sở đảng yếu kém, huyện nên tăng cường đặc phái viên
của huyện uỷ xuống để giúp đỡ, cố vấn chứ không thay cơ sở giải quyết các vấn đề cụ
thể; đồng thời, coi trọng việc giúp đỡ cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng
lực phẩm chất chính trị và đạo đức tốt. Tỉnh, huyện sớm sơ kết, rút kinh nghiệm nhân
rộng mô hình việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở
đảng trong quá trình thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
xã nhằm thực hiện tốt cơ chế dân chủ ở cơ sở
Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước ở sở phải thông qua việc phát huy
vai trò của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã. Trong quá trình

triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại các vùng dân tộc thiểu số trên
địa bàn Tây Nguyên, hàng loạt giải pháp cần được thực hiện sao cho phù hợp
với tình hình đặc điểm địa phương và đặc điểm dân cư, tộc người. Từ thực


17

trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các địa bàn, có
thể xin phép được trình bày một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất: Đổi mới cơ cấu thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân từng
bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và triển khai thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Muốn đổi mới phương thức hoạt động, nâng
cao hiệu lực của Hội đồng nhân dân, trước hết phải rà soát lại cơ cấu tổ chức,
thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân, đặc biệt chú trọng đến cơ cấu thành
phần đại biểu Hội đồng nhân dân là người dân tộc thiểu số về trình độ, năng
lực phẩm chất cũng như cơ cấu độ tuổi, giới tính phù hợp. Việc nâng cao chất
lượng và năng lực công tác của các đại biểu Hội đồng nhân dân dân và
Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân được đặt ra trong việc đổi mới cơ
cấu, tổ chức, lựa chọn đại biểu vào Hội đồng nhân dân cấp xã. Làm tốt
việc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp hiện nay chính là việc làm thiết
thực nhất để nâng cao hiệu lực công tác của đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã ở các địa phương.
Thứ hai: Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân, quy chế làm việc với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân cấp trên. Thực trạng hiện nay cho thấy việc xây dựng các quy chế phối
hợp hoạt động, chương trình, nội dung làm việc giữa Hội đồng nhân dân xã với
các cơ quan, tổ chức liên quan ở các địa phương thuộc nông thôn miền núi, vùng
cao còn rất hạn chế. Bởi vậy, một mặt bản thân Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân cấp xã cần chủ động hơn trong soạn thảo quy chế; mặt khác Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, huyện cũng phải tăng cường giúp đỡ về việc soạn thảo văn bản, nâng

cao trình độ, tri thức về quản ký hành chính, và soạn thảo văn bản cho Hội đồng
nhân dân ở các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số.
Thứ ba: Tổ chức trao đổi tọa đàm, đúc kết kinh nghiệm xây dựng mô
hình quản lý xã, thôn, bản, kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm của già làng,
trưởng bản, trưởng thôn trong hoạt động của Hội đồng nhân dân xã.


18

Đây cũng là giải pháp mang tính đặc thù của hoạt động Hội đồng nhân
dân xã ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số, nhằm mở rộng dân chủ thực
hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ tư: Bằng các nguồn lực, nâng cao chế độ đãi ngộ, phụ cấp hợp lý
cho đại biểu Hội đồng nhân dân và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân, đội ngũ cán bộ chủ chốt và đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã phụ thuộc một phần vào chế độ lương, phụ cấp, trợ cấp hợp lý,
đặc biệt đối địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Các cấp tỉnh, huyện, xã
đều phải chú ý quan tâm đến vấn đề này để nâng cao vai trò của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội cũng như trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
3. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc ở
các xã vùng dân tộc thiểu số.;
Với tư cách là tổ chức thể hiện tập trung khối đoàn kết toàn dân, Mặt
trận Tổ quốc ở các xã vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên cần đổi mới hoạt
động cho phù hợp với đặc điểm địa bàn dân cư. Một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc ở các địa bàn đó như sau:
Một là: Mở rộng công tác thông tin tuyên truyền của Mặt trận Tổ quốc
với các thành viên trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, kết
hợp với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới khu dân cư
mà Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động. Kinh nghiệm tổ chức và hoạt
động của một số địa bàn đã được khảo sát thực tế ở một số địa phương vùng

Tây Nguyên đã chứng minh rất rõ, đây là việc làm cấp bách thiết thực của
Mặt trận Tổ quốc các xã vùng dân tộc thiểu số.
Hai là: Xây dựng quy chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc xã với các tổ
chức thành viên cũng như Mặt trận Tổ quốc cấp trên trước yêu cầu mới của đổi
mới hoạt động của hệ thống chính trị và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hiện


19

nay, trước yêu cầu thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Mặt trận tổ quốc xã cần
khẩn trương xây dựng quy chế hoạt động, gắn nội dung vận động toàn dân thực
hiện quy chế dân chủ, phát huy vai trò trung tâm đoàn kết các dân tộc, tộc người
trong phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Ba là, lựa chọn đúng các chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc và các chi hội trưởng ở các thôn bản. Các chức danh Chủ tịch, Phó chủ
tịch Mặt trận, các chi hội trưởng ở các thôn, buôn nên mở rộng dân chủ để lựa
chọn, chú ý đến vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng buôn.
Bốn là, Cụ thể hoá một cách phù hợp Luật tổ chức Mặt trận Tổ quốc
trên địa bàn dân cư dân tộc ở các địa bàn, chú ý đến các xã vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số. Hiện nay đã có Luật tổ chức Mặt trận Tổ quốc. Tuy
nhiên, cần cụ thể hoá và tuyên truyền sâu rộng trong các dân tộc thiểu số Tây
Nguyên về các điều khoản của luật mới này.
Năm là, Kế thừa các yếu tố truyền thống tốt đẹp của cộng đồng tự
quản, bản, làng trong xây dựng chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
cấp xã. Mặt trận Tổ quốc có điều kiện và chức năng đi sâu tìm hiểu những
truyền thống tốt đẹp của cộng đồng buôn làng. Từ đó mà chọn lọc kế thừa
những yếu tố tích cực, tốt đẹp trong phong tục, tập quán; tính tự quản cao của
cộng đồng. Chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc cần bám sát vào
các cuộc vận động xóa đói giảm nghèo, định canh, định cư, xóa mù, phổ cập
tiểu học, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng cuộc sống mới ở khu

dân cư.
Sáu là, Nêu cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc cấp cơ sở trong thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay nhằm xây dựng khối
đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc. Đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở cũng chính là
góp phần thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.


20

Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm lớn trong vận động nhân dân thực hiện các
nội dung của chính sách dân tộc.
4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh ở cơ sở
Trên thực tế, cho thấy tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh ở các địa bàn nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn
rất nhiều hạn chế. Thực trạng này đòi hỏi phải thực hiện những giải pháp cấp
bách nhằm nâng cao vai trò của Đoàn Thanh niên trong xây dựng hệ thống
chính trị mới và trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thứ nhất: Tạo điều kiện cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động của
Đoàn Thanh niên. Đặc thù công tác tập hợp lôi cuốn thanh niên đòi hỏi phải
có những cơ sở, phương tiện cần thiết cho Đoàn Thanh niên hoạt động. Hiện
nay, các cơ sở đoàn ở miền núi, vùng cao dường như chưa có những điều kiện
cần thiết như: trang thiết bị cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, cổ
động, địa điểm sinh hoạt đoàn. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở các thôn,
bản mà cả ở cấp xã, hạn chế lớn đến hoạt động của Đoàn Thanh niên.
Thứ hai: Đổi mới nội dung sinh hoạt đoàn cho phù hợp, thiết thực với
thanh niên, đoàn viên vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên. Do khó
khăn về địa bàn, đi lại, thanh niên đoàn viên ngại học tập, sinh hoạt khi không
có nội dung thiết thực. Thực tế ở một số địa phương cho thấy: phải gắn nội

dung sinh hoạt đoàn với “xây dựng nếp sống mới”, “thanh niên làm kinh tế
giỏi”, “thanh niên vượt khó, hiếu học”, hay phong trào “thanh niên hát ca dao
dân tộc mình” v.v..
Thứ ba: Đẩy mạnh hoạt động của thanh niên trong phong trào xóa đói
giảm nghèo, xóa mù chữ, phổ cập tiểu học, thực hiện định canh định cư. Đây
cũng là giải pháp nhằm nâng cao ý thức của thanh niên trước sự nghiệp đổi


21

mới quê hương, buôn làng, phát huy vai trò gương mẫu, xung phong của
thanh niên phù hợp với địa bàn vùng dân tộc thiểu số.
Thứ tư: Xây dựng quy chế hoạt động đoàn, phối hợp và phát huy vai trò
của Đoàn trong trường học, cơ quan, đơn vị bộ đội đóng quân trên các địa bàn dân
tộcthiểu số. Thông thường đoàn viên, thanh niên ở nhà trường, cơ quan, đơn vị bộ
đội có điều kiện hoạt động thường xuyên hơn. Vì vậy, rất cần phối hợp hoạt động
của các Đoàn Thanh niên ở nhà trường cơ quan, đơn vị bộ đội với đoàn xã và các
chi đoàn thôn, buôn, tạo dần nền nếp sinh hoạt đoàn ở các vùng dân tộc thiểu số,
đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng.
Thứ năm: Nâng cao kiến thức pháp luật cho thanh niên, thực hiện
quyền và nghĩa vụ công dân của thanh niên trước pháp luật, chống các tệ nạn
xã hội trên địa bàn. Văn hoá pháp luật, kiến thức pháp luật trong đoàn viên,
thanh niên các dân tộc thiểu số còn rất hạn chế. Bởi vậy, tổ chức đoàn cần sử
dụng các hình thức tuyên truyền sâu rộng về pháp luật hiện hành.
Thứ sáu: Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng và phát triển đảng viên
mới từ thanh niên các dân tộc. Qua nhiều tài liệu điều tra khảo sát cho thấy
việc phát triển đảng từ đoàn viên, thanh niên vùng dân tộc thiểu số còn rất
chậm. Đây là vấn đề mà tổ chức đoàn và các chi bộ đảng cần quan tâm và có
kế hoạch, chương trình bồi dưỡng nhằm phát triển đảng viên mới từ đoàn
viên, thanh niên dân tộc thiểu số.

5. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội Phụ nữ trên địa bàn xã,
thôn, buôn.
Do đặc điểm kinh tế - xã hội và đặc điểm dân cư, dân tộc, tổ chức và
hoạt động của Hội phụ nữ các vùng dân tộc thiểu số cũng còn nhiều hạn chế
lớn. Để khắc phục tình trạng này cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất: Tuyên truyền sâu rộng, bằng mọi hình thức về vị trí vai trò của
phụ nữ đối với gia đình và xã hội trong đồng bào các dân tộc thiểu số. Do tri thức


22

còn hạn chế và do tác động từ phong tục tập quán lạc hậu, nên vị trí vai trò của
phụ nữ trong các dân tộc thiểu số chưa được coi trọng đúng mức. Bởi vậy, Hội
phụ nữ cần kết hợp với đoàn thể, kết hợp các loại hình tuyên truyền phổ biến, giáo
dục trong toàn dân về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã
hội, thực hiện từng bước bình đẳng nam nữ trong đồng bào các dân tộc thiểu số.
Thứ hai: Nâng cao dân trí cho phụ nữ, vận động chị em và tạo dư luận
xã hội ủng hộ việc học hành, xoá mù chữ, phổ cập tiểu học cho phụ nữ trong
độ tuổi quy định. Đây cũng là một giải pháp cấp bách và là giải pháp lâu dài
nhằm nâng cao nhận thức, nâng cao trình độ văn hóa cho chị em phụ nữ các
dân tộc nói chung.
Thứ ba: Tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia hoạt động xã hội và phát
huy vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm nghèo.
Hội phụ nữ và các thành viên trong hệ thống chính trị cần tạo điều kiện cần
thiết để chị em phụ nữ tham gia hoạt động công tác xã hội và đặc biệt là trong
phát triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm nghèo.
Thứ tư : Hội phụ nữ tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, thực hiện
tốt chính sách dân số. Thực hiện kế hoạch hoá gia đình, sinh đẻ có kế hoạch v.v..
cần được tuyên truyền và thực hiện thường xuyên trong đồng bào các dân tộc.
Thứ năm: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ là người dân tộc thiểu số có

tính đến cơ cấu, trình độ hợp lý trong cơ cấu của Hội đồng nhân dân và các tổ
chức chính trị - xã hội ở cơ sở. Cơ cấu thành phần là cán bộ nữ trong Hội
đồng nhân dân và trong các tổ chức chính trị - xã hội trong thực tế còn chưa
phù hợp, thoả đáng. Bởi vậy, cần có chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
nữ một cách thường xuyên theo quy hoạch.
6. Đổi mới tổ chức và phương hướng hoạt động của Hội Nông dân trên
địa bàn xã


23

Do quá trình thực hiện các chương trình, dự án, trong thời gian qua,
trên các địa bàn nông thôn miền núi phía Bắc, Hội Nông dân đã bước đầu
phát huy tác dụng, nhất là trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội. Tuy nhiên, để Hội thực sự trở thành đại diện cho tiếng nói, nguyện
vọng và quyền lợi của đồng bào các dân tộc cần đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động với những giải pháp cơ bản sau:
Một là: xây dựng quy chế, chương trình hoạt động của Hội đáp ứng
thực hiện tốt những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên các địa bàn xã,
thôn, buôn.
Hai là: Duy trì thường xuyên hoạt động của Hội (kể cả khi có các
chương trình, dự án cũng như khi các chương trình, dự án đã kết thúc).
Ba là: Tăng cường hoạt động của các chi hội ở thôn, bản gắn với cuộc
vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”; “định
canh định cư”; “ xóa đói giảm nghèo”.
Bốn là: Mở rộng tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức, vận dụng
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống cho các hội viên.
Năm là: Thường xuyên sơ kết, đánh giá rút kinh nghiệm hoạt động của
Hội nông dân, phát huy vai trò của Hội và các chi hội trong thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở.

Bên cạnh các tổ chức thành viên đã trình bày ở trên đây, các tổ chức
thành viên khác trong các đoàn thể quần chúng như: Hội Cựu chiến binh, Hội
người cao tuổi v. v.. cũng cần được đổi mới cả về tổ chức và phương thức
hoạt động. Nhiều giải pháp liên quan đến tổ chức và nội dung hoạt động của
các hội, các đoàn thể cần được đặt ra theo phương châm: tổ chức có hệ thống,
vững chắc và hoạt động có nội dung cụ thể thiết thực đáp ứng nhu cầu lợi ích
chung của mọi thành viên tham gia.
7. Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở


24

Từ thực tế trình độ và chất lượng, hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ
chủ chốt ở cơ sở các vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số đòi hỏi
phải thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất của đội
ngũ này, góp phần đắc lực vào đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thứ nhất : Cần rà soát lại một cách đầy đủ về các chỉ tiêu số lượng,
chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nhằm đánh giá tổng thể,
khách quan thực trạng trình độ, năng lực, cơ cấu các chức danh thuộc đội ngũ
cán bộ này. Đây là việc làm đòi hỏi sự chỉ đạo sâu sát của đảng bộ và chính
quyền các cấp nhằm đánh giá đúng và đầy đủ đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở
đã được đào tạo và sử dụng.
Thứ hai: Lập quy hoạch đào tạo ngắn hạn, trung hạn, và dài hạn đối với
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có tính đến đặc điểm đội ngũ cán bộ thuộc
các dân tộc thiểu số. Xây dựng quy hoạch là việc của các cơ sở, song cũng
phải cần được sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp, đặc biệt là cấp huyện.
Thứ ba: Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo đội ngũ này một cách phù
hợp, đa dạng hóa loại hình đào tạo. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, nội dung

cần được chỉ đạo sâu sát, thiết thực mới đảm bảo chất lượng đào tạo bồi dưỡng.
Thứ tư: Cải tiến chế độ phụ cấp đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở, đặc biệt ưu tiên đối với các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Vấn đề
về chế độ đãi ngộ, mức lương và phụ cấp, trợ cấp hiện nay vẫn là vấn đề bức
xúc đối với các chức danh cụ thể trong đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
vùng sâu, vùng xa, biên giới Tây Nguyên hiện nay.
KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một trong những thành quả
vĩ đại nhất của toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam, là sản phẩm của thắng lợi
Cách mạng tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân, là sự trưởng thành và


25

lớn mạnh của các tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trải qua quá trình chiến đấu lâu dài, gian khổ, xây dựng và
bảo vệ thành quả cách mạng cho đến hôm nay. Đó là một hệ thống chính trị kiểu
mới, có bản chất tiên tiến nhất trong lịch sử nhân loại.Trong hệ thống đó Đảng
Cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người tổ
chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động của xã hội, đất nước các tổ chức chính trị
- xã hội thực hiện rộng rãi quyền làm chủ của nhân dân lao động trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự vững mạnh hay suy yếu của hệ
thống chính trị đó có vai trò quyết định đến thắng lợi hay thất bại của công cuộc
xây dựng và bảo vệ xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên có một vị trí vai trò hết sức
quan trọng, xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên góp
phần củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm dân chủ hóa đời sống xã hội vùng
dân tộc thiểu Tây Nguyên là vấn đề còn mới mẻ nhưng rất bức xúc trước yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trực tiếp là phát

triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên .


×