Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN BIẾN đổi cơ cấu xã hội và tác ĐỘNG của nó đến NÔNG dân, NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

CƠ CẤU XÃ HỘI VÀ BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ
HỘI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN

1.1
1.2

Khái niệm cơ cấu xã hội và biến đổi cơ cấu xã hội
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cơ cấu

Chương 2

xã hội và biến đổi cơ cấu xã hội
TÁC ĐÔNG CỦA BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI
ĐẾN VẤN ĐỀ NÔNG DÂN, NÔNG THÔN

2.1

VIỆT NAM HIỆN NAY
Những biểu hiện cơ bản của sự tác động biến đổi

cơ cấu xã hội đến vấn đề nông dân, nông thôn
2.2

Việt Nam.
Xu hướng biến đổi cơ bản của cơ cấu xã hội giai


2.3

cấp nông dân Việt Nam hiện nay
Các giải pháp nhằm quản lý và phát huy vai trò
tích cực của biến đổi cơ cấu xã hội ở khu vực
nông thôn Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


3
MỞ ĐẦU
Giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay là sự phát triển kế tục từ giai
cấp nông dân thời kỳ tập thể hóa. Trong quá trình thực hiện sự nghiệp
đổi mới, sự vận động, phát triển của giai cấp nông dân nước ta gắn liền
với sự phân tầng, phân nhánh ngày càng đa dạng. Sau hơn hai mươi năm
thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với những
thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội, xã hội Việt Nam cũng đã diễn ra một quá
trình biến đổi toàn diện cả ở tầm vĩ mô và vi mô, trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống. Giai cấp nông dân, với số lượng đông đảo nhất trong xã hội cũng
chịu tác động mạnh mẽ dẫn đến sự biến đổi cơ cấu trong nội bộ cũng như tạo
thành những hệ quả phong phú, phức tạp ở khu vực nông thôn.
Công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước ta đã tạo ra những
biến đổi mạnh mẽ, to lớn chưa từng thấy. Đó là sự biến đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; từ một cơ cấu kinh tế gồm hai thành phần với hai hình thức sở hữu
sang nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau; từ
một xã hội truyền thống khép kín sang xã hội hiện đại, mở cửa và hội nhập; từ
một cơ cấu xã hội hai giai cấp, một tầng lớp sang xã hội cùng tồn tại nhiều

giai tầng khác nhau… Tất cả những biến đổi kinh tế – xã hội ấy đến lượt nó
lại trở thành nguyên nhân, điều kiện thúc đẩy những biến đổi cơ cấu xã hội
của nông dân và khu vực nông thôn – bộ phận cư dân lớn nhất, vốn có những
tập quán truyền thống lâu đời nhất, với những thiết chế văn hóa và liên kết xã
hội chặt chẽ nhất ở nước ta.
Từ những vấn đề trên tác giả lực chọn vấn đề: “Biến đổi cơ cấu xã hội và
tác động của nó đến vấn đề nông dân, nông thôn Việt Nam hiện nay” làm tiểu
luận nghiên cứu của mình.


4
Chương 1
CƠ CẤU XÃ HỘI VÀ BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CƠ BẢN

1.1 Khái niệm cơ cấu xã hội và biến đổi cơ cấu xã hội
a. Cơ cấu xã hội
* Khái niệm
Trong các tài liệu về Triết học và Xã hội học, có nhiều định nghĩa về cơ
cấu xã hội. Một điều dễ nhận thấy là mặc dù xuất phát từ các góc nhìn khác
nhau, song các định nghĩa này đều có những điểm chung nhất định. Dưới đây
xin giới thiệu một số định nghĩa như thế.
- Từ điển xã hội học của T.Houll (Mỹ), định nghĩa cơ cấu xã hội như sau: Cơ
cấu xã hội biểu thị: a) các mối quan hệ tương đối ổn định, tồn tại giữa các phương
diện của đời sống xã hội, và b) sự tổ chức tình thế đặc thù của cá nhân hay của
nhóm mà mỗi một trong số đó đều có một địa vị đặc biệt.

- Trong Từ điển xã hội học của Đức, định nghĩa: Cơ cấu xã hội là: a) cơ cấu
của xã hội hay, dưới dạng chung hơn, của hệ thống xã hội, và b) Tổ chức những
người chủ chốt vào các quan hệ có trật tự thiết chế mà những tham số về cơ cấu

quan trọng nhất là tình thế, vai trò và địa vị” (Redklif - Braun Hagel và cộng sự)

Bách khoa toàn thư triết học của Nga thời hậu Xô viết định nghĩa về cơ cấu
xã hội: Theo nghĩa rộng của từ, cơ cấu xã hội biểu thị tổng thể những quan hệ giữa
các nhóm xã hội khác nhau (các giai cấp, các cộng đồng, các tổ chức) và các thiết
chế xã hội bảo đảm tính ổn định tương đối trong xã hội. Theo nghĩa hẹp - tổ hợp
những địa vị xã hội có liên hệ với nhau, mỗi một trong số đó đều có các quyền và
các nghĩa vụ xác định, cần thiết để hoàn thành vai trò xã hội. Cơ cấu xã hội bảo đảm
tính ổn định của hệ thống xã hội; sự tái sản xuất bình thường của nó.

- Ở nước ta, trong tác phẩm Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, tác giả
Nguyễn Đình Tấn định nghĩa: Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên
trong của một hệ thống xã hội nhất định - biểu hiện như là sự thống nhất tương đối


5
bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản nhất cấu thành hệ
thống xã hội. Những thành phần này tạo ra bộ khung cho tất cả các xã hội loài
người. Những thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội là nhóm với vị thế, vai trò xã hội,
mạng lưới xã hội và các thiết chế.

Như vậy, ngoài những điểm chung như là "hình thức tổ chức bên
trong”, là "các mối quan hệ tương đối ổn định”, "có trật tự”, các định nghĩa
còn cho thấy mạng lưới cơ cấu xã hội ở nhiều cấp độ: cấp độ vĩ mô (của toàn
quốc gia - dân tộc), cấp độ trung mô (vùng miền, cộng đồng, đoàn thể), và cấp
độ vi mô (các nhóm nhỏ như gia đình, nhóm bạn...). Hơn thế, các định nghĩa
như trên còn cho thấy các đặc trưng cơ bản của cơ cấu xã hội.
Theo chúng tôi, dù xét dưới cấp độ nào, song nếu phân tích một cách
khái quát các định nghĩa cơ cấu xã hội nêu trên, có thể thống nhất hai đặc
điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, về mặt tổ chức - hệ thống, cơ cấu xã hội là hệ thống những quan
hệ tổ chức xã hội hợp thành một chỉnh thể thống nhất, là cái giữ xã hội thành một
khối, không cho phép nó phân chia ra thành những yếu tố riêng biệt (như các nhóm,
các tổ hợp, hay là các cá nhân tách biệt).

Thứ hai, về mặt phân tầng, cơ cấu xã hội - đó là tổng thể các địa vị, các
nhóm, các tầng lớp hay các giai cấp được tổ chức theo một trật tự có phân cấp, tức
là không bình đẳng trong việc sử dụng những nguồn dự trữ mà hệ thống xã hội có
được. Trên thực tế, bất kỳ sự phân tích và mô tả nào về cơ cấu xã hội cũng đều đã
và đang là sự mô tả các hệ thống bất bình đẳng xã hội. Nhưng, chính yếu tố bất bình
đẳng - như kinh nghiệm chỉ ra - lại thiết định sự phát triển và sự biến đổi của cơ cấu
xã hội.

* Các yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội.
- Nhóm xã hội: Đó là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai
trò, nhu cầu, lợi ích và những định hướng xã hội nhất định. Nhóm xã hội thường
được chia thành 2 loại: Nhóm nhỏ và nhóm lớn. Nhóm nhỏ là một tập hợp gồm ít


6
người, các thành viên quan hệ với nhau trực tiếp và ổn định với tư cách cá nhân.
Nhóm lớn là tập hợp các cộng đồng nhóm, được hình thành bởi những dấu hiệu xã
hội chung có liên quan đến đời sống trên cơ sở của một hệ thống quan niệm xã hội
hiện có. Bên cạnh đó, người ta còn phân chia thành các cặp nhóm khác nhau như:
nhóm chính và nhóm phụ, chủ yếu và thứ yếu, căn bản và không căn bản...

- Vị thế xã hội: Vị thế hay còn được gọi thông thường là vị trí trong cơ cấu
xã hội. Tuy nhiên, vị thế còn nói lên thế và lực của chủ thể. Vị thế quyết định chỗ
đứng và phương thức ứng xử của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Tùy theo các góc
độ khác nhau mà mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có những vị thế khác nhau. Trong

quan hệ xã hội, thường vị thế nghề nghiệp mang ý nghĩa quan trọng hơn cả, nó qui
định những đặc trưng của cá nhân hay nhóm xã hội.

- Vai trò xã hội: đó là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và
quyền lợi gắn với một vị thế cụ thể. Vai trò là sự thể hiện một cách sinh động của vị
thế trong những quan hệ nhất định. Một vị thế, có thể có nhiều vai trò khác nhau và
vai trò sẽ thay đổi trong các quan hệ khác nhau cũng như vai trò sẽ thay đổi khi vị
thế thay đổi.

- Mạng lưới xã hội: Xã hội là tổng hợp của các mối quan hệ. Mạng lưới là
phức hợp các mối quan hệ của cá nhân, nhóm, cộng đồng, các tổ chức. Tất cả các
mối quan hệ của xã hội

tạo

nên
mạng
lưới

xã hội. Không cá nhân, nhóm, cộng đồng, tổ chức hay đoàn thể nào có thể đứng
ngoài mạng lưới xã hội. Trong đời sống xã hội, con người phải xử lý một phức hợp
quan hệ xã hội tồn tại một cách chằng chịt với tư cách là mạng lưới xã hội. Trong
các mối quan hệ đó có những quan hệ đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với vị thế
và vài trò của chủ thể buộc họ phải thực hiện. Tuy nhiên, trong đó cũng có rất nhiều
mối quan hệ không mang tính bắt buộc và đòi hỏi con người phải thực hiện.

- Thiết chế xã hội: là một cơ cấu tổ chức, tương đối có tính cách ổn định của
những khuôn mẫu xã hội, vai trò và tương quan con người thực hiện theo một số lề



7
lối đã được chế tài và thống nhất với mục đích thỏa mãn những nhu cầu xã hội căn
bản. Thiết chế xã hội có 2 chức năng chủ yếu là: Khuyến khích, điều chỉnh, điều
hòa hành vi của con người sao cho phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của xã hội;
và, chế định, kiểm soát, giám sát nhu cầu và hoạt động của các hành vi lệch chuẩn.
Sự tồn tại, ổn định và phát triển của mọi xã hội có được là do có sự quản lý và kiểm
soát xã hội, chính thiết chế xã hội thực hiện các chức năng quản lý và kiểm soát xã
hội.

b. Biến đổi cơ cấu xã hội
- Được dùng để xem xét sự thay đổi của các vị thế, các vai trò, các
mạng lưới, các thiết chế xã hội, tóm lại là các phương diện của đời sống xã
hội dọc theo trục thời gian. Đó là một quá trình xã hội, trong đó ở thời điểm t

1

một phương diện xã hội nào đó có trạng thái X , trong khi ở thời điểm t2 nó có trạng
1

thái X2, và cứ như thế đến thời điểm t n, nó sẽ có trạng thái X . Trong nghiên cứu
n

này, sự biến đổi của cơ cấu xã hội Việt Nam cũng được đặt trên một trục thời gian
là các thời điểm trước Đổi mới và thời kỳ Đổi mới, trong mỗi thời kỳ đó, tùy theo
các vấn đề, các khía cạnh được khảo sát mà khoảng thời gian còn được chia nhỏ
hơn nữa.
- Biến đổi cơ cấu xã hội không những không tách rời, mà còn luôn gắn
liền với sự biến đổi của xã hội và văn hóa, nghĩa là sự biến đổi của toàn bộ hệ thống
xã hội. Nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội theo nghĩa đó cần phải thấy được sự
tác động hai chiều của nó: chiều tiến bộ và chiều thoái bộ. Chẳng hạn, trong việc

thực hiện kế hoạch hóa gia đình, khi tỷ lệ sinh con giảm ít nhiều cũng kéo theo đó
sự mất cân bằng về cơ cấu giới (do nhiều gia đình chỉ thích sinh con trai). Cũng như
vậy, trong lĩnh vực cơ cấu xã hội dân tộc, một khi đồng bào miền xuôi lên khai
hoang ở miền núi thì cố nhiên việc giao lưu văn hóa giữa các dân tộc được tăng
cường, song mặt khác cũng làm cho một số dân tộc thiểu số bị mất đất và đẩy họ
ngày càng lùi dần vào nơi rừng sâu núi thẳm. Nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội
của chúng tôi luôn quan tâm đến cả hai chiều tương tác đó.

Nếu biến đổi cơ cấu xã hội với tư cách là biến số phụ thuộc luôn chịu sự


8
tác động của những biến số độc lập, thì khái niệm biến đổi cơ cấu xã hội phải trở
thành trọng tâm cho suy nghĩ về việc Kế hoạch hóa, việc hoạch định chính sách để sao
cho sự biến đổi đó góp phần vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh mà toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện.

1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cơ cấu xã hội và biến đổi
cơ cấu xã hội

Trong các tác phẩm của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
khi bàn về xã hội và biến đổi xã hội không bàn riêng về thuật ngữ “cơ cấu xã hội”,
nhưng những tư tưởng về xã hội, hình thái kinh tế - xã hội và đấu tranh giai cấp là
cơ sở phương pháp luận cốt yếu để nghiên cứu xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội và
phát triển xã hội.

Trước hết, hãy nói về học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một mẫu mực trong phân tích sự
tồn tại và vận động của xã hội. Nó không những chỉ rõ cơ cấu xã hội, các mối quan
hệ, sự vận động, phát triển của một xã hội nhất định mà còn chỉ rõ sự thay thế nhau

của các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau là một quá trình lịch sử tự nhiên. Học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội bao gồm các quan điểm cơ bản sau:
- Sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Hoạt động
sản xuất là đặc trưng riêng của xã hội loài người. Đó là hoạt động có mục đích
nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người. Sự sản xuất của xã hội loài người bao
gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá
trình này gắn bó mật thiết với nhau, trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò là nền
tảng, cơ sở của sự tồn tại, phát triển xã hội, và xét đến cùng nó quyết định sự tồn tại
và vận động của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ trọng của nó trong hoạt
động của con người ngày càng giảm.
- Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa Mác Lê-nin cho rằng, phương thức sản xuất đó là cách thức mà người ta tiến hành sản
xuất, nó là sản phẩm trực tiếp của sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ


9
sản xuất ở một thời điểm nhất định. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là mối quan hệ tác động lẫn nhau và mang tính chất biện chứng. Nó biểu
hiện quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của đời sống xã hội - đó là
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là một trạng thái mà các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất
tạo ra một môi trường tối ưu cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi lực lượng sản
xuất phát triển đến một mức độ nào đó, nó tất yếu phá vỡ trạng thái phù hợp và
xuất hiện trạng thái mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực
lượng sản xuất phát triển đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng
xích” của nó. Khi đó quan hệ sản xuất cũ sẽ bị phá bỏ để hình thành quan hệ sản
xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và nó mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển. Như thế, lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định
đối với quan hệ sản xuất và sự thay thế nhau của các phương thức sản xuất. Tuy
nhiên, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối, nó luôn tác động trở lại đối

với lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, khuynh hướng phát
triển của công nghệ. Cũng từ đó mà quan hệ sản xuất hình thành các nhân tố thúc
đẩy hay kìm hãm sự phát triển của lực

lượng sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất

phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản, phổ biến của sự biến đổi và phát triển liên tục của xã hội loài người trong suốt
tiến trình lịch sử.
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin khẳng định, phù hợp với lực lượng sản xuất cụ thể có những quan hệ
sản xuất nhất định và phù hợp với kiểu quan hệ sản xuất đó là một hệ thống các
quan hệ chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật... Các quan hệ này được thể hiện
thông qua các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, tòa án, giáo hội
và các tổ chức xã hội khác. Mối quan hệ qua lại giữa các quan hệ kinh tế và quan
hệ tinh thần được gọi là quan hệ của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở
hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra


10
kiến trúc thượng tầng, quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng mà còn tác
động kéo theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng mỗi khi bản thân nó có sự thay
đổi. C.Mác khẳng định: Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng
đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Mặc dù bị quyết định bởi cơ sở hạ tầng
nhưng kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối và luôn tác động trở lại
đối với cơ sở hạ tầng. Cùng với sự tác động trở lại với cơ sở hạ tầng, bản thân các
yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũng tác động qua lại với nhau.
- Tác động của kiến trúc thượng tầng sẽ là tích cực khi nó tác động

cùng chiều với sự vận động của những qui luật kinh tế khách quan chi phối

sự vận động của cơ sở hạ tầng và khi nó tác động ngược chiều với các qui
luật đó thì sẽ cản trở, gây tác hại cho sản xuất xã hội, cản đường phát triển
của xã hội.
Nói tóm lại, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác thực sự là
một cuộc cách mạng trong nhận thức xã hội. Nó chỉ rõ, con người ta trước hết
cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu
tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo,
triết học,v.v... Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện
tượng tinh thần, đều chỉ có thể được hiểu đúng khi gắn với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Với quan niệm duy vật về lịch sử như thế, học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội đã trở thành cơ sở lý luận trong nghiên cứu xã hội, trong đó có cơ
cấu xã hội và sự biến đổi cơ cấu xã hội.

Thứ hai, học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Học thuyết về giai cấp
và đấu tranh giai cấp là một học thuyết căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về cơ cấu
xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội và phát triển xã hội. Giai cấp, theo V.I. Lê nin là:
Những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thì những quan hệ này được pháp luật qui định và thừa nhận) đối với những tư liệu
sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về


11
cách hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp
là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội
nhất định.

Như thế, khi nói tới giai cấp không phải nói tới một tập đoàn người
riêng lẻ mà là một hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế - xã
hội cụ thể do chế độ ấy sinh ra. Mỗi hệ thống giai cấp tương ứng với một hệ

thống sản xuất xã hội nhất định. Trong mỗi hệ thống kinh tế - xã hội, giai cấp
là các tập đoàn người có sự khác nhau về địa vị trong đó và tất nhiên có sự
thống trị của tập đoàn này với tập đoàn khác.
Mỗi kiểu xã hội có một cơ cấu xã hội - giai cấp riêng. Mỗi cơ cấu xã
hội - giai cấp bao giờ cũng có hai giai cấp cơ bản đối kháng nhau. Hai giai
cấp cơ bản này vừa là sản phẩm tất yếu của chế độ kinh tế xã hội, vừa quyết
định sự tồn tại, phát triển của hệ thống sản xuất xã hội. Giai cấp thống trị là
đại diện cho bản chất của chế độ kinh tế xã hội đang tồn tại. Cùng tồn tại với
hai giai cấp này bao giờ cũng có các giai cấp không cơ bản và các tầng lớp
trung gian. Trong đó có tập đoàn là tàn dư của phương thức cũ và có tập đoàn
là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai.
Sự phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội loài người là do sự vận động
nội tại của phương thức sản xuất quyết định, đặc biệt là lực lượng sản xuất.
Vì lẽ đó đấu tranh giai cấp với đỉnh cao là thời kỳ cách mạng chính là đòn
bẩy để thay đổi hình thái kinh tế - xã hội. Nói cách khác, đấu tranh giai cấp
chính là động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội. Hơn thế, trong xã hội có
giai cấp đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực cải tạo xã hội mà còn là
động lực cải tạo và hoàn thiện con người.
V.I. Lênin khẳng định, chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng lợi triệt
để khi giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân dân xây dựng


12
thành công phương thức sản xuất mới, mà phương thức ấy có thể tạo ra năng
suất lao động cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Chừng nào chưa đạt được điều
đó thì khả năng phục hồi của chủ nghĩa tư bản vẫn còn. Đặc biệt, các thế lực
tư bản quốc tế với toàn bộ sức mạnh của nó đã không từ mọi thủ đoạn và
phương tiện nào để chống phá chủ nghĩa xã hội. Sự tan rã của Liên xô và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thời gian qua là minh chứng hùng hồn cho
dự báo của V.I. Lê-nin. Do đó, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, giai

cấp công nhân và nhân dân lao động phải đồng thời làm thất bại mọi mưu
toan phục hồi của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê- nin,
là phương pháp luận biện chứng duy vật để nhận thức bản chất của cơ cấu xã
hội và sự biến đổi, phát triển của xã hội trong tiến trình vận động của lịch sử.
Nó đặc biệt quan trọng trong sự xem xét cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội
tư bản chủ nghĩa với tư cách là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng của lịch sử
nhân loại và sự ra đời của một chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - không
còn giai cấp. Hơn thế, nó cũng soi sáng những vấn đề cốt yếu của cách mạng
xã hội chủ nghĩa sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và xây
dựng chế độ mới.


13
Chương 2
TÁC ĐÔNG CỦA BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI ĐẾN VẤN ĐỀ NÔNG
DÂN, NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Những biểu hiện cơ bản của sự tác động biến đổi cơ cấu xã hội
đến vấn đề nông dân, nông thôn Việt Nam.
Sự biến đổi cơ cấu xã hội là sản phẩm tất yếu của tiến trình hiện đại hóa
xã hội và có tính hợp lý lịch sử. Nó gắn liền với sự đa dạng hóa sở hữu và quá
trình phân công lao động. Cùng với sự phát triển của phân công lao động,
những ngành nghề mới sẽ xuất hiện và thúc đẩy sự phân bổ có hiệu quả
nguồn nhân lực, thúc đẩy cơ cấu xã hội phát triển từ đơn giản đến phức tạp.
Do vậy, sự biến đổi cơ cấu xã hội có hiệu ứng tích cực đối với sự tiến bộ và
phát triển của xã hội. Những tác động tích cực chủ yếu của biến đổi cơ cấu xã
hội ở khu vực nông thôn và nông dân là:
- Thúc đẩy sự chuyển đổi từ cơ cấu xã hội truyền thống sang cơ cấu xã hội
hiện đại, đa dạng hơn đã mở ra khả năng phát triển mới cho những người nông
dân. Người nông dân đang dần dần được giải phóng khỏi sự hạn chế của những

thiết chế thời bao cấp để họ có thể dựa vào thành quả phấn đấu của mình, tự
xác định vị trí trong xã hội rộng mở. Trước đây, chúng ta đã tiến hành các cuộc
cải tạo nông thôn, hợp tác hóa nông nghiệp. Một trong những hệ quả của các
cuộc cải tạo này là hình thành nên một số tầng lớp xã hội của nông thôn, gắn
liền với thân phận chính trị như: bần nông, cố nông, phú nông, xã viên hợp tác
xã, cán bộ địa phương, cán bộ, công chức cư trú ở nông thôn… Sau khi thực
hiện chính sách đổi mới, cơ cấu xã hội ở khu vực nông thôn dựa trên tiêu chí cũ
này đã biến đổi dần dần, thay vào đó là cơ cấu xã hội mới mà các tiêu chí chủ
yếu dựa trên cơ sở kinh tế. Người nông dân cũng thoát dần sự ràng buộc
nghiêm ngặt của chế độ quản lý hộ khẩu, quản lý sản xuất nông nghiệp để tìm


14
đến những ngành nghề mới thu lợi nhiều hơn hay vào thành phố kinh doanh,
kiếm việc làm. Nhiều người trong số họ thành công, trở thành các ông chủ
trang trại, chủ doanh nghiệp, những người giàu có. Sự biến đổi cơ cấu xã hội
đó thực sự là dấu hiệu tích cực trong xã hội đang chuyển đổi từ mô hình truyền
thống sang mô hình hiện đại. Nó có tác dụng kích thích mọi thành viên phấn
đấu, bứt lên, nâng cao địa vị và vai trò trong xã hội.
- Biến đổi cơ cấu xã hội ở khu vực nông thôn trở thành điều kiện thúc
đẩy cải thiện đời sống vật chất của người nông dân theo hai hướng. Theo
hướng thứ nhất, người nông dân có quyền tự quyết định trong việc sử dụng
các nguồn lực, các tư liệu sản xuất cùng với sự hỗ trợ ngày càng có hiệu quả
của Nhà nước để làm ra của cải, hàng hóa, tự cải thiện đời sống gia đình
mình. Theo hướng thứ hai, bộ phận những người nông dân giàu có phát huy
khả năng của mình sẽ trở thành những "đầu tàu" kinh tế trong từng cộng đồng
dân cư. Họ là những chủ trang trại, chủ doanh nghiệp, chủ xưởng sản xuất
hàng thủ công, mỹ nghệ, gia công hàng xuất khẩu…, tạo công ăn, việc làm,
thu hút lao động nông thôn, truyền bá kinh nghiệm mô hình, phương thức làm
giàu cho người nông dân. Đến lượt nó, sự cải thiện đời sống nông dân, sự

phát triển các hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng lại trở thành động lực
cũng như tạo ra các nguồn lực cho việc phát triển cơ sở hạ tầng của nông
nghiệp, nông thôn.
- Biến đổi cơ cấu xã hội khu vực nông thôn tạo điều kiện mở mang, phát
triển văn hóa, giáo dục, nâng cao trình độ hiểu biết của người nông dân, tăng
cường khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào nông nghiệp.
Bản thân việc hình thành và phát triển các tầng lớp khác nhau trong nội bộ
giai cấp nông dân đã tạo ra một chất xúc tác, kích thích việc mở mang văn
hóa, nâng cao trình độ dân trí. Đời sống một bộ phận lớn nông dân được cải
thiện rõ rệt mở ra nhiều hơn cơ hội tiếp cận giáo dục, mở rộng nhu cầu phát


15
triển các trường học để đáp ứng nhu cầu học tập của con em nông dân nói
chung. Sự phát triển, mở rộng ảnh hưởng của các phương tiện thông tin báo
chí ở nông thôn đáp ứng nhu cầu thông tin tăng lên của một bộ phận cư dân
nông thôn; đồng thời, góp phần nâng cao dân trí, kích thích nhu cầu hiểu biết,
mở mang tầm nhìn của người dân nông thôn.
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đời sống xã
hội ở nông thôn. Thực tế chứng minh, quá trình hình thành các giai tầng mới
cũng chính là quá trình chuyển biến tư tưởng và quan điểm của các thành viên
trong xã hội. Sự thay đổi và nâng cao địa vị xã hội đã làm cho ý thức dân chủ
của các giai tầng cũng được nâng cao. Họ không chỉ mong muốn cải thiện đời
sống, mà còn có nguyện vọng tham gia đầy đủ hơn vào các hoạt động dân chủ
của đất nước. Chính vì thế mà hiện nay càng có nhiều nông dân tham gia bộ
máy công quyền hoặc các tổ chức xã hội. Người nông dân tự ý thức rõ hơn
quyền lợi, trách nhiệm của mình, chủ động hơn trong việc tham gia các công
việc chung của thôn, xóm. Đây sẽ là nhân tố khởi nguồn cho sự phôi thai và
hình thành những hình thức tự quản, tăng cường trên thực tế quyền làm chủ
của nhân dân, của các cộng đồng dân cư.

- Biến đổi cơ cấu xã hội nông thôn góp phần giữ vững ổn định chính trị xã
hội. Sự biến đổi cơ cấu xã hội là quá trình chuyển từ đơn giản sang phức tạp,
với cả hai trạng thái động và tĩnh. Sự xuất hiện tầng lớp mới làm nảy sinh lợi
ích mới, có thể đem lại sự phức tạp hơn trong đời sống xã hội nông thôn. Tuy
nhiên, nếu sự hình thành cơ cấu mới là phù hợp với xu thế chung cũng như với
quy luật của xã hội hiện đại, góp phần cải thiện đời sống của người dân ở nông
thôn, thì nó sẽ có tác dụng giữ vững cục diện ổn định lâu dài của xã hội.
Cùng với những tác động tích cực trên, sự biến đổi cơ cấu xã hội nông
thôn nước ta hiện nay cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, không chỉ


16
gây cản trở đến sự phát triển khu vực nông thôn mà còn dẫn đến những tiêu
cực xã hội không thể coi thường. Có thể nhận thấy một số vấn đề chủ yếu sau:
- Khoảng cách giàu – nghèo giữa hai cực của xã hội nông thôn ngày một
gia tăng. Những cơ hội phát triển cho người giàu sẽ nhiều hơn. Những người
nghèo ngày càng khó khăn hơn do những hạn chế về chăm sóc sức khỏe, tiếp
cận giáo dục cho đến những nhu cầu thiết yếu như nhà ở, dinh dưỡng… Nói
cách khác, những người nghèo ở nông thôn sẽ càng thiếu cơ hội để cải thiện
cuộc sống của mình. Do đó, cơ hội để thoát khỏi tình trạng nghèo của họ càng
khó khăn hơn. Trong khi đó, những thành quả của công cuộc đổi mới tác
động đến khu vực nông thôn và nông dân chưa nhiều. Thêm vào đó, ở một số
khu vực nông thôn thuộc vùng núi cao, bãi ngang, vùng sâu, vùng xa, đời
sống nói chung của nông dân còn rất khó khăn do đường giao thông không
thuận tiện, điện, trường học, bệnh xá còn thiếu và những hủ tục, tập quán lạc
hậu chưa được khắc phục. Một bộ phận nông dân bị thu hồi đất để xây dựng
các công trình công cộng, phát triển đô thị hoặc xây dựng các khu công
nghiệp đã không tìm được việc làm ổn định và lâm vào hoàn cảnh khó khăn.
Đó là những nhân tố dẫn đến những hệ quả phức tạp, không mong đợi, là
mầm mống có thể gây nên những bất ổn định, tiêu cực và xung đột xã hội ở

khu vực nông thôn.
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội ở khu vực nông dân, nông thôn không chỉ dẫn
đến sự phân hóa giàu – nghèo, mà còn dẫn tới sự thay đổi về văn hóa, lối
sống, thay đổi hệ giá trị cuộc sống ở khu vực nông thôn. Đó là nguồn gốc dẫn
tới những hiện tượng phức tạp trong quan hệ xã hội, phát sinh những tệ nạn,
hiện tượng tiêu cực, phá vỡ những truyền thống tốt đẹp, phá vỡ sự cố kết cộng
đồng truyền thống vốn có ở nông thôn. Một bộ phận dân cư, chủ yếu là những
người già, người về hưu, các gia đình chính sách, những người yếu thế ở nông
thôn không thích ứng kịp với nền kinh tế thị trường, với thang giá trị mới,


17
xuất hiện tâm lý bất an, thậm chí mất niềm tin về công bằng xã hội, về ý nghĩa
tốt đẹp của chế độ – những ý niệm vốn gắn bó với thời kỳ bao cấp trước đây.
Đó cũng là một biểu hiện có vẻ như nghịch lý khi công cuộc xây dựng phát
triển đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, đời sống nhân dân được
cải thiện, vị thế quốc tế của đất nước được nâng lên nhiều nhưng tình hình tư
tưởng lại diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn.
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội trong nội bộ giai cấp nông dân và khu vực
nông thôn đang diễn ra nhanh chóng. Các tầng lớp, bộ phận cư dân nông thôn
mới hình thành còn rất hạn chế về tính ổn định. Tình trạng ấy diễn ra trong
điều kiện ở nông thôn đang tồn tại một loạt vấn đề kinh tế – xã hội khác như:
thiên tai, dịch bệnh liên miên; sự ô nhiễm môi trường sống và môi trường sản
xuất nông nghiệp; tình hình khiếu kiện về tranh chấp đất đai chưa thể giải
quyết dứt điểm; bất công bằng về điều kiện sống, chăm sóc y tế; điều kiện học
tập của một bộ phận con em người nghèo không được bảo đảm; tuyệt đại bộ
phận nông dân còn sản xuất manh mún, năng suất thấp; hệ thống chính trị cơ
sở ở nhiều nơi còn yếu kém… Đó là những yếu tố sẽ tác động tiêu cực đến sự
đồng thuận xã hội, đến khả năng động viên, tổ chức nhân dân thực hiện các
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, hạn chế đến việc xây dựng nông

thôn mới và khả năng phát huy vai trò tích cực của nông dân vì sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước.
2.2. Xu hướng biến đổi cơ bản của cơ cấu xã hội giai cấp nông dân
Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở nghiên cứu thực tế có thể thấy, những năm vừa qua và trong
thời gian tới cơ cấu xã hội của giai cấp nông dân nước ta biến đổi theo những
phương hướng sau đây:
Một là, xu hướng giảm tương đối về tỷ lệ và tuyệt đối về số lượng nông
dân trong cơ cấu xã hội và dân cư nước ta.


18
Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã
đưa tới sự giảm đi tương đối (tức là tỷ lệ nông dân trong tổng số dân) và tuyệt
đối (tức là số lượng nông dân) trong cơ cấu lao động và cơ cấu dân cư. Tỷ lệ
lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội nước ta đang có xu hướng
giảm dần mỗi năm từ 1% – 1,5%, hiện nay chỉ còn khoảng 25 triệu người,
chiếm 56%. Theo dự báo, lao động nông nghiệp nước ta sẽ còn 50% vào năm
2010 và 30% vào năm 2020. Bắt đầu và ngày càng có xu hướng "công nhân
hóa nông dân". Điều này được thể hiện, một mặt, từ chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ; mặt khác, từ việc nông
dân ngày càng được nâng cao về học vấn, trình độ sản xuất, việc ứng dụng
khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp được nâng
lên không ngừng. Các hình thức tổ chức sản xuất của nông dân ngày càng đa
dạng. Kinh tế tư nhân với nhiều hình thức khác nhau vẫn là lực lượng quan
trọng, có khả năng thu hút nhiều lao động. Một số hộ nông dân ở các địa
phương đã phát triển theo hướng kinh tế trang trại, khắc phục dần quy mô
nhỏ, tình trạng manh mún, tạo ra khả năng ứng dụng khoa học, kỹ thuật để
mang lại năng suất, chất lượng hàng hóa nông phẩm ngày càng cao. Kinh tế
hợp tác và hợp tác xã cũng đang được chú trọng phát triển theo hướng liên kết

tự nguyện, tự quản.
Xu hướng giảm dần số lượng, tỷ lệ lao động nông nghiệp và nông dân
đồng thời là hệ quả tất yếu của sự phát triển, chuyển dịch của cơ cấu kinh tế
trên địa bàn cả nước cũng như mỗi khu vực, từng địa phương theo hướng phổ
biến là tỷ trọng công nghiệp tăng lên, tỷ trọng nông nghiệp giảm đi. Đó là xu
hướng và quy luật của sự phát triển tiến bộ hợp quy luật, sẽ tất yếu diễn ra ở
các nước đang phát triển, đi lên từ một nước cơ bản là nông nghiệp như nước
ta.


19
Tốc độ giảm tương đối về tỷ lệ và tuyệt đối về số lượng giai cấp nông
dân nước ta sẽ ngày càng tăng nhanh cùng với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nói chung, và quá trình ứng dụng khoa học, kỹ thuật
hiện đại, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp nói riêng. Kết quả là lao
động tất yếu trong nông nghiệp, nông dân sẽ giảm xuống và dôi ra, trở thành
nguồn nhân lực cần thiết cho sự phát triển công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp
và dịch vụ. Đến lượt nó, sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ sẽ tác động
trở lại, trở thành động lực thúc đẩy nông nghiệp phát triển hơn nữa.
Nhân tố quốc tế cũng đã và đang tác động vào xu hướng giảm tương đối
của giai cấp nông dân nước ta. Đó là dòng chảy xuất khẩu lao động mà phần
đông là con em nông dân mới được đào tạo nghề để đi lao động ở nước ngoài.
Lao động ở nước ngoài cũng bao gồm nhiều ngành nghề đa dạng mà người
lao động chủ yếu từ nông dân và nông thôn tham gia dòng chuyển động này.
Các nhân tố trên tác động đồng thời và đan xen với nhau làm cho xu
hướng giảm dần tương đối về tỷ lệ, tuyệt đối về số lượng giai cấp nông dân
trong cơ cấu xã hội và dân cư không những không đảo ngược mà còn nhanh
dần lên, như một biểu hiện của sự chuyển dịch xã hội mang tính tiến bộ.
Hai là, xu hướng phân nhánh, phân tầng đa dạng hóa trong cơ cấu
giai cấp nông dân.

Giai cấp nông dân hiện nay là sự phát triển kế tục từ giai cấp nông dân
thời kỳ tập thể hóa. Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, sự vận động,
phát triển của giai cấp nông dân nước ta gắn liền với sự phân tầng, phân
nhánh ngày càng đa dạng. Cùng với sự hình thành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đa sở hữu, người nông dân cũng có mặt trong các
thành phần kinh tế khác nhau: Kinh tế quốc doanh với những nông trường,
lâm trường; kinh tế tập thể với các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất; kinh tế tư
nhân có những trang trại và kinh tế hộ gia đình, v.v.. Xu hướng phân nhánh


20
này sẽ tất yếu kéo theo những khác biệt về phương thức lao động, vai trò
trong quá trình sản xuất, mức độ hưởng thụ và cơ hội phát triển mọi mặt. Đó
cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân tầng theo chiều
dọc trong nội bộ giai cấp nông dân. Do vậy, hình ảnh người nông dân hiện
nay đã trở nên đa dạng, không "thuần nhất" như trước đây.
Xu hướng đa dạng hóa ngành nghề trong sản xuất nông nghiệp đã, đang
và sẽ đưa tới sự đa dạng hóa trong cơ cấu nội bộ giai cấp nông dân. Những
ngành nghề truyền thống như trồng trọt, chăn nuôi, tiếp tục được phát triển
nhưng đã có những thay đổi lớn cùng với sự chuyển đổi về cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, sự phát triển về năng suất, chất lượng, số lượng, chủng loại sản
phẩm do ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và đáp ứng nhu cầu thị
trường hiện đại. Một bộ phận nông dân tiếp tục mở rộng sản xuất các nghề
thủ công, các làng nghề truyền thống. Nếu năm 1994, số hộ chuyên ngành
nghề tiểu, thủ công nghiệp chiếm 11,2 % số hộ nông dân, thì hiện nay tỷ lệ đó
là 26%. Một bộ phận khác chuyển sang hoạt động dịch vụ, phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp và gắn bó với khu vực nông thôn như: kinh doanh xăng,
dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc, làm máy xay xát nhỏ,
điều hành các tổ xây dựng, tổ nghề mộc… ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa,
vẫn còn một bộ phận nông dân sống theo phương thức tự túc, tự cấp.

Trong quá trình phát triển, một bộ phận nông dân đã giàu lên do biết làm
ăn và tranh thủ được cơ hội. Một số nông dân do hạn chế về khả năng tiếp cận
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, gặp hoàn cảnh khó khăn do thiên tai hay sức
khỏe hạn chế mà cuộc sống không được cải thiện đáng kể, thậm chí còn
nghèo đi. Khoảng cách giàu – nghèo ở nông thôn cũng ngày càng dãn ra.
Theo một nghiên cứu của Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, nhóm thu
nhập thấp nhất ở khu vực nông thôn vùng Tây Nam Bộ chiếm 21,5% dân cư
với thu nhập bình quân 2,94 triệu/người/ năm. Trong khi đó, con số tương


21
ứng của nhóm có thu nhập cao nhất là 18,3% và 31,51 triệu đồng. Khoảng
cách thu nhập của hai nhóm này là 10,7 lần.
Ba là, xu hướng biến đổi trong thiết chế gia đình và xã hội ở nông thôn.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, thiết chế gia đình và xã hội ở khu
vực nông thôn nước ta đã có những thay đổi để thích ứng với những điều kiện
kinh tế – xã hội mới. Điều này được thể hiện qua những thay đổi trong phân
công lao động gia đình, trong các quan hệ kinh tế giữa các thành viên trong
gia đình và họ tộc, trong các quan hệ giữa các đơn vị kinh tế (thường là hộ gia
đình) với nhau. Cũng có thể thấy những thay đổi trong cơ cấu đầu tư của các
gia đình vào các hoạt động kinh tế, đầu tư cho nguồn nhân lực gia đình, cơ
cấu sử dụng thời gian,…
Bên cạnh đó, những quan hệ gia đình, và rộng hơn là các quan hệ họ hàng,
thân tộc ở khu vực nông thôn cũng đang biến đổi theo hướng linh hoạt hơn,
hiện đại hơn. Đồng thời với việc quan hệ hôn nhân ngày càng tự do hơn, cũng
là sự gia tăng về tỷ lệ ly hôn. Những thiết chế có tác dụng duy trì, củng cố quan
hệ họ hàng, thân tộc cũng giảm dần về quy mô cũng như yêu cầu bắt buộc do
sự phát triển tình trạng lao động nông thôn "ly nông, ly hương" ngày càng
nhiều, do tính chất ngày càng đa dạng của các ngành nghề lao động sản xuất.
Về tổ chức cộng đồng, bên cạnh các thiết chế chính thức như gia đình,

dòng họ, xóm ngõ, cụm dân cư, người nông dân còn tự làm đa dạng đời sống
của mình bằng cách tham gia các tổ chức phi chính thức như các hội (đồng
niên, đồng môn,…), các câu lạc bộ (thơ, dưỡng sinh,…). Bên cạnh các hình
thức cổ truyền trong vui chơi giải trí như uống trà, câu cá, tụ họp bạn bè hàng
xóm,… thì nay đã xuất hiện các hình thức mới như đọc sách báo, xem truyền
hình, nghe nhạc…
2.3 Các giải pháp nhằm quản lý và phát huy vai trò tích cực của biến đổi
cơ cấu xã hội ở khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay


22
Thứ nhất, phân loại lao động nông thôn một cách khoa học, hợp lý Nghĩa
là, sắp xếp, bố trí việc làm và áp dụng chế độ đãi ngộ khác nhau đối với các thành
phần lao động nông thôn khác nhau về trình độ văn hoá, khả năng và hiệu quả lao
động... Như vậy mới phát huy được sở trường lao động của mỗi người, giúp họ
nhanh chóng trưởng thành và tham gia vào các tầng lớp xã hội cao hơn. Song song
với việc làm đó cần tiến hành điều chỉnh và khống chế lực lượng lao động nông
thôn di chuyển bất hợp lý ra thành phố. Nghĩa là, các cấp chính quyền có trách
nhiệm quản lý lao động cần căn cứ vào khối lượng và cơ cấu lưu chuyển lao động
trong từng thời kỳ để điều tiết hoặc khống chế hay mở rộng một cách hợp lý luồng
di chuyển lao động từ nông thôn, bằng các biện pháp kinh tế hoặc hành chính phù
hợp. Điều đó nhằm bảo đảm cho sự phát triển nhanh chóng, lành mạnh và bền vững
của kinh tế, sự phát triển ổn định của xã hội, đồng thời đẩy nhanh tiến trình luân
chuyển các tầng lớp trong xã hội;

Thứ hai, tăng cường công tác quản lý di chuyển lao động nông thôn, phù
hợp với yêu cầu sử dụng lao động và quy định của luật pháp. Cụ thể là, tích cực
kiện toàn các tổ chức môi giới hướng nghiệp, tạo việc làm theo hướng lành mạnh,
hiệu quả; kiện toàn thị trường lao động nông thôn xuyên khu vực, xuyên ngành,
từng bước hình thành thị trường lao động thống nhất và phương hướng chỉ đạo lưu

chuyển lao động trên phạm vi toàn quốc; kiện toàn chế độ tạo việc làm cho lực
lượng lao động được lưu chuyển, xác định rõ điều kiện, trình tự, trách nhiệm và
nghĩa vụ của việc sử dụng lao động nông thôn ra thành phố; phối hợp hài hoà, đồng
bộ các cơ sở có liên quan tới công tác lưu chuyển lao động nông thôn.;

Thứ ba, từng bước quy hoạch và đẩy mạnh công tác đào tạo lao động nông
nghiệp, nông thôn một cách hợp lý. Trình độ văn hoá giáo dục là khâu quan trọng
then chốt, có tác dụng giải quyết nhiều mâu thuẫn trong quá trình hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Một khi trình độ văn hoá được nâng cao, lao động nông thôn sẽ
tìm kiếm được công việc phù hợp với năng lực, sở trường hơn, hiệu suất lao động
của họ cũng được nâng cao hơn; việc bố trí, phân bổ nguồn lực sẽ mang tính tổng
thể, toàn diện hơn; thị trường lao động sẽ thống nhất và có trật tự hơn; mâu thuẫn


23
giữa dân cư thành thị với lao động nông thôn sẽ dịu lắng hơn. Có thể khẳng định,
đào tạo, nâng cao trình độ văn hoá cho lao động nông thôn nói riêng, toàn bộ người
lao động nói chung là chiến lược vừa lâu dài, vừa là công việc cấp bách mà chúng
ta phải tích cực tiến hành ngay từ giai đoạn này. Điều đó góp phần rất quan trọng,
mang tính quyết định đối với quá trình biến đổi lành mạnh cơ cấu xã hội, tạo lực
lượng tầng lớp trung lưu việt hơn, cả về số lượng lẫn chất lượng.

Thứ tư, đẩy nhanh quá trình đô thị hoá. Đô thị hoá là yếu tố rất quan trọng
thu hút lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho quá trình điều chỉnh cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp. Đến này đã có
29,6% dân số sống ở khu vực thành thị so với 23,7% vào năm 1999. Như vậy, trong
thời kỳ 1999-2009, dân số thành thị đã tăng nhanh với tỷ lệ tăng bình quân là
3,4%/năm, trong khi ở khu vực nông thôn tỷ lệ này là 0,4%/năm. Trong vòng 10
năm, dân số cả nước tăng 9,47 triệu người, trong đó 7,3 triệu tăng ở khu vực thành
thị, chiếm 77% tăng lên.


Quá trình này không chỉ có lợi cho sự phát triển kinh tế, thực hiện mục
tiêu hiện đại hoá, mà còn đẩy nhanh quá trình biến đổi cơ cấu giai tầng, thu
hẹp quy mô giai tầng lao động nông nghiệp, mở rộng tầng lớp trung lưu, nâng
cao thu nhập và trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý cho
đông đảo người lao động. Để làm được việc này, bên cạnh việc điều chuyển
hợp lý lực lượng lao động dư thừa từ nông thôn ra thành thị, cần tập trung
làm tốt hai nhiệm vụ sau:
Một là, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn bằng quá trình sắp đặt và
chuẩn hoá hệ thống ngành nghề trong nông nghiệp. Nghĩa là, phát triển các ngành
chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo một hệ thống chỉnh thể, cân đối
và hợp lý. Các ngành nghề đó sẽ hoạt động trong cơ chế dịch vụ nông nghiệp kiện
toàn, lành mạnh, với sự trợ giúp và bảo hộ cần thiết của nhà nước. Mục tiêu đạt tới
là tạo nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập ổn định cho người nông dân, tạo điều
kiện tốt hơn để họ có thể hoà nhập với cuộc sống của cư dân thành thị, dù làm việc


24
ở thành phố hay sinh sống ở nông thôn. Nói cách khác, đây là một con đường thực
hiện đô thị hoá, cải thiện và thay đổi thân phận, địa vị của người nông dân, gia tăng
số lượng tầng lớp trung lưu trong xã hội.

Hai là, phát huy vai trò của các thành phố, các khu công nghiệp trong việc
trợ giúp và lôi kéo khu vực nông thôn cùng phát triển. Sau gần 25 năm đổi mới,
chúng ta đã bước đầu hình thành những thành phố, trung tâm công nghiệp đầu tầu,
bên cạnh đó là các thành phố, thị trấn nhỏ với các khu công nghiệp địa phương. Sự
lớn mạnh của các thành phố nhỏ, với vai trò vệ tinh của các thành phố lớn có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Nó vừa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế vùng và
kinh tế cả nước, vừa góp phần làm giảm thiểu sức ép dân số cho thành phố lớn.
Tương tự như vậy, các thị trấn cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong

tốc độ tăng trưởng của một khu vực. Chính bởi thế, trong thời gian tới, cần quan
tâm đến sự phát triển của các thành phố nhỏ, các thị trấn địa phương, phải coi đây
là mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong quá trình đô thị hoá.

Như vậy, để cải thiện và nâng cao chất lượng sống của cư dân nông
nghiệp, giúp họ gia nhập ngày càng nhiều vào giai tầng trung gian, cần tiếp
tục thực hiện các chính sách trợ giúp lao động nông thôn một cách hiệu quả.
Bên cạnh việc tìm cách giảm thiểu tối đa lực lượng lao động nông thôn chủ
yếu bằng nghề nông, cần áp dụng các biện pháp tình huống hiệu quả nhằm hỗ
trợ tầng lớp lao động nông nghiệp nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo
khổ và lạc hậu so với trình độ phát triển chung của đất nước. Xoá bỏ cơ chế
nhị nguyên, phân biệt chế độ đãi ngộ và đảm bảo xã hội giữa thành thị và
nông thôn là khâu rất quan trọng góp phần nâng cao đời sống cư dân nông
nghiệp. Điều quan trọng hơn là Việt Nam phải tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho đông đảo người lao động nông nghiệp thay đổi thân phận, tham gia ngày
càng nhiều vào tầng lớp trung lưu. Đó mới đích thực là con đường nâng cao
chất lượng cuộc sống bền vững cho người lao động nông nghiệp.


25
KẾT LUẬN
Biến đổi cơ cấu xã hội trong khu vực nông dân, nông thôn ở nước ta hiện
nay là một tiến trình tất yếu, là kết quả lô-gic của công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời gian tới, khi mà công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng tăng cường, cơ cấu kinh tế vĩ mô của
đất nước ngày càng dịch chuyển nhanh theo hướng công nghiệp, dịch vụ thì
sự biến đổi cơ cấu xã hội của nông dân, nông thôn sẽ còn nhanh chóng và sâu
sắc hơn. Trong điều kiện ấy, những tác động của quá trình đó đối với xã hội
nông thôn sẽ còn mạnh mẽ và phức tạp hơn nữa. Nhìn chung, quá trình biến
đổi cơ cấu xã hội nông thôn là tích cực, là phù hợp với quy luật phát triển.

Tuy nhiên, mặt trái của quá trình đó cũng là không tránh khỏi. Vấn đề đặt ra
là cần phải có một hệ thống những chính sách đồng bộ, hợp lý và kịp thời để
phát huy hết được những ảnh hưởng tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất
những ảnh hưởng tiêu cực của những biến đổi cơ cấu xã hội của nông dân
trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát
triển đất nước./


26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. L.G.Ionin, Sociologija Kultury, M.Logos, 1996
2. Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, 2005
3. C.Mác-Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. NXB Khoa học Xã hội, 2004
5. Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội 1998

6. Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995
7. Phan Đại Doãn và cộng sự, Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện nay- Một số
vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996

8. Viện thông tin khoa học xã hội, Nông thôn trong bước quá độ sang kinh tế thị
trường. Chuyên đề thông tin Khoa học xã hội tháng 5/2005, Hà Nội

9. Nguyễn Văn Tiến, Tổng cục Thống kê, Số liệu về sự biến đổi xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Hà Nội : Thống kê, 2001

10. Lê Mạnh Năm, Sự biến đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp qua các làng xã châu
thổ sông Hồng (Nhìn từ chặng đầu đổi mới). Luận văn cao học / Lê Mạnh Năm . Hà Nội i Viện Xã hội học, 2001



×