Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN NHỮNG tư TƯỞNG vĩ đại của các mác TIẾP tục SOI SÁNG CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.03 KB, 12 trang )

NHỮNG TƯ TƯỞNG VĨ ĐẠI CỦA CÁC MÁC
TIẾP TỤC SOI SÁNG CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Các Mác, người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên toàn thế giới, bậc vĩ nhân mà cuộc đời và sự nghiệp in đậm dấu ấn
lên toàn bộ lịch sử cận đại và hiện đại của nhân loại.
Ngày 5 tháng 5 năm 1818, ở thành phố Trier cổ kính miền Tây nước
Đức đã sinh ra một con người mà cuộc đời và sự nghiệp sẽ sống mãi trong
khối óc, trái tim của hàng triệu, hàng triệu con người yêu tự do, hoà bình,
công lý và chính nghĩa, một con người mà chính kẻ thù tư tưởng cũng phải
nghiêng mình kính phục trước đạo đức sáng ngời và trí tuệ vô song. Con
người ấy là Các Mác.
Sinh ra trong một gia đình trí thức, song ngay từ tuổi thiếu niên Mác đã
sống rất gần gũi với công nhân và nhân dân lao động cần lao. Mác đã tận mắt
chứng kiến bao nỗi khổ cực, bất công mà người lao động phải chịu đựng,
những tai họa thường xuyên đe doạ cuộc sống của họ. Vào đầu những năm 40
thế kỷ XIX, các phong trào giải phóng của quần chúng nhân dân, đặc biệt là
phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ khắp nước Đức và khắp các nước
Tây Âu. Mác nhận thấy các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân
thường lâm vào bế tắc, không tránh khỏi thất bại vì chúng tự phát, mò mẫm
trong đêm tối. Mác sớm nhận ra rằng trong các lực lượng đấu tranh cho tự do,
dân chủ thì công nhân là người kiên cường nhất, thường đấu tranh có tổ chức
nhất. Nhưng chỉ khi đã có thế giới quan mới, chỉ sau khi nghiên cứu sâu sắc,
toàn diện CNTB, Mác mới phát hiện, lý giải một cách khoa học vai trò lịch sử
của giai cấp công nhân. Phong trào công nhân ở các nước tư bản phát triển


đòi hỏi cấp bách phải có lý luận khoa học dẫn đường. Các Mác cùng với Ăng
ghen, là hai người đầu tiên đảm đương sứ mệnh lịch sử vĩ đại là xây dựng lý
luận cách mạng cho giai cấp công nhân, qua đó “làm cho giai cấp công nhân
hiểu rõ địa vị của mình và đem khoa học thay thế cho mộng tưởng” (Lênin).


Lịch sử đặt ra yêu cầu bức bách là giải đáp một cách có căn cứ khoa học
những vấn đề cơ bản của thời đại đã được các tư tưởng tiên tiến của loài
người đặt ra.
Cùng với Ăng ghen, Mác đã tổng kết sâu sắc toàn bộ lịch sử loài người,
toàn bộ các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, toàn bộ lịch
sử tư tưởng nhân loại, đặc biệt là nghiên cứu, tổng kết hàng núi tài liệu về chủ
nghĩa tư bản, về thực tiễn phong trào công nhân. Hai ông đã kế thừa các tư
tưởng tiên tiến của nhân loại thể hiện tập trung trong triết học cổ điển Đức,
kinh tế chính trị học cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội Pháp. Từ đó hai ông xây
dựng nên các học thuyết, các hệ thống lý luận về phương pháp nhận thức và
cải tạo thế giới, về giải phóng giai cấp công nhân đồng thời giải phóng toàn
xã hội loài người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột và mọi sự tha hoá, về cách mạng
cộng sản chủ nghĩa, về xây dựng một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản).
Các Mác là nhà khoa học thiên tài, đồng thời là nhà Cách mạng vĩ đại,
hai phẩm chất ấy thống nhất làm một trong con người của ông. Khoa học, đối
với C.Mác là vũ khí đấu tranh cải tạo thế giới, bởi nó giải đáp kịp thời và
chính xác những vấn đề bức xúc có ý nghĩa thời đại mà tư tưởng tiên tiến của
nhân loại đã nêu ra. “Sứ mệnh thật sự của Mác – như Ph.Ăng-ghen nói - là
góp phần bằng cách này hay cách khác vào việc lật đổ xã hội TBCN, là tham
gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà C.Mác là người đầu
tiên làm cho giai cấp ấy có ý thức về địa vị và yêu cầu của mình, có ý thức về


những điều kiện để tự giải phóng”. Một sự nghiệp cách mạng và một sự
nghiệp khoa học như thế làm sao có thể không gây ra sự thù địch của những
người bảo vệ trật tự tư bản.
Giá trị của học thuyết Mác không phải ở chỗ mọi câu nói của C.Mác
đều là chân lý vĩnh cửu, những người cách mạng cứ thế mà áp dụng, không

cần xem xét điều kiện hoàn cảnh cụ thể. C.Mác đã từng tuyên bố: “Chúng ta
không tỏ ra là những nhà lý luận suông tay cầm một mớ nguyên lý có sẵn: đây
là chân lý, hãy phục tùng nó đi”. Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh “Học
thuyết của chúng tôi không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành
động”.
Trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác, công lao to lớn và đầu
tiên là ông đã xây dựng một thế giới quan và phương pháp luận mới, khoa
học và cách mạng, đem lại cho nhân loại và cho giai cấp công nhân một công
cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
mở rộng và áp dụng vào lịch sử xã hội trở thành chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lê
nin đánh giá rằng: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học – Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ đã thay cho sự lộn xộn và tuỳ tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong quan
niệm về lịch sử chính trị”.
Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã thực hiện một cuộc các mạmg
trong toàn bộ quan niệm về lich sử thế giới, bởi vì lần đầu tiên các quy luật
phát triển của xã hội loài người được đưa ra ánh sáng, bao gồm hệ thống các
quy luật: quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở kinh tế của xã hội quyết định kiến trúc
thượng tầng của xã hội, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải
ngược lại, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật về sự thay thế
lẫn nhau như một quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế – xã hội..


Với phát minh ra học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã bóc trần bí mật
của sự bóc lột của tư bản đối với công nhân. Trong học thuyết giá trị thặng dư
của Mác đã chứng minh rằng dưới xã hội tư bản, sức lao động của con người
trở thành hàng hoá, một thứ hàng hoá đặc biệt, tư bản sử dụng thứ hàng hoá
sức lao động vì nó tạo ra giá trị lớn hơn nhiều so với giá trị mà nhà tư bản đã
bỏ ra để mua sức lao động ấy và nhà tư bản chiếm hữu giá trị dôi ra ấy, tức

giá trị thặng dư. Cần nói ngay rằng ngày nay, dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại,
chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá, trong điều kiện nền kinh tế tri thức, quy luật
giá trị thặng dư vẫn phát huy tác dụng. Lao động trí tuệ hoá với máy móc hiện
đại tạo ra giá trị thặng dư còn lớn hơn nhiều so với lao động bằng máy móc cổ
điển. Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của
Mác, cũng là viên đá tảng trong học thuyết Mác. Từ học thuyết kinh tế, Mác
đã luận chứng một cách khoa học vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công
nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản. Hai
phát hiện lớn của Mác (chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng
dư) đã làm cho lý luận về chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa
học. Công lao vĩ đại của Mác còn ở chỗ Mác đã đặt nền móng cho chủ nghĩa
xã hội khoa học, học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và
giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hoá.
Học thuyết Mác chứng minh rằng sự giải phóng nhân loại thống nhất
với sự giải phóng giai cấp công nhân, coi giai cấp công nhân là “trái tim” của
sự giải phóng. Chính vì vậy, toàn bộ sự nghiệp khoa học và sự nghiệp cách
mạng của Mác đều dành cho việc giáo dục, tổ chức giai cấp công nhân, làm
cho giai cấp ấy có ý thức về những điều kiện, phương tiện giải phóng mình,
đồng thời giải phóng toàn nhân loại khỏi chủ nghĩa tư bản. Mác coi chủ nghĩa
cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Không học thuyết nào quan tâm
đến vận mệnh con người như học thuyết Mác. Một số người phê phán Mác


rằng chủ nghĩa của ông là quyết định luận kinh tế, ít quan tâm đến vai trò con
người, là “chủ nghĩa lý luận không có con người”; rằng đối với chủ nghĩa
Mác, con người chỉ là “con người giai cấp” v.v… Đó là những ý kiến hoặc
không hiểu gì nhân tố con người trong chủ nghĩa Mác hoặc cố tình xuyên tạc
Các Mác.
Có thể nói, Mác đã hoàn thành việc xây dựng cơ sở phương pháp luận
cho chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó Mác đã “làm sáng tỏ vai trò lịch sử

thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa” và
đây là “điểm trọng yếu trong học thuyết Mác” (Lê nin). Mác chứng minh rằng
giai cấp công nhân chỉ có thể tiến hành công cuộc giải phóng mình bằng con
đường cách mạng chứ không phải bằng con đường cải lương; giai cấp công
nhân phải liên minh với các giai cấp, tầng lớp lao động khác để giành lấy
chính quyền. Về các biện pháp cách mạng trong tương lai, Mác chỉ vạch ra
những nét chung nhất, cơ bản nhất vì Mác cho rằng đi vào chi tiết cụ thể là
chủ quan, thiếu căn cứ. Mác đã vạch ra phương hướng và phương pháp luận
cơ bản để nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản. Mác cho rằng chưa có cơ sở để nói
lên được những đặc điểm của xã hội cộng sản tương lai mà chỉ có thể nêu lên
những đặc trưng bản chất nhất, những đặc trưng hoàn toàn có thể thấy được
từ sự phát triển củă bản thân chủ nghĩa tư bản. Mác không có ý định nghĩ ra
một mô hình của chủ nghiã xã hội. Lê nin viết “Trong tài liệu của Mác, người
ta không thấy mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm
đặt ra những dự đoán vu vơ về những điều mà người ta không thể nào biết
được. Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt,
chẳng hạn, vấn đề tiến hoá của một giống sinh vật, một khi đã biết được
nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó” (Lênin Toàn tập, t.33, tr104) Đó là tư duy rất biện chứng về chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản. Nếu thật sự thấm nhuần quan điểm biện chứng đó, các


thế hệ sau đã có thể tránh được nhiều sai lầm máy móc và chủ quan duy ý chí
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Mác là người đầu tiên vạch ra
nguyên lý cách mạng không ngừng, cũng là người đầu tiên chỉ ra khả năng
những nước chậm phát triển không nhất thiết phải kinh qua chế độ tư bản chủ
nghĩa mà có thể tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để chuyển từ
cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên lý
vô cùng quan trọng đối với những nước như nước ta, và Đảng ta đã vận dụng
rất sáng tạo nguyên lý nêu trên của Mác.
Chủ nghĩa Mác gồm nhiều học thuyết, nhiều bộ phận song tất cả là một

thể thống nhất, một khối thép nguyên chất không thể tách rời. Nói về sợi chỉ
đỏ xuyên suốt các học thuyết đó, cái bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa
Mác mà - Lê nin và Hồ Chí Minh đều chỉ dùng một từ đó là: PHÉP BIỆN
CHỨNG. Học thuyết Mác, như Lê nin nói, là học thuyết vạn năng vì nó là
một học thuyết chính xác. Song chủ nghĩa Mác không phải là giáo điều mà là
kim chỉ nam cho hành động, Ăngghen nói “CNXH từ khi trở thành một khoa
học phải được đối xử như một khoa học”. Như chính Mác và Ăng ghen đã
nói, “bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào” việc áp dụng những nguyên lý mà hai ông
đã đễ xuất “cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời”, bởi sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa Mác. Thực
tiễn cách mạng chứng minh rằng lúc nào, ở đâu những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lê nin được vận dụng đúng đắn, sáng tạo thì ở nơi đó cách
mạng vượt qua được những thử thách để tiến lên. Ngược lại, ở đâu lúc nào,
các nguyên lý ấy bị hiểu sai, vận dụng máy móc giáo điều, xét lại, thì cách
mạng gặp khó khăn, tổn thất, thậm chí thất bại. Đặc biệt khi cả chủ nghĩa giáo
điều và chủ nghĩa xét lại đồng thời tác động mạnh mẽ thì nguy cơ đối với
cách mạng không thể lường hết được. Bài học lớn nhất rút ra từ sự tan rã của
mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô là bài học về nhân tố chủ quan trong


việc lãnh đạo cách mạng. Việc nhân danh Mác - Lênin để kéo dài vô thời hạn
mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, dẫn đến kìm hãm nặng nề sự phát
triển không thể nói là phù hợp với tinh thần biện chứng của Mác - Lê nin mà
ngược lại! Bảo thủ, trì trệ cũng như nhân danh “cải tổ” để từ bỏ các nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin đều là những nguyên nhân chủ quan dẫn
đến thất bại, sụp đổ của chế độ XHCN.
Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê nin được thể hiện ở chỗ nó soi sáng
các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng
con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, khỏi mọi sự tha hoá. Có thể
khẳng định rằng, cho đến nay, khi nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, chủ

nghĩa Mác - Lê nin vẫn là học thuyết khoa học và cách mạng duy nhất đáp
ứng được nhiệm vụ lịch sử đó mà không học thuyết nào có thể thay thế được.
Mặc dầu tình hình xã hội trên thế giới trong những thập niên gần đây diễn
biến vô cùng phức tạp, trải qua biết bao biến cố thăng trầm, quanh co khúc
khuỷ, song vẫn không đi ra ngoài những quy luật phổ biến đã được Các Mác
tổng kết. Trong tính chỉnh thể của nó, học thuyết Mác vẫn giữ nguyên giá trị
khoa học và tính thời đại.
Nhiều nhà khoa học ở phương Tây gần đây đã nói về tính thời đại của
học thuyết Mác. Họ cho rằng những vấn đề cơ bản của loài người mà Mác
nêu ra từ thế kỷ thứ XIX vẫn là những vấn đề mang tính thời sự hiện nay.
Chúng ta cho rằng ý kiến đó là chính xác, nhưng cần bổ sung thêm rằng
phương hướng cơ bản do Mác nêu lên để giải quyết những vấn đề ấy vẫn là
phương hướng không thể thay thế.
Ngày nay, các dân tộc, toàn thể nhân loại đứng trước những vấn đề vừa
cơ bản, vừa cấp bách. Đó là hoà bình cho các dân tộc chưa được đảm bảo,
hàng trăm tỷ đô la vẫn bị ném vào việc sản xuất, mua sắm, buôn bán vũ khí:
độc lập thống nhất của nhiều dân tộc vẫn bị đe doạ nghiêm trọng; bất công ,


bất bình đẳng xã hội vẫn tồn tại ngay ở các nước giàu có, văn minh; chênh
lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và đa số các nước đang phát triển
ngày càng trầm trọng: 20% số dân giàu nhất hành tinh chiếm tới 82,7% thu
nhập của thế giới, 20% số dân nghèo nhất chỉ được hưởng 1,4%. Sự cách biệt
về thu nhập giữa hai bộ phận dân cư này đã tăng từ 30 lần năm 1960 lên 60
lần năm 1990, lên 74 lần năm 1997 và nó tiếp tục tăng lên; tài nguyên thiên
nhiên đang cạn kiệt do khai thác, sử dụng bừa bãi, môi trường ô nhiễm ngày
càng nặng nề v.v… Trên đây là những vấn đề mà tương lai của loài người phụ
thuộc vào việc giải quyết chúng. Nhiều nhà triết học, xã hội học, tương lai
học ở chính các nước phương Tây khẳng định: nhân loại không thể giải quyết
các vấn đề nói trên mà không có Mác, không có các tư tưởng tiên tiến của

Mác: các tư tưởng của Mác vẫn soi sáng con đường của nhân loại trong thế kỷ
XXI: “Mác là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI” (Jacque Derrida). Mác đã được
thế giới bình chọn là triết gia vĩ đại nhất của nhân loại từ trước đến nay.
Cách mạng Việt Nam là một minh chứng đầy sức thuyết phục về sức
sống của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Trong hơn ba phần tư thế kỷ vừa qua, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện đã tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa

Mác - Lê nin phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa

Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng của
Đảng, là Kim Chỉ Nam cho cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng thành công và xây dựng Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới, viết nên những trang sử
hào hùng của dân tộc. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ
đất nước. Đất nước ta từ trình độ kinh tế - xã hội rất lạc hậu đã bước vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế. Nước ta có vị thế ngày càng cao và quan trọng trong khu vực


và trên thế giới. Những thành tựu trên đây của dân tộc và của Đảng không thể
có được nếu không có những tư tưởng khoa học và cách mạng do Các Mác
khởi xướng, đặt nền móng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng
một cách sáng tạo vào điều kiện cách mạng Việt Nam.
Đảng ta luôn xuất phát từ những đặc điểm của cách mạng Việt Nam để
vận dụng chủ nghĩa Mác Lê nin và dùng quan điểm, phương pháp luận Mác Lê nin để phân tích những đặc điểm nước ta, từ đó đề ra đường lối và phương
pháp cách mạng phù hợp với đặc điểm dân tộc. Đảng ta trung thành với chủ
nghĩa Mác - Lênin, song không phải trung thành với câu chữ, máy móc làm
theo những điều không hoặc chưa phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Trong

điều kiện các nước tư bản phát triển thì đấu tranh cách mạng trước hết và căn
bản là đấu tranh của giai cấp công nhân chống tư bản để đưa cách mạng tiến
lên, nhằm mục tiêu giành chính quỳên, thực hiện giai cấp công nhân “tự mình
trở thành dân tộc”. Nhưng trong điều kiện một nước thuộc địa, nông nghiệp
lạc hậu như Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương kết hợp
nhuần nhuyễn đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân với đấu tranh dân tộc
do giai cấp côngnhân lãnh đạo, phát huy sức mạnh vĩ đại của quần chúng
công nông bị áp bức bóc lột vùng lên tự giải phóng với sức mạnh vĩ đại của
dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nếu theo câu chữ
của sách vở kinh điển thì điều kiện thắng lợi của cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa là thành công của cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta cho rằng
cách mạng Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong điều kiện thời đại
ngày nay có thể và cần phải chủ động tiến liên giành thắng lợi, không bị động
đợi chờ thành công của cách mạng vô sản ở phương Tây. Với tư tưởng sáng
tạo nói trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng
Tám thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước công


nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đã lãnh đạo toàn dân tiến hành hai cuộc kháng
chiến thần thánh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại độc lập tự do và thống nhất đất nước.
Tư tưởng của Các Mác và chủ nghĩa Mác - Lê nin không những đã soi
sáng con đường của dân tộc ta đi từ cuộc đời nô lệ tối tăm đến độc lập tự do;
tư tưởng của Mác, của chủ nghĩa Mác - Lê nin còn tiếp tục soi sáng công cuộc
đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của nhân dân ta hiện nay. Theo Đảng ta, đổi mới không phải
là từ bỏ con đường chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu của cách mạng là độc lập dân tộc và CNXH,
nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc, mà là thay đổi phương pháp, hình thức,

bước đi, các chặng đường… để thực hiện mục tiêu có hiệu quả hơn. Trong
quá trình đổi mới, Đảng ta kiên định các nguyên lý lý luận cơ bản thể hiện tư
tưởng biện chứng của Mác đồng thời đã bổ sung, phát triển lý luận của Mác
nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Từ tổng kết thực tiễn, chúng ta
bổ sung vào hệ thống các nguyên lý Mác - Lênin những nhận thức mới, từ bỏ
một số luận điểm cụ thể, riêng lẻ do Mác, Ăngghen đã nêu lên nhưng không
còn phù hợp với thực tiễn ngày nay nữa. Qua những bài học thực tiễn lâu dài,
phổ biến, đắt giá ở Việt Nam và trên thế giới, Đảng ta đã bổ sung vào kho
tàng lý luận mác xít các khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”… Qua thực tiễn hơn 20
năm đổi mới, nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam ngày càng được sáng rõ hơn. Đảng ta xác định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây


dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; đảm bảo vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 20 năm đổi mới là sự khẳng
định một lần nữa tính đúng đắn, sức sống của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, tính đúng đắn của đường lối xây dựng CNXH của Đảng
ta.
Tuy nhiên, ngày nay công cuộc đổi mới đất nước đang được tiếp tục
tiến hành trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới với nhiều thời cơ và
thách thức đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hơn nữa nhận thức về chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phải kiên quyết đấu tranh chống lại các
quan điểm sai trái, thù địch nhằm xuyên tạc, bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin.

Chúng ta cần quán triệt chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải dùng lập
trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để tổng kết thực
tiễn, qua đó từng bước làm sáng tỏ nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH của nước ta.
Đại hội lần thứ X của Đảng, trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới (19862006) đã khẳng định phải “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động
của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải
quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra ”.
Sau đó, Hội nghị lần thứ V BCHTU (khoá X) đã ra nghị quyết Về công
tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. Trong nghị quyết đã chỉ ra
nhiệm vụ công tác lý luận là phải nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm rõ những giá trị bền vững


của chủ nghĩa Mác - Lê nin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù
hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.
Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ X là Đảng cần tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, mới đây Hội nghị lần thứ VI
BCHTƯ (khoá X) đã quyết định thành lập Tiểu ban tổng kết 20 năm thực
hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung và phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ mới . Cương lĩnh 1991 là thành tựu lý luận quan trọng của Đảng
ta, trong đó đã quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của Mác, những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, có giá trị định hướng và chỉ đạo to
lớn đối với công cuộc đổi mới. Chúng ta tin tưởng rằng, qua đợt tổng kết này,
sẽ làm sáng tỏ hơn về lý luận và thực tiễn một số vấn đề chủ yếu về đường lối
đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, qua đó sẽ bổ sung và phát triển Cương lĩnh, thể hiện đầy đủ hơn trí tuệ
của Đảng và những kinh nghiệm ngày càng phong phú của Đảng ta trong quá
trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, cung cấp một số luận cứ khoa học cho việc

chuẩn bị văn kiện Đại hội XI của Đảng.
Nắm vững phép biện chứng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, phát triển học thuyết Mác trước đòi hỏi của cuộc sống là thể hiện sự
trung thành của chúng ta đối với những tư tưởng khoa học và cách mạng
của Mác, và đó là thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của chúng ta đối với
người thầy vĩ đại C.Mác.



×