Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN sự HINH THÀNH CHỦ NGHĨA tự DO KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.87 KB, 12 trang )

1
Tư tưởng tự do kinh doanh
I. Sự hình thành và tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế.
1. Sự hình thành tư tưởng tự do kinh tế
- Tư tưởng tự do kinh tế là lý thuyết kinh tế tư sản, coi nền kinh tế TBCN là
hệ thống hoạt động tự động, do các quy luật kinh tế khách quan tự phát điều tiết.
Tư tưởng cơ bản của nó là tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, chống lại
sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Những người đề xướng ra tư tưởng tự do
kinh doanh là các nhà kinh tế học tư sản cổ điển bắt đầu là Wiliam Petty, tiếp tục
ở trường phái trọng nông. Tư tưởng tự do kinh tế này được phát triển tiếp tục
trong tác phẩm " Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giầu có của các dân
tộc" ( 1776) của Ađam S.Mith, sau này được LeonWalras ( trường phái cổ điển
mới) tiếp tục trong lý thuyết " Cân bằng tổng quát". Cơ sở của lý luận của tư
tưởng này là quan điểm: Do giá cả và tiền công linh hoạt nên các doanh nghiệp
chỉ cung ứng ở mức sản lượng tiềm năng và do đó sự can thiệp của nhà nước là
có hại. Tư tưởng tự do kinh doanh giữ vị trí thống trị cho đến tận những năm 30
của thế kỷ XX.
2. Tư tưởng tự do kinh tế
a. Tư tưởng tự do kinh doanh của W. Petty ( 1623- 1687)
Ông đã tiếp cận với các quy luật khách quan. Ông nói " Trong chính sách kinh tế
cũng như trong y học cần phải tính đến những quá trình tự nhiên, không nên
dùng hành động cưỡng bức riêng của mình để chống lại những quá trình đó"
b. Tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục ở trường phái trọng nông Pháp, mà
người đại biểu là Kê Nê. ( Chủ nghĩa trọng nông xuất hiện trong khuôn khổ thời
kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng ở giai đoạn
phát triển kinh tế trưởng thành hơn. Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa trọng nông
là đã chuyển đối tượng nghiên cứu sang lĩnh vực nông nghiệp. Đánh giá cao vai
trò của nông nghiệp, coi đó là lĩnh vực duy nhất tạo ra của cải. Chỉ có lĩnh vực
nông nghiệp mới là lao động có ích, tạo ra sản phẩm thặng dư cho xã hội.
Những người trọng nông bảo vệ tư tưởng tự do kinh tế, họ cho rằng các quy luật



2
khách quan chi phối hoạt động của con người. Đại biểu là Kênê ( 1694- 1774);
Boa ghin be ( 1646- 1714); Tuyếc gô ( 1727- 1781).
- Thuật ngữ " Trọng nông" có nghĩa là " Quy luật tự nhiên", vì trường phái
này tin tưởng tuyệt đối vào quy luật tự nhiên và tính hơn hẳn của nông nghiệp.
Kênê đã xây dựng lý thuyết về " Trật tự tự nhiên". theo Kê nê, có hai loại quy
luật tự nhiên: Quy luật vật lý tác động trong lĩnh vực tự nhiên và quy luật luân lý
tác động trong lĩnh vự kinh tế. Quy luật kinh tế cũng tác động tất yếu như quy
luật vật lý. Họ kêu gọi nên tuân theo quyền tự nhiên và trật tự tự nhiên. Đó là
quyền chính đáng và tối cao cơ bản. Đối lập với quyền tự nhiên là quyền lập
pháp đem lại. Ông cho rằng:
+ Con người là một bộ phận của tự nhiên, muốn tồn tại con người phải giao
lưu và trao đổi chất với tự nhiên. Trong đó, con người phải sử dụng những sản
vật tự nhiên để sinh sống, đó là quy luật về tiêu thụ
+ Muốn có được của cải, con người phải làm việc. Đó là định luật về lao
động. Sự lao động của con người chỉ có thể xẩy ra nếu con người được tự do
hành động. Tự do hoạt động kinh doanh thực sự phải dựa trên cơ sở: " Con
người phải được quyền sở hữu bản thân mình, sở hữu các động sản, bất động
sản, tức là có quyền chiếm đoạt các sản nghiệp, cũng giống như quyền của con
chim én đói với tất cả con ruồi nhỏ đang bay trong không khí". Họ ca ngợi luật
tự nhiên, cho rằng luật tự nhiên có mức tán thành cao hơn luật chế định.
+ Tuy nhiên, để tự do của người này không xâm phạm vào quyền tự do của
người khác, cần phải có nhà nước và sự bảo vệ của nó bằng luật pháp. Do đó, tư
hữu- an sinh- tự do là nền tảng của một trật tự xã hội đầy đủ
- Đặc trưng và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa tự do kinh tế là:
+ Tự do kinh doanh, tức là tự do sản xuất, trao đổi, tự do liên doanh, liên kết
và cạnh tranh.
+ Trong tự do kinh doanh, các thực thể kinh tế ( Con người kinh tế, doanh
nghiệp...), luôn chịu chi phối bởi " Trật tự tự nhiên" ( trọng nông), " bàn tay vô

hình" ( A. Smith) và chịu tác động bởi lợi ích cá nhân.
+ Lợi ích cá nhân là động lực cho cá nhân và cả xã hội phát triển.


3
+ Để bàn tay vô hình hoạt động, cần cho cá nhân sở hữu các điều kiện vật
chất cho sản xuất ( người lao động sở hữu bản thân, tức tự do thân thể; nhà kinh
doanh sở hữu các động sản và bất động sản...), nhà nước không nên can thiệp
vào kinh tế, mà chỉ như " Người lính canh gác đêm" bảo vệ chế độ tư hữu và giữ
gìn trật tự an sinh xã hội.
c. Tư tưởng tự do kinh tế của A. Smith.( 1723- 1790)
+ A. S. Mith là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển kinh tế chính trị
tư sản cổ điển và được xem như một tiền bối lớn của C. Mác. Phương pháp luận
của S. Mith dựa trên quan điểm tự do, thể hiện trong tư tưởng " Trật tự tự
nhiên".
+ Nếu trường phái trọng nông ca ngợi trật tự tự nhiên trên cơ sở luật tự nhiên
đối lập với luật chế định, thì tư tưởng tự do kinh tế của A. S. Mith lại nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước. Ông xây dựng lý thuyết " Bàn tay
vô hình". Về thực chất là lý thuyết về cơ chế thị trường tự điều tiết
Điểm xuất phát trong nghiên cứu lý luận kinh tế của Ông là nhân tố: " Con
người kinh tế", những con người này hợp thành xã hội. Do đó xã hội là liên
minh của những người trao đổi và thông qua việc thực hiện những quan hệ trao
đổi thì nhu cầu của người ta mới được thoả mãn. " Hãy đưa cho tôi cái mà tôi
cần, tôi sẽ đưa cho anh cái mà anh cần". A. S. mith cho rằng, đó là một thiên
hướng phổ biến và tất yếu của xã hội. Nó tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại
của xã hội loài người.
- Khi trao đổi, con người chịu sự chi phối bởi lợi ích cá nhân. Lợi ích cá
nhân là động lực trực tiếp chi phối con người hoạt động trao đổi. Nhưng khi
chạy theo tư lợi thì con người kinh tế còn chịu sự tác động của " Bàn tay vô
hình". Với sự tác động này, con người kinh tế vừa chạy theo tư lợi lại vừa đồng

thời thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến đố là đáp ứng lợi ích
chung của xã hội.
- " Theo bàn tay vô hình", là các quy luật kinh tế khách quan, là " Một trật tự
tự nhiên". Để có hoạt động của trật tự tự nhiên, cần phải có những điều kiện nhất
định:


4
+ Tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nền kinh tế phải
được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế
+ Tự do sản xuất, tự do liên doanh và tự do mậu dịch. Trên cơ sở tự do mà
hình thành mối quan hệ phụ thuộc vào nhau giữa người và người. Trong nền
kinh tế hàng hoá, con người luôn luôn có quan hệ kinh tế với nhau. Do vậy, cần
phải tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng " Bàn tay vô hình". Hoạt động sản xuất
và lưu thông hàng hoá phải được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay vô hình.
Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn có hoạt động
riêng của nó.
- Theo S. Mith chỉ có phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới có những
điều kiện kể trên. Vì vậy xã hội tư bản mới là xã hội bình thường được xây dựng
trên cơ sở trật tự tự nhiên. Còn trong xã hội trước đó- xã hội chiếm hữu nô lệ, xã
hội phong kiến- là những xã hội không bình thường.
- Nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ quyền sở hữu của các nhà tư bản, bảo vệ
hoà bình, không để nội chiến, ngoại xâm. Đôi khi nhà nước cũng có nhiệm vụ
kinh tế, khi nhiệm vụ đó vượt quá sức của các doanh nghiệp như xây dựng cầu,
cảng, đường xá, đắp đê hay xây dựng các công trình kinh tế lớn.
- A. S. Mith cho rằng, quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế
của nhà nước có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự hoạt động của các quy luật kinh
tế, Sự hài hoà của tự nhiên tồn tại trong thế giới kinh tế khiến cho chính phủ can
thiệp vào hầu hết các vấn đề vừa không cần thiết và vừa không mong muốn. Xã
hội muốn giầu có, phải được phát triển theo tinh thần tự do.

Tóm lại: Lý thuyết " Bàn tay vô hình" của A. S. Mith đã đề cao vai trò của
các quy luật kinh tế kháh quan trong điều tiết kinh tế thị trường, đề cao tính độc
lập, tự chủ, sáng tạo và tinh thần tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh của các chủ
thể kinh tế. Coi thị trường tự do là lực lượng, là sức mạnh điều tiết sản xuất và
tiêu dùng của xã hội.
d. Lý thuyết tự do kinh tế của L. Walras.
- L. Walras ( 1834- 1910), là đại biểu xuất sắc của trường phái tân cổ điển ở
Thuỵ Sĩ. Lý thuyết cân bằng tổng quát là một trong những lý thuyết quan trọng


5
của ông đã được các nhà kinh tế học tư sản đánh giá cao. Lý thuyết này là sự
phát triển tư tưởng tự do kinh tế của A. Smith. Nọi dung của lý thuyết này là:
- Theo ông, trong cơ cấu của nền kinh tế thị trường có 3 bộ phận: Thị trường
sản phẩm; thị trường tư bản và thị trường lao động.
+ Thị trường sản phẩm là nơi mua và bán hàng hoá, giá cả là tương quan trao
đổi giữa các hàng hoá.
+ Thị trường tư bản là nơi xảy ra nơi hỏi và vay tư bản, lãi suất cho vay là giá
cả của tư bản
+ Thị trường lao động là nơi thuê mướn công nhân, tiền công là giá cả của lao
động
- Ba loại thị trường này độc lập với nhau, song nhờ hoạt động của doanh nhân
mà chúng có quan hệ với nhau. Muốn sản xuất, doanh nhân phải vay vốn trên thị
trường tư bản, thuê công nhân trên thị trường lao động. Trên hai thị trường này,
doanh nhân biể thị là cức cầu. Sản xuất được hàng hoá, doanh nhân bán trên thị
trường sản phẩm. Tại đây, doanh nhân là sức cung.
- Để vay tư bản, doanh nhân phải trả lãi suất. Để thuê công nhân, doanh nhân
phải trả tiền công là chi phí sản xuất.
- Nếu giá bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất thì doanh nhân có lợi. Doanh
nhân sẽ mở rộng sản xuất, vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân, sức cầu của

doanh nhân tăng. Ngược lại, khi mở rộng sản xuất, sức cung hàng hoá nhiều
hơn, giá hàng hoá giảm, thu nhập của doanh nhân giảm. Khi giá cả hàng hoá
giảm xuống ngang với chi phí sản xuất thì cung và cầu của hàng hoá cân bằng,
doanh nhân sẽ dừng việc sản xuất thêm, không vay thêm tư bản và thuê thêm
công nhân. Giá hàng hoá ổn định làm cho lãi suất và tiền công ổn định. Cả 3 thị
trường đều cân bằng cung- cầu. Nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tổng quát.
- Điều kiện để có sự cân bằng thị trường là sự cân bằng giữa giá hàng và chi
phí sản xuất. Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, trạng thái cân bằng được thực
hiện thông qua dao động của cung cầu.
* Lý thuyết cân bằng tổng quát là sự phát triển tư tưởng tự do kinh tế của S.
Mith.


6
- Lý thuyết này tập trung quan điểm về cơ chế thị trường tự điều tiết trong nền
kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
+ Hoạt động tự do của các doanh nhân theo sự biến động tự phát của quan hệ
cung- cầu và giad cả, là điều kiện cơ bản cho sự phát triển và cân đối cung cầu
trên thị trường.
+ Tự do kinh tế là sức mạnh của cơ chế thị trường. Ông tin tưởng vững chắc
vào tự điều tiết của cơ chế đó. Theo ông, cơ chế tự điều tiết của " Bàn tay vô
hình" đã làm cho tái sản xuất đảm bảo được những tỷ lệ cân đối và duy trì được
sự phát triển bình thường.
- Tuy nhiên, lý thuyết " Cân bằng tổng quát" của L. Walras không chống đỡ
được khủng hoảng kinh tế, không thấy nguồn gốc và tác động của khủng hoảng
kinh tế cũng như không thấy vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
* ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lý thuyết này đối với nước ta hiện
nay.
- Nước ta hiện nay đã chuyển sang vận hành nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng còn nhiều yếu tố sơ khai. Việc nghiên cứu lý

thuyết " chủ nghĩa tự do kinh tế" có ý nghĩa cung cấp một tri thức quan trọng về
vai trò của cơ chế thị trường trong điều tiết kinh tế. Trong cơ chế này, mọi việc
lựa chọn sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế đều được thực hiện dưới
tác động của các quy luật kinh tế khách quan, theo mệnh lệnh của thị trường. Cơ
chế thị trường là cơ chế điều chỉnh linh hoạt các nguồn lực trong nền kinh tế
theo hướng hiệu quả, tự nó có thể tạo ra sự cân đối cung- cầu hàng hoá trên thị
trường.

Bởi vậy, cần có nhận thức đúng vai trò của cơ chế thị trường trong

vận hành nền kinh tế nước ta hiện nay.
- Lý thuyết " Chủ nghĩa tự do kinh tế" chỉ quan tâm đến mặt tích cực của thị
trường, mà không thấy tác động tiêu cực hay thất bại mà tự nó không thể khắc
phục, nên đã tuyệt đối hoá vai trò của thị trường, phủ nhận vai trò của kinh tế
nhà nước.
- Cần có cách nhìn khách quan, khoa học về cơ chế thị trường. Không nên
tuyệt đối hoá vai trồ của thị trường trong điều tiết nền kinh tế. Sự điều tiết của


7
nhà nước đối với nền kinh tế là cần thiết để ngăn ngừa, khắc phục những thất bại
của thị trường, để thị trường hoạt động có hiệu quả.
II. Các lý thuyết tự do kinh tế mới đã kế thừa và phát triển tư tưởng tự
do kinh tế.
1. Nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa tự do mới và các khuynh hướng của
chủ nghĩa tự do mới.
a. Nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa tự do mới
- Từ những năm 30 của thế kỷ XX trở về trước là thời kỳ của chủ nghĩa tự do
cũ. Bước chuyển từ CNTB trước độc quyền sang chủ nghĩa đế quốc, sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước lúc đầu chưa ảnh hưởng đến các

quan điểm của CNTD. Sau đó, với sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước, mâu thuẫn giữa chính sách của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước với tư tưởng tự do kinh tế nổi lên rõ rệt. Đồng thời khủng hoảng kinh
tế thế giới năm 1929- 1933 và những mâu thuẫn trong xã hội tư sản ngày càng
trở nên sâu sắc cho thấy không thể coi kinh tế TBCN như một hệ thống tự điều
chỉnh. Vì vậy xuất hiện sự cần thiết hiểu thấu các hiện tượng kinh tế- xã hội và
trình bày lý luận cho phù hợp với giai cấp thống trị. Thêm vào đó, sự xuất hiện
lý thuyết Keynes và những thành tựu của quản lý kinh tế theo kế hoạch ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũng tác động mạnh mẽ tới tư tưởng tự do. Trước bối
cảnh đó, các nhà kinh tế học tư sản đã sửa đổi lại hệ thống tư tưởng tự do kinh tế
cho thích hợp với tình hình mới, CNTD mới ra đời.
Chủ nghĩa tự do mới ra đời ở Tây Âu và Bắc Mỹ để đảm đương vai trò của
một hệ tư tưởng cho sự thống trị độc tôn của chủ nghĩa tư bản, của toàn cầu hoá
tư bản chủ nghĩa. Thuật ngữ " Chủ nghĩa tự do mới" chỉ mới được sử dụng rộng
rãi trong những năm 90 của thế kỷ XX, nhưng các yếu tố cơ bản của nó đã xuất
hiện cùng thời với học thuyết của J. Keynes. Cuốn sách " Con đường dẫn tới sự
nô lệ" xuất bản năm 1944 của Phridrich vôn Hayêch được xem là cương lĩnh của
chủ nghĩa tự do mới và cái đích là chống nhà nước phúc lợi và chính sách toàn
dụng lao động của công đảng Anh. Tháng 4-1947, những người theo chủ nghĩa
tự do mới đã mở " Hội thề" ở Thuỵ Sĩ để xúc tiến học thuyết của mình. Tuy


8
nhiên phải đợi tới năm 1974, khi các nước tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng
trầm trọng, lạm phát kèm theo suy thoái, chủ nghĩa tự do mới mới giành được
thắng lợi trước học thuyết Keynes, Ngày nay những tư tưởng cơ bản của chủ
nghĩa tự do mới được xem là nền tảng lý luận chi phối hoạt động của các thiết
chế kinh tế thế giới như: IMF, WB, WTO, mà các thiết chế này lại bị thao túng
bởi chủ nghĩa tư bản Mỹ. Thông qua các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa tự do
mới muốn áp đặt kiểu kinh tế thị trường tự do lên các nền kinh tế đang chuyển

đổi ( Từ kế hoạch hoá tập trung lên nền kinh tế thị trường), đẩy mạnh quá trình
toàn cầu hoá kinh tế tư bản chủ nghĩa, phổ biến giá trị Mỹ lên toàn thế giới.
b. Các khuynh hướng của chủ nghĩa tự do mới
Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa tự do mới được hình thành vào những
năm 20-30 thế kỷ XX. Năm 1938 trong hội nghị quốc tế lần thứ nhất ở Pari, các
quan điểm của chủ nghĩa tự do mới hình thành. Nội dung cơ bản của nó là, cơ
chế thị trường cần thiết sự can thiệp của nhà nước. CNTD mới phát triển theo
nhiều khuynh hướng khác nhau: Trường phái chicago ( trường phái trọng tiền) ở
Mỹ; trường phái London ở Anh; J. Ruyeffer, M. Anne ở Pháp... Hình thức cơ
bản của CNTD mới là phương án Tây Đức dưới khẩu hiệu " tự do kinh doanh".
Các tư tưởng của CNTD mới được nhóm lại ở Đức trước chiến tranh, xung
quanh Vancher Eukens ( 1891-1950), chủ nhiệm khoa kinh tế chính trị trường
đại học tổng hợp Freibukg. Vì vậy, nhóm này mang tên gọi " trường phái
Freibukg" ( Ludwig Enhard, A. Muller- Armack, A. Rustob...). Năm 1937,
V.Eukens, F. Bem và Grosman- Dert trình bày đầy đủ tư tưởng chính của CNTD
mới trong tập " Tổ chức nền kinh tế quốc dân". Tuy nhiên, sự lên cầm quyền của
bọn phát xít đã không thuận lợi cho việc vận dụng quan điểm đó của CNTD mới
ở Đức. Giới lãnh đạo phát xít đã chú trọng đến việc tăng cường vai trò của bộ
máy nhà nước quan liêu. Nhiều người tán thành CNTD mới đã di tản ra nước
ngoài ( trong số đó có V. Ropke, A. Rustob). Những người khác cố gắng thích
hợp với chế độ mới, một bộ phận, trong đó gia nhập Đảng quốc xã ( A. MullerArmack).


9
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, CNTD mới giành được vị trí đứng đầu không
những trong lý luận mà cả trong thực tiễn kinh tế. Nguyên nhân chính là do sự
tấn công của tư bản tài chính: Chuyển sự căm thù phát xít sang chủ nghĩa cộng
sản; tiếp nhận quan điểm chống độc quyền; xuyên tạc công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Đức; sử dụng khẩu hiệu của chủ nghĩa tự do kinh tế để đảm bảo
tự do hoạt động của mình.

Các nhà CNTD mới ở Mỹ ( M. Friedman, F. Nait) bảo vệ lợi ích của tư bản
độc quyền, reo rắc tư tưởng về việc bảo vệ lợi ích các tầng lớp dân cư trung
bình, đã cố gắng chứng minh rằng chỉ có trong điều kiện " tự do kinh doanh"
mới có thể đạt được đầy đủ, hiệu quả kinh tế và bình đẳng trong phân phói. Họ
muốn minh oan cho CNTB " cổ điển", khôi phục vào niềm tin hiệu quả của nó
và khả năng phát triển kinh tế không cần thêm các cột chóng và các " ảnh
hưởng" kích thích từ ngân sách nhà nước. Từ đây là thái độ phủ nhận tớ các
chương trình điều chỉnh kích cầu của Keynes, họ cho rằng, chúng phá vỡ quá
trình hiệu chỉnh kinh tế tự nhiên với sự giúp đỡ của cơ chế cạnh tranh và tự do
giá cả. Họ cho rằng cần xoá bỏ các hình thức can thiệp của nhà nước đe doạ " tự
do kinh doanh". Tiền xuất từ ngân sách nhà nước do các nhu cầu xã hội trở
thành đối tượng công kích thường xuyên.
Vào những năm 60, vị trí của CNTD ở Pháp mới được củng cố và được gọi là
" sự phục hồi cổ điển mới. Những người ủng hộ CNTD mới ở Pháp xuất phát từ
chỗ các trò chơi tự do của các lực lượng thị trường có hy vọng hơn kế hoạch
hoá. Theo họ, bất cứ sự biến động nào của cầu cũng được phản ánh tức thì đến
cơ cấu giá cả, làm tín hiệu biến động các nhân tố của sản xuất giữa các ngành
ngay lập tức. Do vậy, cơ chế giá cả sẽ nhanh chóng kêu gọi các lực lượng hình
thành thăng bằng cạnh tranh. Từ giữa những năm 70 CNTD mới ở Pháp bị suy
yếu rõ rệt.
- Chủ nghĩa tự do mới vẫn giữ lại những đặc trưng và nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa tự do, song liều lượng " Bàn tay hữu hình" ( Cơ chế tự điều tiết của thị
trường đối với nền kinh tế) có khác nhau


10
+ Chủ nghĩa tự do mới ở cộng hoà liên bang đức. Lý thuyết kinh tế thị trường
xã hội ở cộng hoà liên bang Đức được hình thành và phát triển ở cộng hoà liên
bang Đức từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Những đại biểu chủ yếu là: W.
Ropke, W. Eusken, Armck, Muller. Erhard. Tư tưởng của họ là: lấy cạnh tranh

có hiệu quả là yếu tố trung tâm của nền kinh tế thị trường xã hội và nhà nước chỉ
can thiệp vào nơi nào mà hoạt động của thị trường không có hiệu quả. Cạnh
tranh giúp sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên, tạo ra điều kiện tối đa cho sự
lựa chọn của doanh nghiệp, phát huy sáng tạo ra tính linh hoạt trong điều chỉnh
kinh tế của nhà nước, thực hiện kiểm soát sức mạnh kinh tế và chính trị của nhà
nước. Khi cần nhà nước can thiệp vào kinh tế phải tuân theo nguyên tắc hỗ trợ
và tương hợp.
+ Chủ nghĩa trọng tiền chính thống ở Mỹ, người sáng lập là M. Friedman cho
rằng, về bản chất kinh tế tư bản chủ nghĩa là ổn định, với giá cả và tiền công linh
hoạt thì cơ chế thị trường tự nó có thể điều tiết nền kinh tế trở về trạng thái cân
bằng, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế. Thông thường, do năng lực của
mình và động cơ vụ lợi về kinh tế và chính trị, nhà nước can thiệp vào kinh tế
thường làm sai lệch các quá trình và bóp méo các tín hiệu của thị trường. Khi
thấy cần thiết, nhà nước cần can thiệp vào kinh tế thì chỉ nên dùng chính sách
tiền tệ. Bởi chính sách tiền tệ có tác dụng hiệu quả vào các thành tố của tổng
cầu, tăng sản lượng và tăng việc làm. Việc điều tiết khối lượng tiền tệ và lãi suất
sẽ tác động trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế.
+ Chủ nghĩa trọng cung ra đời ở Mỹ vào năm 1980 với các đại biểu: A.
Laffer, J. Winniski, N. Ture, P. C. Roberto. Họ cho rằng, thị trường là hệ thống
hữu hiệu nhất để định hướng các yếu tố sản xuất vào hoạt động kinh tế tối ưu.
Trong thị trường, doanh nghiệp và cá nhân đều có ý trí với giá cả và tiền công
linh hoạt sẽ giúp họ lựa chọn đề án kinh tế tối ưu, nhà nước can thiệp vào kinh tế
bằng thuế và chi tiêu công cộng để giữ công bằng xã hội có thể sẽ không đạt kết
quả, rất nhiều trường hợp đi ngược lại lợi ích của tầng lớp nghèo khổ và bóp
nghẹt sự sáng tạo ra của cải của các nhà kinh doanh. Do đó, nhà nước nên giảm
thuế và bỏ bớt những quy định cản trở sức cung.


11
c. Sự giống nhau và khác nhau giữa chủ nghĩa tự do cũ và chủ nghĩa tự do

mới.
Từ những năm 30 của thế kỷ XX trở về trước là thời kỳ của chủ nghĩa tự do cũ,
gồm trường phái cổ điển thế kỷ XVII- XIX và trường phái tân cổ điển cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Từ những năm 30 của thế kỷ XX đến nay là thời kỳ của chủ nghĩa tự do mới
gồm lý thuyết kinh tế thị trường xã hội ở công hoà Liên Bang Đức, chủ nghĩa cá
nhân mới ở Anh, chủ nghĩa trọng tiền và chủ nghĩa trọng cung ở Mỹ, chủ nghĩa
giới hạn mới ở áo và thuỵ Điển... chủ nghĩa tự do cũ và chủ nghĩa tự do mới có
ngững điểm giống nhau và khác nhau.
Giống nhau:
- Đều phân tích nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
- Đều phát triển lý luận trên quan điểm tự do, coi trọng vai trò tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh, đặt niềm tị vào cơ chế tự điều tiết của thị trường trong
phát triển kinh tế
- Cả hai đều phân tích tự do kinh doanh của cá nhân bằng cách đối lập với vai
trò kinh tế của nhà nước.
Khác nhau:
- Chủ nghĩa tự do cũ tuyệt đối hoá vai trò của cơ chế thị trường, coi thị trường
tự giải quyết được mọi vấn đề về kinh tế, tự tạo ra cân bằng cung- cầu, sự vận
hàn của cơ chế thị trường đoói với nền kinh tế là lý tưởng, không có khuyết tật
gì. Còn chủ nghĩa tự do mới, mặc dù có đề cao vai trò của cơ chế thị trường và
đặt niềm tin vào thị trường, nhưng đã thấy được những tác động tiêu cực không
mong muốn do thị trường sinh ra, nên đã không còn tuyệt đối hoá vai trò của thị
trường.
- Do tin tưởng vững chắc vào cơ chế thị trường, nên chủ nghĩa tự do cũ phản
đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế ( S. Mith cho rằng " Sự hài hoà của tự
nhiên tồn tại trong thế giới kinh tế khiến cho chính phủ can thiệp vào hầu hết các
vấn đề vừa không cần thiết và vừa không mong muốn" ). Trái lại, chủ nghĩa tự
do mới đề nghị nhà nước cần can thiệp vào nền kinh tế thị trường theo tư tưởng



12
cơ bản: cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở một mức độ nhất định,
với khẩu hiệu " Thị trường nhiều hơn, nhà nước can thiệp ít hơn".
D. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lý thuyết này.



×