MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁN BỘ, CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG
1.1
Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về đội ngũ cán
1.2
bộ của Đảng
Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán
bộ của Đảng
Chương 2
4
4
9
SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CÁN BỘ, CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG
18
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
2.1
Tính cấp thiết phải thường xuyên chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ của Đảng và trong quân đội vững
2.2
mạnh hiện nay
Một số giải pháp góp phần vận dụng sáng tao tư
18
tưởng Hồ Chí Minh về thường xuyên chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ của Đảng vào xây dựng đội ngũ
20
cán bộ quân đội vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
30
31
3
MỞ ĐẦU
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao về vai trò của người cán
bộ cách mạng. Người coi cán bộ là “cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc
thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc xấu”. Vì vậy, ngay từ rất sớm,
Người đã chú ý đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Người cán bộ được ví
như là “cái dây chuyền của bộ máy”, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì
động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ, máy cũng tê liệt, cán bộ chính là “chiếc cầu nối
giữa Đảng và nhân dân” Người đặt yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, yêu
cầu đầu tiên không thể thiếu là đạo đức cách mạng “người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang”, “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Tuy nhiên, hiện nay “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi”, cùng những âm mưu ngày càng tinh vi của chiến lược diễn biến
hòa bình của các thế lực thù địch đang ngày càng tác động không nhỏ đến đội
ngũ cán bộ đảng viên cả trong và ngoài quân đội. Chính vì thế, “Việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, lâu dài của cán bộ đảng viên”, tiếp tục “thực hiện chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. “Mỗi cán bộ đảng viên không
ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về
phẩm chất đạo đức, lối sống”, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, xứng đáng là người lãnh đạo và
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân .
Chương 1
TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ, CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG
4
1.1 Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về đội ngũ cán bộ của Đảng
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng cộng sản
Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930; là
cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của
Đảng cộng sản Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng,
đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc
xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của
Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của bộ
máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng”1. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách
mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do
Đảng, Nhà nước, đoàn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm
vụ của người cán bộ là do nhân dân giao cho.
Về vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc
của mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt
hay kém. Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng
tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội
và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta. Luận điểm
khái quát nhất của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ là: cán bộ vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành, là trâu ngựa của nhân
dân.
* Tư tưởng Hồ chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ của Đảng
Một là: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 269.
5
Hai là: Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên
hết và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có
lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân
để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân
dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng” 2. Hồ Chí Minh
đề ra nguyên tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng.
Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích
tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”3.
Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá
nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ là phù hợp với lợi ích của Đảng, của
cách mạng. Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của
Đảng, nhưng cũng có lúc không, vì thế Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi
lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên
quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh
của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng” 4; đảng viên và cán bộ “phải đặt
lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì,
đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại
sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”5.
Ba là: Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm
gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh
nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm
gương sáng về đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt
chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá
trong các thế hệ các dân tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có
một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận động được nhân dân trong
các phong trào cách mạng. Người cán bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công
việc chung của Đảng đã được phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 250.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 250.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 251.
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 251.
2
3
6
gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội,
sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng bản
làng, phum, sóc, thôn xóm…
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực. Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách
mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu.Đây cũng
chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ
cách mạng. Không ít lần, Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài”6, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm
quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng
quan tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân-phong kiến “một người làm
quan cả họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như
dưới thời thực dân-phong kiến”, v.v. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp
cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” 7. Trung
thành ở đây trước hết đòi hỏi cán bộ phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của mình được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và kể cả khi thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không
kiêu căng, chủ quan, tự mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không
hoang mang, dao động; “vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay
đổi”8; phải luôn luôn có ý thức và hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc.
Trung thành với cách mạng là phải hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại
cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.
Đồng thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân
dân. Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống,
ngoài yêu cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 249.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 249.
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 278.
6
7
7
đắn, còn có việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng
lợi. Không như thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
quyết định của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.
Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối với
cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền
càng đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, bằng
hành động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục;
đừng có mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính
dân; phải việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân
dù nhỏ cũng cố tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là
người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt
đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học
mãi (V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào
trong cuộc sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ,
đảng viên. Hồ Chí Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí
Minh cho rằng, ngày nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ
có lòng nhiệt tình không thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Hồ Chí
Minh suốt đời chăm chỉ học tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà
trường, học trong cuộc sống, và quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là
để có bằng cấp, để thăng chức.
Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách
công tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại
khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu
sát, tỷ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt dầu từ những việc cơ bản, không cận
thị (tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát;
phải chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy
túi áo công văn nhưng công việc không chạy. Hồ Chí Minh đã nêu lên những
vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn bản thân mình. Điều này đúng như điều tất yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu:
8
Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra, do đó, Đảng
phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát
triển của một Đảng Mác – Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa
cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người.
Riêng về phong cách công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới
các vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; Biết chọn trình tự ưu
tiên công việc; Thường xuyên tổng kết công tác; Phải luôn luôn có sáng kiến;
Sâu sát, gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; Phải kiểm tra, kiểm
soát chặt chẽ; Có lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.
1.2 Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ của Đảng.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác cán bộ
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công
tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn
bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt
công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành
được thắng lợi, và ngược lại. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh
luôn luôn chú trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, thử
thách, rèn luyện, sử dụng, đãi ngộ. Sau năm 1920, khi đã trở thành người cộng
sản, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Hồ Chí Minh là tìm kiếm những
thanh niên Việt Nam yêu nước, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện họ trong tổ chức
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; gửi những người ưu tú hoặc có nhiều
triển vọng tốt vào đạo tại các trường của Trung Quốc và của Quốc tế Cộng sản.
Từ khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 trở đi, Hồ Chí Minh
luôn luôn chú ý huấn luyện và xây dựng lực lượng cán bộ. Chính do như vậy,
cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh
đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu của công tác cán bộ
9
Một là, hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán
bộ. Đây là yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu
không đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề ra
chính sách cán bộ một cách đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần
xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những
người yếu kém sẽ bị lòi ra. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác
cán bộ phải có những yêu cầu riêng. Đồng thời, hiểu và đánh giá đúng cán bộ
phải có có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng
lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn toàn công minh, khách quan. Yêu cầu về mặt
này cho chúng ta thấy không thể đem cái thước đo chất lượng của cán bộ vùng
thành thị để đo chất lượng cán bộ vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa;
không thể đem thước đo chất lượng cán bộ lĩnh vực này vào đo chất lượng cán
bộ ở lĩnh vực khác.
Người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết
mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm
của mình, để “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”,
như thế mới không phạm những căn bệnh: 1. Tự cao tự đại; 2. Ưa người ta nịnh
mình; 3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; 4. Đem một cái khuôn
khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí Minh
cho rằng, nếu phạm một trong bốn bệnh đó thì người làm công tác cán bộ cũng
như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái
mình trông.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xem xét một người cán bộ không nên chỉ
xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ cả toàn bộ
công việc của người cán bộ đó. Quan niệm của Hồ Chí Minh là: trong thế giới,
cái gì cũng biến hoá, tư tưởng con người cũng vậy, cho nên xem xét cán bộ phải
toàn diện, xem xét cả một quá trình công tác của người cán bộ. Có người trước
đây có sai lầm nhưng nay đã sửa chữa được, có người nay không có sai lầm
nhưng sau lại mắc sai lầm, có người trước đây đi theo cách mạng nay lại phản
cách mạng, ngược lại có người trước đây không theo cách mạng nay lại tham gia
10
cách mạng… nghĩa là quá khứ, hiện tại, tương lai của mọi người không phải
luôn luôn giống nhau. Do đó, xem xét cán bộ phải xem xét cả lịch sử của họ,
toàn bộ công việc của họ.
Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua,
tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh,
hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ
làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham
khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không
ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của
Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người
như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt. Người ở đời, ai cũng có
chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho
họ”9.
Hai là, phải “khéo dùng cán bộ”,“dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ,
thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường
chúng ta không biết tùy tài mà dùng người, thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ
mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều lúng túng, nếu biết tùy tài mà
dùng người thì hai người đều thành công. Mặ khác, Hồ Chí Minh phê bình
nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác cán bộ. Tệ này phát sinh từ
bệnh bè phái, ai hợp với mình thì thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng
cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì
người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha,
nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Khuyết điểm này, như Hồ Chí Minh chỉ
ra, nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ
chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đoàn kết
đồng chí, gây ra những mối nghi ngờ…
Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm toàn diện khi xem xét để đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ: Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 278 – 279.
11
chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy
xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không
được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ
nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại. Hồ Chí
Minh phê phán những bệnh sau đây: 1. Ham dùng người bà con, anh em quen
biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngoài; 2. Ham dùng những kẻ khéo
nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực; 3. Ham dùng những người
tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung: 1. Phải
có độ lượng vĩ đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí công vô tư đối với cán
bộ, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi; 2. Phải có tinh thần rộng
rãi mới có thể gần gũi với những người mà mình không ưa; 3. Phải có tính chịu
khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những cán bộ còn kém, giúp cho họ tiến bộ; 4.
Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà cách xa cán bộ tốt; 5. Phải có
thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lòng gần gũi mình.
Ba là, phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi. Hồ
Chí Minh hay nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong
công tác cán bộ nói chung cũng như trong chính sách cán bộ nói riêng. Người
phê bình một cách nghiêm khắc việc ưa kẻ nịnh người làm công tác cán bộ, tìm
cách lợi dụng chức quyền để đưa anh em, họ hàng, bạn bè thân quen vào chức
này chức nọ. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương cục
bộ. Theo Người, những bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa
cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, v.v. đều
do bệnh hẹp hòi mà ra.
Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh cũng đề cập việc kết hợp cán bộ tại chỗ
với cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hòi mà cán bộ cấp trên
phái đến và cán bộ địa phương không đoàn kết chặt chẽ. Hồ Chí Minh cho rằng,
phải chữa cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hòi, khắc phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa cán
bộ trên điều về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có hai hạng
cán bộ đó đoàn kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm nhiều,
12
thì nền tảng của Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái đến, trình độ
thường cao hơn, kinh nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa phương lại biết rõ
nhân dân, quen thuộc công việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi
đắp nhau, thì công việc mới chạy” 10. Theo quan điểm của Người, tốt nhất là
kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ; song nếu
không có hoặc thiếu thì điều động cán bộ ở nơi khác về. Chúng ta thấy rằng, đây
chính là thực hiện quan điểm coi Đảng ta là một cơ thể sống, đội ngũ cán bộ là
một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể và cần phải được bố trí công tác ở bất cứ
địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ đức và tài, có tính đến đặc điểm, yêu
cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ mới và cán bộ cũ cũng được
Hồ Chí Minh đề cập không ít trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu, tự nhiên, hợp quy luật của vấn đề này, khi cho
rằng: “Số cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự
nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì
ai gánh vác công việc của Đảng”11. Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ mới “vì
công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có
những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến
hơn”12. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu
dắt, yêu mến cán bộ mới…Hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn
nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau…Cán bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì
vậy, nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ
phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mới chữa khỏi bệnh hẹp hòi”13.
Bốn là, phải chú trọng đến công tác đề bạt cán bộ. Hồ Chí Minh lưu ý
việc phải xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt rồi thì phải
theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra người cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc.
Hồ Chí Minh viết rõ: cất nhắc cán bộ không nên làm theo lối giã gạo, nghĩa là
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 236
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 237
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 237.
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 237
10
11
13
trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi thì không giúp đỡ họ, khi
họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên; một cán bộ bị
nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Hồ Chí Minh bày tỏ quan
điểm quý trọng cán bộ khi cho rằng: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng
mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”14.
Năm là, phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong công tác cán bộ, phải chú
ý việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà Hồ Chí Minh cho rằng, đây là công việc
gốc của Đảng khi đặt trong mối quan hệ với nội dung vai trò của cán bộ. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một công việc quan trọng, phải được tiến hành
thường xuyên. Ở đây, có mấy điểm đáng chú ý mà Hồ Chí Minh đã nêu: Học
phải thiết thực, “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” 15; Học
phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tế; Sắp xếp thời gian và bài học
phải hợp lý; Tuyệt đối chống bệnh chủ quan, hẹp hòi, ba hoa; Các tài liệu huấn
luyện phải do cơ quan lãnh đạo xét kỹ; Những giờ học tập đều tính như những
giờ làm việc; Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả
công tác khác mà định; Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Những người lãnh đạo phải tham gia giảng dạy
các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng; Đầu tư cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương xứng với yêu cầu, “không nên bủn xỉn về
các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”16.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa và thực
tiễn sâu sắc. Đó là những quan điểm cơ bản chỉ đạo chung vào công tác đổi mới
và chỉnh đốn Đảng trong tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, đặc biệt trong
thời kỳ cách mạng hiện nay, thời kỳ Đảng tiếp tục cầm quyền lãnh đạo sự
nghiệp phát triển đất nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ trong quân đội
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 273.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 273
16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T. 5, tr. 273.
14
15
14
Riêng đối với quân đội ở thời kỳ nào, giai đoạn nào, bác cũng luôn chăm
lo xây dựng đội ngũ cán bộ cả về chính trị tư tưởng, quan điểm, lề lối tác phong
công tác. Bởi lẽ theo quan điểm của Bác cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính
ách cho đúng, vì vậy cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Do đó, huấn luyện
cán bộ là cái gốc công việc gốc của Đảng. Đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng cốt
xây dựng quân đội, đưa chủ trương đường lối chính sách nghị quyết của Đảng
vào quán triệt chỉ đạo tổ chức thực hiện trong các hoạt động của quân đội: xây
dựng, huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, công tác lao động sản xuất, đạt
chất lượng hiệu quả cao, biến đường lối chủ trương chính sách của Đảng nhà
nước, chỉ thị mệnh của cấp trên thành hiệu quả thiết thực trong đời sống chiến
đấu, công tác, lao động sản xuất của quân đội. Cho nên bất cứ chính sách gì, cán
bộ tốt thì thành công. Và người coi huấn luyện bồi dưỡng cán bộ là công việc
gốc của Đảng . Bao giờ Bác cũng giành cho đội ngũ cán bộ quân đội sự quan
tâm đặc biệt, những tình cảm đặc biệt hết sức sâu sắc và rộng lớn . người luôn
gắn việc bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện bồi dưỡng cán bộ, với đường lối chính
trị đường lối quan sự, nhiệm vu cách mạng của Đảng, của quân đội trong từng
thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, đề ra những yêu cầu cụ thể về phẩm chất
năng lực của cán bộ tương ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị đặt ra. Trong
đó quan điểm bao trùm nhất là: Bác nhắc nhở cán bộ phải ra sức học tập, tu
dưỡng nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để
củng cố giữ vững lập trường, bản chất chính trị, có phương pháp sử lí đúng đối
với công việc và đối với con người. Bác thường căn dặn “cán bộ phải thường
thương yêu đội viên. Đối với anh em ốm yếu, thương tật, cán bộ phải trông nom,
thăm hỏi. Người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị
người bạn của đội viên. chưa làm được như vậy thì chưa hết nhiệm vụ”, rằng “từ
tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất
và tinh thần của đội viên, phải xem xét đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu
nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được
15
kêu mình đói. Bộ Đội không có áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ
đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới là dân chủ, là
đoàn kết, là tất thắng”. Đối với nhân dân, Bác thường căn dặn cán bộ chiến sĩ,
phải kính trọng dân , giúp đỡ dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân không được công
thần kiêu ngạo. Mình đánh giặc là vì nhân dân, nhưng không phải là “cứu tinh”
của dân, mà là có trách nhiệm phục sự nhân dân. Tất cả bộ đội phải làm cho dân
tin, dân phục dân yêu. Phải làm thế nào khi mình chưa đến thì dân trông mong,
khi mình đến thì dân giúp dỡ, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Muốn vậy,
cán bộ phải giúp đỡ dân, thương yêu dân. Mỗi quân nhân phải là một cán bộ
tuyên truyền bằng việc làm của mình.
Bởi vậy, ngay từ ngày thành lập đến nay, dù trong gian khổ chiến đấu hy
sinh, giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, hay trong huấn luyện sẵn sàng chiến.
Học tập công tác, lao động sáng tạo của thời bình, quân đội ta luôn luôn phấn
đấu thực hiện lời dậy của bác hồ kính yêu “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm
vụ nào cũng hoàn thành khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh
thắng”. chính vì vậy, mà đồng bào ta ở mọi miền đất nước đã tặng cho quân đội
ta danh hiệu cao quý “bộ đội cụ Hồ”. “bộ đội cụ Hồ” một lòng một dạ phục vụ
hân dân, đi dân nhớ ở dân thương, bộ đội là một hình mẫu về đạo đức lối sống.
Đối với đồng đội đồng chí thì quý trọng như ruột thịt,hết lòng giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Cán bộ thương yêu chiến sĩ chia ngọt sẻ bùi với cấp dưới, làm cho
chiến sĩ tôn trọng cán bộ. Mọi người sống có lí tưởng sống có kỷ luật, khiêm tốn
giản dị, trung thực thẳng thắn, lễ độ và nhân hậu, kính già yêu trẻ. Mình vì mọi
người. “Bộ đội cụ Hồ” là tình sâu nghĩa nặng.
16
Chương 2
SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THƯỜNG
XUYÊN CHÂM LO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
2.1 Tính cấp thiết phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ của Đảng và trong quân đội vững mạnh hiện nay
* Dưới ngọn cờ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chi Minh, cách mạng Việt Nam
đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử
mang tầm thời đại. Và ngày nay cả nước đang thực hiện đường lối đổi mới xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu thực hiện mục tiêu
dân giàu nước mạnh xã hội cân bằng dân chủ văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Ở vào thời điểm hiện nay, đứng trước tình hình thế giới có những diễn
biến phức tạp khó lường, các thế lực thù địch phản động dùng mọi thủ đoạn
nham hiểm nhất để phá hoại sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng thời những
căn bệnh của Đảng cầm quyền chưa chữa khỏi. Do đó, xây dựng Đảng càng đòi
hỏi phải chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn Đảng là nội dung cơ bản của xây dựng
Đảng phải tiến hành chỉnh đốn Đảng trước hết về tư tưởng, tổ chức, cán bộ, và
phương thức lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng trong sạch, bảo đảm hiệu quả sự
lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới. Việc xây dựng chỉnh đốn Đảng chủ yếu
nhằm khắc phục những lệch lạc về tư tưởng, chính trị; sự thoái hóa biến chất
trong đạo đức lối sống, thiếu tu dưỡng rèn luyện buông thả của một bộ phận cán
bộ.
Ngay từ đại hội V của Đảng đã nhận định tình hình xa sút phẩm chất,
giảm sút ý chí chiến đấu một bộ phận cán bộ Đảng viên. “Nhiều người từ sai
lầm trong sinh hoạt, quan liêu trong tác phong, đã đi đến chỗ biến chất trong lối
sống, thoái hóa về chính trị”17. Đại biểu đại hội XI của Đảng nhận định: “Một bộ
Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ V, Tập III, Nxb Sự
thật, HN 1982, tr.25
17
17
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng,
mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, xa đọa về đạo đức lối
sống. Một số cán bộ thoái hóa về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ của
họ gây hậu quả hết sức nghiêm trọng”18 hiện tượng suy thoái này đến nay vẫn
chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, và không chỉ ở đảng viên thường mà cả ở cán
bộ lãnh đạo cao cấp.
* Trước những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường của tình hình thế
giới, khu vực và tác động tiêu cực của xã hội, do đó trong Đảng bộ Quân đội
cũng còn không ít cán bộ, đảng viên còn những biểu hiện lệc lạc, hẫng hụt về trí
tuệ, thiếu dũng khí đấu tranh, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, cá biệt có cả cán bộ
lãnh đạo các cấp mang nặng chủ nghĩa cá nhân, giảm sút ý chí, tư tưởng cơ hội
thực dụng, tham nhũng chạy theo tham vọng quyền lực, danh lợi, cục bộ bản vị,
chưa gương mẫu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, gây ra những hậu quả
xấu cho đơn vị và xã hội. Xây dựng và quy hoạch đội ngũ cán bộ có mặt còn bất
cập trước yêu cầu mới; trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn biểu
hiên dân chủ hình thức, đề cao uy quyền cá nhân...
Tất cả tình hình trên cho thấy, hơn lúc nào hết Đảng phải được xây dựng
chỉnh đốn, trong đó vấn đề then chốt là cán bộ và công tác cán bộ để cho Đảng
có đủ trình độ, trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của mình, đáp ứng tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đây không những là
vấn đề then chốt mà còn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận
mệnh chế độ ta và Đảng ta.
2.2 Một số giải pháp góp phần vận dụng sáng tao tư tưởng Hồ Chí
Minh về thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng vào xây
dựng đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn hiện nay
Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, HN
2011, tr.137
18
18
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện mục tiêu xây dựng dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI và một số nghị quyết của trung ương đã nêu
rõ phải đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, đổi mới cả về phương pháp và tổ
chức. Đồng thời đề ra những giải pháp cụ thể về vấn đề này. Đại hội Đảng XI
khẳng định: cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. Do đó: cần tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, vấn đề cán bộ
kế cận đang là vấn đề bức súc, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
công tác cán bộ đang còn có những vi phạm, vấn đề cơ chế và chính sách, đang
còn bất cập, đảng ta đã nhiều lần yêu cầu cần đổi mới căn bản bộ máy làm công
tác cán bộ, nhưng chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Và điều đặc biệt nghiêm trọng
là vẫn còn một bộ phận cán bộ thoái hóa biến chất về chính trị, đạo đức lối sống,
độc đoán quan liêu, gia trưởng...
Trên cơ sở chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước, hội nghị BCHTW 3 (khóa VIII) của Đảng và mới đây nhất là
NQTW4 Khóa XI đã xác định những vấn đề cụ thể về cán bộ và công tác cán bộ
cần tập trung giải quyết là: Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh
đạo và quản lý ở các cấp vững mạnh về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong
sạch về lối sống, có trí tuệ kiến thức, và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo
gắn bó với nhân dân; Có cơ chế chính sách phát hiện tuyển chọn, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ, trọng dụng những người có đức có tài; Thực hiện đúng nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi
với phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác
cán bộ...; Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, đánh giá bồi dưỡng
lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và
tín nhiệm của nhân dân là thước đo chủ yếu; Đổi mới trẻ hóa cán bộ lãnh đạo, và
quản lí, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa phát triển; Xây dựng
chỉnh đốn các học viện, nhà trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng
và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đến hết 2015 phần lớn cán bộ chủ chốt
19
cấp huyện trở nên học xong chương trình lí luận cao cấp và có kiến thức trình đọ
đại học về một chuyên ngành nhất định.
Trên tinh thần đó, vận dụng vào thực tiễn xây dưng đội ngũ cán bộ quân
đội, nghị quyết Đại hội VIII của Đảng bộ quân đội xác định:
Một là, thực hiện có hiệu quả chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ mới, có số lượng cơ cấu hợp lí, đồng bộ, chất lượng cao. Phấn đấu đến
năm 2015 hầu hết có trình độ đại học, cao đẳng trở lên. Tăng tỷ lệ cán bộ khoa
học quân sự và chuyên gia đầu ngành giỏi; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ trì cấp chiến lược, chiến dịch và nguồn kế cận tn cậy , vững chắc, tông kết
việc thực hiện quy định 64 và bổ xung hoàn chỉnh các quy định về công tác cán
bộ .... Làm tốt công tác quy hoạch và bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lược đào
tạo; gắn đào tạo đội ngũ cán bộ với đào tạo đội ngũ cán bộ đảng viên; chú trong
đội ngũ cán bộ qua chiến đấu, dược rèn luyện thử thách trong công tác, cán bộ
vùng dan tộc ít người, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ nguyên cứu giảng dậy ở
các học viện, nhà trường; chú trong xây dựng đội ngũ sĩ quan dự bị.
Hai là, đổi mới việc đánh giá, lựa chọn, sử dung cán bộ , trên cơ sở dựa
vào tiêu chuẩn, nhưng lấy hiệu quả công tác làm chính, bảo đảm đánh giá đúng,
sử dung hợp lí, bảo đảm tính liên tục kế thừa, phát triển; thực hiện cấp ủy thống
nhất lãnh dạo công tác cán bộ và quản lí cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân
chủ; khắc phục mọi biểu hiện cá nhân, cơ hội cục bộ, khép kín, nghiên cứu điều
chỉnh các chính sách phù hợp để giữ gìn và thu hút người tài, động viên cán bộ
nơi khó khăn gian khổ và đơn vị sẵn sàng chiến đấu cao.
Nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ và cơ quan tham
mưu cho cấp ủy về công tác cán bộ. Kết luận của bộ chính trị về việc nhận xét
đánh giá cán bộ phục vụ cho chuẩn bị nhân sự ban chấp hành Trung ương khóa
XI nhấn mạnh đến các vấn đề: Kết quả và hiệu quả công tác, năng lực thực tiễn
của cán bộ; trên cương vị công tác của mình đã tổ chức thực hiện tốt, đóng góp
thúc đẩy công tác được giao, không để trì trệ yếu kém; Không có biểu hiện chủ
nghĩa cá nhân, tham vọng địa vị, tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí; bản thân không lợi dụng và không để gia đình lợi dụng
20
chức quyền của mình để mưu cầu lợi ích riêng; Giữ được đoàn kết nội bộ; tác
phong làm việc dân chủ; Riêng với lực lượng vũ trang cần nhấn mạnh thêm việc
nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh cấp trên, tuyệt đối trung thành với Đảng, với
tổ quốc, với nhân dân19
Tài năng, sự cống hiến của cán bộ đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt
động thực tiễn. Đại hội toàn quân lần thứ VIII, yêu cầu khắc phục mọi biểu hiện
cá nhân, cơ hội cục bộ khép kín, nguyên cứu điều chỉnh các chính sách phù hợp
để giữ gìn và thu hút người tài, động viên cán bộ nơi công tác khó khăn gian khổ
và đơn vị sẵn sàng chiến đấu cao. Nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ ngũ
cán bộ và cơ quan tham mưu cho cấp ủy về công tác cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội là nội dung quan trọng xây dưng quân
đội về chính trị, là vấn đề cực kỳ hệ trọng, rộng lớn. Và phức tạp có ý nghĩa then
chốt quyết định trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách
mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại, góp phần xây dưng nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh. Công tác cán bộ rong quân đội là một bộ phận công
tác cán bộ của Đảng, một trong những nội dung chủ yếu của CTĐ, CTCT trong
quân đội có quyết định đến việc xây dựng hệ thống lãnh đạo, chỉ huy quản lý
của quân đội, nhằm đảm bảo lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đói với quân đội.
Trong những năn qua, đội ngũ cán bộ quân đội đã từng bước phát triển,
trưởng thành, số lượng cơ cấu được cải thiện, chất lượng được nâng lên tương
đối toàn diện, tuy nhiên số lượng thiếu so với nhu cầu biên chế, trong đó nhiều
đơn vị vừa thừa vừa thiếu, nhưng số thừa không bù đắp được cho số thiếu; số
thiếu chủ yếu là cán bọ cơ sở cấp trung đội, phó đại đội trưởng về chính trị, trợ
lý kỹ sư, bác sĩ cơ sở, tỉ lệ cán bộ tại chỗ nhiều vùng, miền chưa tương xứng với
yêu cầu bố trí, cán bộ là người dân tọc thiếu số, nhất là dân tộc đặc biệt ít người,
ở các đơn vị đóng quân trên địa bàn có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số còn
mỏng. Chưa tương xứng với nhu cầu sử dụng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay
một số cán bộ hiệu quả công tác chưa tương xứng với trình độ học vấn. Chính vì
19
TrÇn §×nh Hoan, T¹p trÝ XD§, Th¸ng 5/2005, tr.8
21
vậy để góp phần thực hiện sáng tạo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các văn
kiện, nghị quyết của Đảng vào xây dựng đọi ngũ cán bộ quân đội vững mạnh
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay cần tập trung
thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau đây.
Thứ nhất, nghiên cứu, quán triệt, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh để có
quan điểm xem xét đánh giá cán bộ thật sự đúng đắn khoa học, công tâm, theo
một quy trình dân chủ, xử lí tốt mối quan hệ biện chứng giữa đức và tài, nhiệm
vụ và lợi ích, tiêu chuẩn và cơ cấu, năng lực thực tế và bằng cấp.
Đánh giá đúng cán bộ là một khâu quyết định trong sử dụng cán bộ, vừa
là cơ sở để quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ lâu dài. đối với những
cán bộ trẻ, có đức có tài, đồng thời cũng là nhân tố tác động tác động đến sự ổn
định và đoàn kết nội bộ. Phải nắm vững và dựa vào tiêu chuẩn cán bộ, đẻ đánh
giá cán bộ, coi trọng cả đức và tài , lấy đức làm gốc. Trước yêu cầu bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng quân đội hiện nay, lai càng phải đặc biệt chú
trọng, phẩm chất chính trị và năng lực trí tuệ của cán bộ . Đánh giá cán bộ phải
căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ đảm nhiệm, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ
được giao và sự tín nhiệm của quần chúng làm thước đo chủ yếu về phẩm chất
và năng lực cán bộ, phải tránh đánh giá cán bộ một cách hình thứ, lẫn lộn tiêu
chuẩn và điều kiện, phải đặt cán bộ trong môi trường và điều kiện cụ thể để
đánh giá cán bộ, chú trọng đến mục đích động cơ hoàn thành nhiệm vụ, trong
điều kiện thuận lợi hay khó khăn, hoàn thành trong mỗi nhiệm vụ hay cả trong
quá trình. Đánh giá đúng là khuyến khích cán bộ có tâm huyết có trách nhiệm,
trước những khó khăn phức tạp, biết tháo gỡ khó khăn, vượt qua thử thách, dám
nghĩ tới cái mới dám làm và giám chịu trách nhiệm theo hướng đi đúng đã xác
định. Để đánh gia đúng cán bộ đòi hỏi phải làm tốt công tác quan lý cán bộ, kết
hợp chặt chẽ cả ba khâu: tổ chức quản lí; quần chúng quản lí; và cán bọ tự quản
lí. Cấp quản lí cán bộ phải sát cán bộ, trực tiếp nghe cán bộ tự nhận xét, lấy ý
kiến của quần chúng và thống báo cho cán bộ biết kết luận của cấp ủy về những
ưu điểm, khuyết điểm trong công tác học tập rèn luyện của họ, giảm bớt các thủ
22
tục hành chính máy móc, rườm rà, làm cho việc đánh gia sử dụng cán bộ thiếu
chính xác, không đúng bản chất sự việc, thiếu nhất quán.
Thứ hai, phải thường xuyên chăm lo giáo dục đào tạo, nâng cao chất
lượng bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt coi trọng đội ngũ cán bộ chủ trì, đầu ngành,
cán bộ trẻ, tích cực phát hiện bồi dưỡng và trọng dụng tài năng, gắn quy hoạch
tạo nguồn cán bộ chủ trì với kiện toàn cấp ủy; gắn việc đào tạo bồi dưỡng với
bố trí sử dụng cán bộ thành một quy trình liên tục thống nhất.
Cán bộ chỉ huy cán bộ chủ trì CTĐ, CTCT có vai trò quyết định tới việc
hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, tạo nên sức mạnh tập thể và sự năng động củ
đội ngũ cán bộ. Vì vậy trong khi chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ , thì phải đặc
biệt coi trọng việc xây dựng cán bộ chủ trì các cấp, từ cán bộ chủ trì cấp chiến
dịch đến cán bộ chủ cấp phân đội, thật sự kiên định vững vàng, tin cậy, có đủ
bản lĩnh và năng lực trí tuệ, có kiến thức cơ bản, có năng lực lãnh đạo và tổ
chức, giải quyết mọi nhiệm vụ. Lãnh đạo chỉ huy quản lý điều hành tổ chức thực
hiện, năng độn sáng tạo các nghi quyết của Đảng chỉ thị cấp trên, độc lập sử trí
các tình huống phức tạp.
Đi đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, phải trú trọng xây dựng đội
ngũ cán bộ khoa học đầu ngành có trình độ chuyên môn giỏi, đáp ứng yêu cầu
xây dựng quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại. Góp
phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Thường xuyên phát hiện, đào tạo và trọng dụng tài năng trong quân đội,
khác với thời chiến thông qua môi trường chiến đấu có nhiều thuận lợi trong
việc phát hiện, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho tài năng, phát triển, trong thời
bình phải có quy trình riêng để phát triển tài năng trong quá trình tạo nguồn, đào
tạo và trong thực tế công tác, có thể cần phải được đào tạo chuyển tiếp, gắn với
cất nhắc đột biến thích hợp, có chính sách ưu đãi hợp lý, tạo điều kiện cho tài
năng phát triển và công hiến.
Phải có quy hoạch đào tạo nguồn cán bộ, đồng thời phải hiểu đúng nội dung
và đổi mới quy trình, phương pháp tiến hành xay dựng và thực hiện quy hoạch bảo
đảm thiết thực và hiệu quả. Bởi vì, quy hoạch tạo nguồn là một nội quan trọng của
23
công tác cán bộ, là nhiệm vụ rất cơ bản có ý nghĩa chiến lược bảo đảm cho công tác
cán bộ đi vào nề nếp, chủ động có tầm nhìn xa, và lâu dài.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ phải gắn chặt với quy hoạch tạo
nguồn, theo yêu cầu dự kiến bố trí công tác, thực hiện tốt mục tiêu yêu cầu đào
tạo là “đào tạo theo chức vụ, và có trình độ học vấn tương đương” xây dựng bản
lĩnh chính trị và tạo mặt bằng kiến thức, trình độ cơ bản chuyên ngành cho cán
bộ làm tốt chức trách nhiệm vụ được giao; bảo đảm cho cán bộ chỉ huy cán bộ
quản lí có kiến thức, năng lực toàn diện; cán bộ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ
có trình độ chuyên môn sâu, đào tạo lên cao càng phải nhuần nhuyễn giữa kiến
thức khoa học xã hội, nhân văn với kiến thức chuyên ngành, tạo được tiềm năng
phát triển. Với cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, khi cần có thể bộ nhiệm cán bộ
chính trị làm chỉ huy và ngược lại. Kết hợp bồi dưỡng cán bộ tại nhà trường, với
bồi dưỡng ôn luyện trong thực tiễn cách mạng, nhất là với cán bộ chỉ huy, lãnh
đạo, cần có sự chuyển qua nhiều cương vị công tác ở đơn vị, cơ quan, nhà
trường để bồi dưỡng phát triển toàn diện, vững chắc phải thông qua hoạt động
thực tiễn trong quân dội để tuyển chọn, bồi dưỡng nguồn cán bộ; cấp trên phải
bồi dưỡng cho cấp dưới trực tiếp, nhất là người kế nhiệm.
Bố trí sử dụng phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức danh để bố trí đúng người,
đúng việc, đúng sở trường của cán bộ. Việc đề bạt cán bộ cần phải đúng lúc, giao
việc đúng khả năng, khi cán bộ đang có xu hướng phát triển; không nên để cán bộ
quá lâu ở một cương vị chỉ huy lãnh đạo vừa làm cho cán bộ chững lại, vừa gây
nên sự ùn tắc trong đội ngũ; phải bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa và phát triển
vững chắc, giữ gìn được chất lượng cán bộ, đặc biệt là chất chiến đấu và ren luyện
thử thách trong thực tiễn, kết hợp sắp xếp bổ nhiệm tuần tự với những bước nhảy
vọt đối với số cán bộ trẻ để bồi dưỡng nguồn lau dài, ở mỗi cấp chỉ huy lãnh đạo
cần có ba độ tuổi. Độ tuổi cao chiếm khoảng (15-20)%, độ tuổi trung bình (5060)%, độ tuổi trẻ khoảng (25-30)%. Cần phải thực hiện quy chế miễn nhiệm, tạo
nên sự phát triển bình thường trong đội ngũ cán bộ. Những cán bộ chủ trì giữ chức
năm năm trở lên mà hết tuổi phục vụ theo chức, đã có cán bộ thay thế, thôi chỉ huy,
quản lý, chuyển sang công việc phù hợp, với khả năng chuyên sâu, tích lũy kinh
24
nghiệm của họ. Kiên quyết khắc phục tình trạng bổ nhiệm để “tạo nhu cầu quân
hàm” khi cán bộ chưa có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn cần thiết để đảm nhiệm chức
danh đó.
Thứ ba, phải dựa trên cơ sở nền kinh tế đất nước với tinh thần tự lực tự
cường, thực hiện thật tốt công tác chính sách cán bộ phù hợp với điều kiện của
đất nước và quân đội để thu hút và giữ gìn được cán bộ có chất lượng cao.
Để phát huy lợi thế và hạn chế mặt trái của nền kinh tế thị trường và
mở cửa, đồng thời với việc thường xuyên tăng cường chăm lo giáo dục rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, bản chất giai cấp công nhân, hết lòng vì
lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phải có chính sách sử dụng
và đãi ngộ đối với cán bộ phù hợp, nhất quán công tâm; kết hợp với công tác
tư tưởng tổ chức chính sách; gắn bổ nhiệm đề bạt với giải quyết các vấn đề
chính sách cán bộ. Để giữ gìn và nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là chất
lượng chính trị, chất chiến đấu, thu hút được tài năng, đoàn kết, thu hút được
những người tâm huyết, có đức có tài, góp phần nâng cao sức chiến đấu của
quân đội.
Nghiên cứu vận dụng, thực hiện đồng bộ chính sách đãi ngộ của Đảng,
Nhà nước đối với quân đội để bảo đảm điều kiện làm việc cho cán bộ tương
xứng với đặc điểm và tính chất lao động quân sự, tạo vị trí xã hội xứng cho đáng
cho đội ngũ sĩ quan khi chuyển ra ngoài quân đội. Huy đông được mọi nguồn
đầu tư ngân sách trong các trương trình phát triển để đào tạo bồi dưỡng và thực
hiện chính sách ưu đãi khuyến khích đối với cán bộ; chăm lo đời sống gia đình
cán bộ, nhất là ở vùng cao, vùng sâu biên giới, hải đảo, nông thôn còn nhiều khó
khăn, thường xuyên phối hợp cơ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội
ở trung ương và địa phương trong việc tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng, quản lý,
thực hiện các chính sách cán bộ, gia đình cán bộ quân đội và bổ xung cán bộ cho
quan đội và cho các cơ quan Đảng nhà nước.
Bốn là, không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý cán bộ, xây dựng và thực
hiện có nề nếp quy chế, quy trình, chế độ về phân công phân cấp quản lí cán bộ,
về nhận xét, đánh giá cán bộ, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, bầu cấp ủy....
25
Trong tình hình hiện nay, đúng như nhận xét của hội nghị TW4 khóa XI,
đánh giá cán bộ đang là khâu yếu nhất ảnh hưởng đến nhiều mặt của công tác cán
bộ. Vì chưa phát hiện và sử dụng được nhiều cán bộ có đức có tài? Vì sao cán bộ
cương trực, dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực lại bị thành kiến, trù dập? Ngược
lại, có phần tử cơ hội luồn lọt, chạy chức chạy chức chạy quyền, được đề bạt vào
chức vụ lãnh đạo và quản lí, được đánh giá cao được khen thưởng, nhưng trên
thực tế thì làm ăn phi pháp, buôn lậu tham nhũng, phạm tội hình sự, gây những
tổn thất to lớn cho nhà nước? Vì đâu đã đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào chức vụ khá
quan trọng cho tới khi quần chúng tố cáo và báo trí phanh phui ra thì cơ quan
quản lí cán bộ mới vỡ lẽ, bị động đi xác minh và sử lí? Vì sao ngành nào, cấp nào
cũng xây dựng quy hoạch cán bộ, cũng đầy đủ danh sách cán bộ dự bị, cán bộ kế
cận, nhưng đến khi cần đề bạt cán bộ, đến kỳ bầu cử cấp ủy thì nhiều quy hoạch
bị đổ bể, phải chăng do sắp xếp cán bộ một cách chắp vá? . những trường hợp kể
trên trong quân đội cũng có tuy không phải phổ biến, nhưng tính chất lại quan
trọng, gây tác hại nặng nề, không thể xem thường. Nó đã nói lên tình trạng yếu
kém của công tác quản lí cán bộ mà trước hết bắt nguồn từ đánh giá, nhận xét cán
bộ không chuẩn xác.
Khắc phục những yếu kém trên và để nâng cao hiệu quả công tác quản lí
cán bộ? ít nhất cần phải: xác định nhiệm vụ chính trị, làm rõ chức trách, chế độ
trách nhiệm của từng người, đồng thời nắm vững tiêu chuẩn cán bộ để có tiêu trí
đánh giá cán bộ được chuẩn xác, có phương hướng công tác cán bộ đúng; để quản
lí cán bộ cần cái tâm trong sáng, chí công vô tư, khách quan, không xen lẫn chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa địa phương cục bộ, bè phái và mọi biểu hiện tiêu cực
khác; cần rút kinh nghiệm xây dựng, hoàn chỉnh các chế độ, quy chế, quy hoạch
cán bộ và thực hiện nghiêm túc có nề nếp; tuân thủ đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo trong bố trí, bổ nhiệm, đề bạt, điều động cán bộ và những
quyết định quan trọng khác trong công tác cán bộ, dân chủ hóa quản lí cán bộ, có
cơ chế động viên được mọi cán bộ, đảng viên, mọi tổ chức và đông đảo nhân dân
tham gia quản lí cán bộ. Làm được như vậy sẽ góp phần khắc phục bệnh quan
26
liêu, chủ quan, nâng cao chất lượng công tác quan lí cán bộ trong quân đội hiện
nay.
Như vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ mà Đảng ta xác định: Phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm, xâu dựng Đảng là then chốt, và xây dựng quân đội
cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại. Để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đó, công tác cán bộ có ý nghĩa quyết định, vì “cán bộ là cái gốc của
công việc” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dậy.