Tải bản đầy đủ (.doc) (196 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ sử DỤNG vốn NHÀN rỗi của các DOANH NGHIỆP bảo HIỂM NHÀ nước VIỆT NAM TRONG điều KIỆN CHUYỂN SANG KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.31 KB, 196 trang )

1

mở đầu

1. Lý do lựa chọn đề tài
Kinh doanh bảo hiểm đợc biết đến ở đầu thế kỷ XIV với cam kết bảo
hiểm đầu tiên cấp cho một chuyến tàu buôn trên biển vào năm 1347. Năm
1424, Công ty bảo hiểm Vận tải hàng hải và đờng bộ đầu tiên đợc thành lập
tại Anh. Sự xuất hiện công ty bảo hiểm này đã đặt một điểm mốc lớn cho sự ra
đời của một lĩnh vực tài chính mới trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới.
Ngày nay, hoạt động bảo hiểm tạo thành một ngành kinh tế quan trọng
của nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những nớc phát triển và đang phát triển. Các
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) trở nên không thể thiếu trong sự phát triển
của nền kinh tế, đời sống cá nhân và xã hội. Về mặt xã hội, chúng cung cấp
những dịch vụ có mục đích bảo đảm sự an toàn cho những cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức tham gia bảo hiểm.
Về mặt kinh tế, vai trò của DNBH có đợc nhờ vào việc đầu t các nguồn
vốn tạo ra từ các hợp đồng bảo hiểm. Hoạt động cung cấp dịch vụ bảo hiểm đã
mang lại cho doanh nghiệp bảo hiểm những nguồn phí bảo hiểm rất lớn. Do
tính chất đặc thù của kinh doanh bảo hiểm: thu tiền trớc, trả tiền sau, thời
điểm trả tiền xảy ra sau thời điểm thu phí bảo hiểm một khoảng thời gian nhất
định, có thể là rất dài trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nên để luôn đảm
bảo khả năng thanh toán, DNBH bắt buộc phải trích lập các quĩ dự phòng kỹ
thuật để đáp ứng nhu cầu chi trả khi xảy ra tổn thất hoặc khi đến thời điểm trả
tiền bảo hiểm. Chu trình sản xuất nghịch đảo của bảo hiểm đã làm cho các quĩ
dự phòng trở thành các nguồn tài chính nhàn rỗi. Do yêu cầu vốn của nền kinh
tế và yêu cầu tăng năng lực tài chính, DNBH sử dụng các quĩ dự phòng kỹ
thuật đầu t mạnh mẽ vào thị trờng vốn. Các lĩnh vực đầu t chủ yếu là chứng
khoán, cho vay và bất động sản.



2

Với hoạt động đầu t nguồn vốn nhàn rỗi, DNBH có một vị trí quan
trọng trong cấu trúc của hệ thống tổ chức trung gian tài chính, thực hiện vai
trò thu hút và tài trợ vốn cho nền kinh tế. ở nhiều nớc, các tổ chức này đã tạo
ra một kênh cung cấp vốn lớn trong nền kinh tế.
ở Việt Nam, mặc dù thị trờng bảo hiểm mới chỉ phát triển vài năm gần
đây, nhng cùng với sự tăng trởng mạnh của doanh thu phí bảo hiểm, các
DNBH đã góp phần đáng kể vào việc sớm hình thành thị trờng vốn. Tính đến
thời điểm 31/12/1999, mức tích lũy vốn và các quĩ của các DNBH Việt Nam
đạt đến 3.197 tỉ đồng. Tốc độ tăng trởng đầu t bình quân giai đoạn 1994 1999 là 184%/năm.
Kể từ năm 1994, thị trờng bảo hiểm nớc ta đã thực sự thoát khỏi sự độc
quyền chậm tiến bằng sự ra đời hàng loạt các DNBH với nhiều hình thức pháp
lý khác nhau. Nhng trong hệ thống những tổ chức này, doanh nghiệp bảo hiểm
nhà nớc (DNBHNN) vẫn và sẽ chiếm một vị trí quan trọng nhất. Tuy nhiên
hoạt động của chúng vẫn còn hết sức đơn thuần. Trong giai đoạn hiện nay, các
doanh nghiệp này mới chỉ tập trung chính vào khai thác các dịch vụ bảo hiểm,
còn đối với hoạt động đầu t nguồn có đợc từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoạt động tài chính đợc coi là quan trọng nhất, thì hết sức hạn chế, manh mún
và kém hiệu quả. Có thể nói, các DNBHNN của chúng ta cha có sự quan tâm
đúng với tầm quan trọng của nó, cha có những chiến lợc đầu t vốn lâu dài và
hiệu quả.
Chính lẽ đó, tìm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn
rỗi đợc tạo ra từ hoạt động cung cấp dịch vụ "an toàn" cho các DNBHNN có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Song cho tới ngày nay, có quá ít những nghiên cứu
cũng nh cha có một công trình khoa học nào tiến hành khảo cứu toàn diện về
chu trình tài chính thông qua hoạt động tài trợ của các DNBH.
Mong muốn hoàn thiện lý luận về tài chính DNBH và góp phần xây
dựng những quan điểm đầu t hiệu quả vốn nhàn rỗi, từ đó tăng cờng sức mạnh



3

cho các DNBHNN chính là cơ sở căn bản trong tất cả những nội dung nghiên
cứu của luận án.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Những nghiên cứu của luận án, một mặt góp phần hoàn thiện những
vấn đề lý luận về tài chính các DNBH nói riêng và những tổ chức tài chính
trung gian phi ngân hàng nói chung, lý luận về tài chính của các tổ chức này
trong điều kiện nền kinh tế thị trờng. Mặt khác, về thực tiễn, luận án sẽ đóng
góp những ý tởng khoa học để xây dựng hệ thống các định chế pháp lý liên
quan đến hoạt động tài chính của các DNBH; góp phần trực tiếp vào việc xác
định những chiến lợc đầu t hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi cho các DNBHNN
trong điều kiện nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam. Từ đó góp phần phát triển
toàn bộ lĩnh vực bảo hiểm ở nớc ta.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Những mục tiêu chính của đề tài nghiên cứu là:
- Làm sáng tỏ bản chất của vốn nhàn rỗi trong DNBH và các nguyên
tắc định lợng nguồn vốn này.
- Những cơ sở lý thuyết của việc đầu t vốn nhàn rỗi trong các DNBH.
- Đánh giá có hệ thống toàn bộ các định chế pháp lý trực tiếp chi phối
sự định lợng và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong các DNBH cũng nh đánh
giá toàn diện về quá trình tạo lập và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của các
DNBHNN Việt Nam. Qua đó đánh giá xu hớng và hiệu quả đầu t vốn nhàn rỗi
của các DNBHNN trong giai đoạn gần đây.
- Xây dựng các giải pháp đầu t hiệu quả vốn nhàn rỗi đối với các
DNBHNN trong điều kiện nền kinh tế thị trờng.
- Đề xuất hoàn thiện các điều kiện liên quan đến việc xác định nguồn
vốn nhàn rỗi và đầu t nguồn vốn này đối với Nhà nớc và các DNBHNN.



4

4. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu
Luận án giới hạn đối tợng nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề lớn sau:
- Cơ sở lý luận về nguồn vốn nhàn rỗi liên quan đến các DNBH nói
chung trong nền kinh tế.
- Nghiên cứu thực tiễn việc tạo lập và sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của
DNBHNN trong khoảng thời gian cuối thập kỷ 90.
- Khái quát kinh nghiệm của một số nớc có nền kinh tế thị trờng phát
triển, góp phần hoàn thiện các định chế pháp lý về lĩnh vực tài chính này.
- Các giải pháp về thiết lập và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi
cho các DNBHNN Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Các phơng pháp đợc sử dụng trong nghiên cứu luận án là:
- Phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các vấn đề nghiên
cứu đợc giải quyết từ lý luận đến thực tiễn với các quan điểm toàn diện, phát
triển và lịch sử cụ thể.
- Phơng pháp thống kê, toán học, tổng hợp, phân tích đối chiếu và so
sánh trong tất cả các kiến giải về những vấn đề mà luận án đặt ra.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
đợc trình bày trong 3 chơng với 191 trang, 12 bảng, 5 biểu đồ và đồ thị, 23
phụ lục. Tiêu đề cụ thể của từng chơng nh sau:
Chơng 1: Cơ sở lý luận của sự hình thành và sử dụng nguồn vốn nhàn
rỗi trong các DNBH.
Chơng 2: Thực trạng tạo lập và sử dụng vốn nhàn rỗi của các DNBHNN
trong thời gian qua.
Chơng 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhàn rỗi của
các DNBHNN Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trờng.



5

Chơng 1
cơ sở lý luận của Sự hình thành và sử dụng
nguồn vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp bảo hiểm

Nguồn vốn nhàn rỗi của các DNBH đợc hình thành trên cơ sở kỹ thuật
bảo hiểm và từ quá trình kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm. Nhng bản chất của
nguồn vốn này là gì và nguyên tắc nào chi phối việc sử dụng chúng là những
vấn đề lý luận đầu tiên sẽ đợc luận án nghiên cứu. Những tiếp cận này sẽ là
tiền đề cho những nghiên cứu về việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi đợc tạo ra
từ các hoạt động bảo hiểm của DNBH.
Nội dung tiếp theo của chơng là những nghiên cứu liên quan đến các
nguyên tắc, lý thuyết về đầu t tài chính chi phối việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi
của DNBH. Những phân tích về các nguyên tắc và tiêu chuẩn đánh giá hiệu
quả đầu t sẽ là nền tảng quan trọng và hữu ích để đánh giá thực trạng quá trình
sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi và việc xây dựng các giải pháp ở chơng 3 nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong các DNBHNN.
1.1. Nguyên tắc chung và phân loại nghiệp vụ bảo hiểm

1.1.1. Nguyên tắc chung của bảo hiểm
Bảo hiểm là một nghiệp vụ tơng hỗ, kết hợp sự đóng góp của nhiều cá
nhân và tổ chức, nhằm bù đắp cho những ngời trong số họ gặp các sự kiện
ngẫu nhiên (rủi ro) tác động đến con ngời và tài sản.
Để không lẫn lộn phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng ta cần phân
biệt các nghiệp vụ bảo hiểm tuân theo nguyên tắc tơng hỗ do các DNBH tiến
hành nh những nghiệp vụ kinh doanh - trọng tâm nghiên cứu của đề tài và bảo
hiểm xã hội do cơ quan an sinh xã hội thực hiện.
Bảo hiểm xã hội là cơ chế dựa trên sự đóng góp bắt buộc theo luật

định của toàn bộ những ngời lao động thuộc diện đợc bảo trợ, quỹ bảo hiểm


6

sẽ đợc sử dụng để trợ cấp cho tất cả những ngời lao động khi họ gặp phải các
rủi ro thuộc về con ngời. Chu trình tài chính của bảo hiểm xã hội là sự đóng
góp của những ngời đang làm việc- ngời cha gặp rủi ro sẽ không bù đáp cho
chính họ mà cho nhỡng ngời đã gặp rủi ro. Quỹ bảo hiểm xã hội không thực
hiện việc cân bằng tài chính từ nguồn thu trực tiếp của những ngời tham gia
bảo hiểm mà sự cân đối quỹ luôn cần có sự tham gia của giới chủ và Nhà nớc.
Việc nghiên cứu chu trình tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội không nằm trong
mục tiêu nghiên cứu của các nội dung nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên các
kết quả nghiên cứu của luận án hoàn toàn có ý nghĩa đối với những ngời quản
lý quỹ tài chính này.
Ngợc lại với cơ chế của bảo hiểm xã hội, dựa trên cộng đồng và bù trừ
các rủi ro cùng loại, các nghiệp vụ bảo hiểm do các DNBH thực hiện đợc phát
triển bằng việc mở rộng hình thức "cá cợc". Những tính toán xác suất cho
phép các DNBH lợng hóa tơng đối chính xác tần số và mức độ thiệt hại của
tổn thất, có nghĩa là đánh giá một cách chính xác giá thiệt hại dự kiến. Từ
những dự kiến này, DNBH sẽ xác định giá phí bảo hiểm mà mỗi ngời tham gia
bảo hiểm (NTGBH) phải thanh toán để nhận đợc sự bảo đảm an toàn. DNBH
thực hiện việc cân bằng tài chính từ sự đóng góp của những ngời đợc bảo hiểm
và những chi trả cho chính họ.
Cơ chế hoạt động của bảo hiểm dựa trên:
- Một mặt, thiết lập các dự kiến về rủi ro và phí bảo hiểm thông qua
thống kê trên một số lớn các rủi ro cùng loại cho từng nghiệp vụ bảo hiểm.
- Mặt khác, giảm bớt sự sai biệt giữa những dự kiến kỹ thuật và kết
quả thực tế, chủ yếu bằng kỹ thuật đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm.
Vai trò của bảo hiểm trớc hết là tập hợp một số lớn các rủi ro cùng

loại, sau đó thực hiện sự bù trừ chúng theo luật thống kê và xác suất. Sự bù
đắp tài chính cho những thiệt hại xảy ra đợc phân chia giữa tất cả những ngời
đợc bảo hiểm - những ngời góp chung rủi ro và mỗi ngời góp chung rủi ro đó


7

gánh chịu một phần chi phí nhỏ gọi là phí bảo hiểm, trên thực tế là không
đáng kể.
Việc tính toán phí bảo hiểm hoặc các khoản đóng góp dựa trên cơ sở
số tiền bảo hiểm và xác suất xảy ra của tổn thất. Cuối mỗi kỳ, thờng là năm tài
chính, ngời bảo hiểm so sánh tổng phí bảo hiểm thu đợc với tổng số thiệt hại
và các chi phí quản lý khác. Trong trờng hợp xảy ra kết quả chênh lệch âm,
đối với các công ty bảo hiểm tơng hỗ, sẽ phân bổ các khoản chi phí cho các
hội viên, và làm cho phí bảo hiểm thay đổi hàng năm. Ngợc lại các công ty
bảo hiểm phi tơng hỗ mang tính thơng mại, sẽ không đợc phân bổ thiếu hụt
quĩ cho những NĐBH, mà phải bù đắp bằng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy để đảm bảo sự cân bằng nghiệp vụ, các công ty bảo hiểm này
sẽ phải dự kiến tối u các khoản chi phí có thể xảy ra và đảm bảo thu đợc các
dòng tiền tối u. Nói cách khác DNBH phải tiến hành định phí bảo hiểm một
cách khoa học mặt khác phải luôn tìm cách tăng giá trị dòng thu nhập bắng
việc đầu t tốt khoản phí cha sử dụng đợc vào việc bù đắp thiệt hại.
Để có thể dự kiến tơng đối chính xác phí bảo hiểm đòi hỏi DNBH phải
thực hiện tốt việc thống kê rủi ro, tổn thất trong mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm.
Tuy nhiên, dự kiến bằng thống kê chỉ cho kết quả mang tính gần đúng, trên
thực tế vẫn có thể xảy ra trờng hợp tổn thất xảy ra vợt quá dự kiến. Để khắc
phục sự chênh lệch, DNBH phải thực hiện việc phân chia rủi ro bằng kỹ thuật
tái bảo hiểm. Kỹ thuật này cho phép DNBH chuyển nhợng một phần rủi ro đã
chấp nhận cho những DNBH khác, qua đó ổn định tình hình tài chính trớc các
tổn thất lớn, tổn thất xảy ra không nh dự kiến. Cơ chế tái bảo hiểm cũng là

việc thu phí và bồi thờng khi xảy ra rủi ro.
Từ đặc thù kỹ thuật đó, nguyên tắc chung của bảo hiểm đợc tóm tắt
nh sau:
Để bảo đảm chống lại những rủi ro xác định, một số lớn NĐBH cùng
tham gia một hội tơng hỗ do một tổ chức bảo hiểm thành lập. Mỗi ngời trong


8

số họ đóng góp một khoản phí bảo hiểm hoặc một khoản đóng góp cho tổ
chức bảo hiểm. Tổ chức này sẽ thực hiện bù trừ rủi ro giữa những NĐBH thể
hiện bằng việc bồi thờng những thiệt hại hoặc chi trả tiền cho những NĐBH gặp
rủi ro.
1.1.2. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm
Các sản phẩm mà DNBH cung cấp cho NTGBH có thể đợc sắp xếp theo
nhiều cách khác nhau tùy theo mục đích của các nhà lập pháp và DNBH. Tuy
nhiên liên quan đến những vấn đề tài chính sẽ đợc nghiên cứu trong luận án, thì
chỉ có hai cách phân loại thật sự có ý nghĩa. Đó là phân chia nghiệp vụ bảo hiểm
theo đối tợng bảo hiểm và phân chia nghiệp vụ theo kỹ thuật quản lý tài chính.
1.1.2.1. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm theo đối tợng bảo hiểm
Tồn tại hai loại nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu có đối tợng bảo hiểm
khác nhau và cùng tuân theo nguyên tắc chung của bảo hiểm là bảo hiểm thiệt
hại và bảo hiểm con ngời.
(1) Bảo hiểm thiệt hại: là nghiệp vụ bảo hiểm có mục đích bồi thờng
cho những NĐBH những hậu quả của một biến cố ngẫu nhiên làm thiệt hại gia
sản của họ. Bảo hiểm thiệt hại bao gồm: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách
nhiệm dân sự (TNDS).
- Bảo hiểm tài sản là những loại bảo hiểm có mục đích bồi thờng
những thiệt hại trực tiếp xảy ra đối với tài sản của ngời đợc bảo hiểm.
- Bảo hiểm TNDS là những loại bảo hiểm trong đó DNBH chịu trách

nhiệm về những hậu quả mang tính thiệt hại của những khiếu nại chống lại
NĐBH đợc thực hiện bởi những ngời thứ ba. Nói cách khác đó là việc chi trả
cho những TNDS của NĐBH. TNDS có thể nảy sinh từ hành vi gây thiệt hại
ngoài hợp đồng hoặc từ sự vi phạm các cam kết của NĐBH.
(2) Bảo hiểm con ngời: là nghiệp vụ bảo hiểm không nhằm mục đích
trực tiếp bù đắp thiệt hại nh các bảo hiểm thiệt hại. Hợp đồng bảo hiểm con


9

ngời không phải là các hợp đồng bồi thờng thiệt hại, mà ở đây sự bảo đảm của
DNBH là một cam kết trả cho NĐBH một số tiền bảo hiểm hoặc các khoản trợ
cấp nếu xảy ra các sự kiện đã qui định trên hợp đồng bảo hiểm.
Bảo hiểm con ngời bao gồm: bảo hiểm tai nạn cá nhân, bảo hiểm sức
khỏe và bảo hiểm nhân thọ.
- Bảo hiểm tai nạn cá nhân là loại hợp đồng bảo hiểm có mục đích trả
cho NĐBH một số tiền bảo hiểm hoặc một khoản tiền trợ cấp trong trờng hợp
NĐBH gặp tai nạn bất ngờ tác động đến thân thể hoặc tính mạng.
- Bảo hiểm sức khỏe là những loại bảo hiểm có mục đích chi trả trợ
cấp cho NĐBH trong trờng hợp NĐBH bị bệnh tật.
- Bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng phòng xa mang tính tiết kiệm, trong
đó để đổi lấy phí bảo hiểm, DNBH cam kết trả cho ngời thụ hởng bảo hiểm
một số tiền bảo hiểm hoặc một khoản niên kim (tạm thời hoặc trọn đời), trong
trờng hợp NĐBH bị tử vong hoặc sống đến ngày đáo hạn hợp đồng, hoặc đến
một tuổi qui định.
Bảo hiểm nhân thọ bao gồm ba nhóm hợp đồng chính: bảo hiểm nhân
thọ trong trờng hợp sống, bảo hiểm nhân thọ trong trờng hợp tử vong và bảo
hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Bảo hiểm nhân thọ trong trờng hợp sống là hợp đồng có mục đích trả
cho NĐBH một số tiền bảo hiểm vào ngày đáo hạn hợp đồng (bảo hiểm sinh

kỳ) hoặc thanh toán trợ cấp định kỳ khi NĐBH sống đến tuổi qui định (bảo
hiểm niên kim nhân thọ).
Bảo hiểm nhân thọ trong trờng hợp tử vong là hợp đồng bảo hiểm có
mục đích trả số tiền bảo hiểm khi NĐBH chết trớc thời điểm kết thúc hợp đồng
(bảo hiểm tử kỳ) hoặc chết vào bất kỳ thời điểm nào (bảo hiểm trọn đời).
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là hợp đồng kết hợp của hai loại bảo hiểm
sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ, trong đó DNBH cam kết trả số tiền bảo hiểm tử


10

vong nếu NĐBH chết trớc ngày đáo hạn hợp đồng, hoặc trả số tiền bảo hiểm
nếu NĐBH sống đến thời điểm đáo hạn hợp đồng.
Ngoài các loại bảo hiểm nhân thọ, ở một số nớc châu Âu còn tồn tại
những nghiệp vụ của công ty đầu t vốn có đặc tính tiết kiệm tơng tự bảo hiểm
nhân thọ. Đó là các nghiệp vụ tồn tích vốn, chúng đợc coi nh các nghiệp vụ bảo
hiểm và đợc điều chỉnh bởi pháp luật về bảo hiểm. Cơ chế của nghiệp vụ này là
một công ty đầu t vốn (company of capitalisation) cam kết trả cho ngời tham gia
hoặc ngời thụ hởng một số tiền ấn định vào kỳ hạn đã thỏa thuận (có thể là 20
hoặc 25 năm sau). Các công ty này cũng bảo đảm cho những ngời tham gia một
lãi suất đầu t đợc ấn định trớc. Những nghiệp vụ tồn tích vốn này khác biệt với
bảo hiểm nhân thọ là ở chỗ chúng không cho phép ngời ký kết chống lại các rủi
ro không may xảy ra đối với NĐBH.
Mặc dù đây là nghiệp vụ khá phát triển ở một vài nớc châu Âu lục địa,
nhng ít đợc biết đến ở các nớc Ănglô - Xắc xông cũng nh cha từng xuất hiện ở
Việt Nam.
Ngoài ra, theo Luật kinh doanh bảo hiểm đợc Quốc hội Việt Nam
thông qua ngày 22/12/1999 (Điều 7, Khoản 1.2), các nghiệp vụ bảo hiểm còn
đợc phân chia thành: bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm
phi nhân thọ là toàn bộ các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại và các nghiệp vụ bảo

hiểm con ngời khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Những nghiệp vụ bảo
hiểm này có kỹ thuật quản lý khác nhau.
1.1.2.2. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm theo kỹ thuật quản lý
Có sự phân chia nghiệp vụ bảo hiểm hữu hiệu khác là phân biệt giữa
bảo hiểm đợc quản lý theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm đợc quản lý theo kỹ
thuật tồn tích.
(1) Các nghiệp vụ bảo hiểm đợc quản lý theo kỹ thuật phân chia
Kỹ thuật phân chia đợc hiểu là DNBH thu phí bảo hiểm cho một niên
độ và sử dụng vào việc bồi thờng cho những thiệt hại xảy ra trong niên độ, phí


11

bảo hiểm không đa vào tích lũy để trả lại cho NĐBH vào thời điểm kết thúc
hợp đồng. Trong trờng hợp hợp đồng bảo hiểm cha kết thúc hiệu lực vào cuối
năm tài chính, thì DNBH sẽ phải phân bổ một phần phí bảo hiểm tơng ứng với
thời gian hiệu lực còn lại vào dự trữ cho năm tài chính sau để bồi thờng cho
nhng rủi ro có thể xảy ra. Đây chính là cơ sở quan trọng của việc hình thành
các khoản dự phòng kỹ thuật sẽ đợc nghiên cứu ở phần sau.
Kỹ thuật phân chia đợc áp dụng cho các hợp đồng ngắn hạn, rủi ro ổn
định trong suốt thời hạn của hợp đồng bảo hiểm. Nh vậy các nghiệp vụ đợc
quản lý theo kỹ thuật phân chia sẽ bao gồm các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại
và các nghiệp vụ bảo hiểm con ngời phi nhân thọ.
(2) Các nghiệp vụ bảo hiểm đợc quản lý theo kỹ thuật tồn tích
Kỹ thuật tồn tích là kỹ thuật quản lý đặc thù của bảo hiểm nhân thọnhững nghiệp vụ bảo hiểm dài hạn. Kỹ thuật này dựa trên việc tích lũy các
khoản phí tiết kiệm (một phần phí bảo hiểm) đợc xác định bằng phơng pháp
toán học để nhằm thực hiện các cam kết của DNBH đối với NĐBH trong suốt
thời gian hiệu lực của hợp đồng. Những khoản dự trữ phí bảo hiểm đợc tạo ra sẽ
đợc DNBH đầu t trên thị trờng vốn và các khoản lãi thu đợc tích lũy để tiếp tục
đầu t sinh lời. DNBH sẽ thanh toán khoản tiết kiệm dới hình thức số tiền bảo

hiểm hoặc các khoản trợ cấp định kỳ cho NĐBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
hoặc khi NĐBH sống đến một thời điểm quy định.
Với kỹ thuật tồn tích vốn, các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ đã tạo ra
sự tích tụ các nguồn vốn to lớn để tài trợ cho nền kinh tế. Hoạt động đầu t vốn
của DNBH nhằm mục đích trực tiếp là đảm bảo việc thực hiện các cam kết
của DNBH. Khả năng đầu t chỉ có thể tăng lên khi số lợng ngời tham gia bảo
hiểm tăng và sẽ có hiệu ứng ngợc lại nếu số lợng ngời tham gia bảo hiểm giảm
đi.
Nghiên cứu sự phân chia các nghiệp vụ bảo hiểm có ý nghĩa quan
trọng cho phép chúng ta đi vào nghiên cứu sự hình thành và sử dụng các quỹ
dự phòng - nguồn vốn nhàn rỗi cơ bản trong từng loại bảo hiểm của DNBH.


12

1.2. Sự hình thành nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh
nghiệp bảo hiểm

1.2.1. Hợp đồng bảo hiểm và việc tạo ra nguồn vốn nhàn rỗi
1.2.1.1. Bản chất và các loại hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là một sự thỏa thuận bằng văn bản giữa ngời mua
bảo hiểm (ngời tham gia bảo hiểm) và ngời bảo hiểm (doanh nghiệp bảo
hiểm). Đặc trng cơ bản của hợp đồng bảo hiểm là tính chất song vụ và may
rủi. Tức là theo hợp đồng thì nghĩa vụ của ngời mua bảo hiểm và ngời bảo
hiểm là tơng đơng. Ngời mua bảo hiểm sẽ phải đóng phí bảo hiểm hoặc một
khoản đóng góp cho ngời bảo hiểm, còn ngời bảo hiểm có nghĩa vụ bồi thờng
hoặc chi trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm đã đợc qui định trớc trên hợp đồng. Tính chất may rủi thể hiện ở chỗ hợp đồng bảo hiểm chỉ đợc
thiết lập để bảo hiểm cho những sự kiện không chắc chắn, DNBH có thể sẽ
phải chi trả tiền nếu rủi ro xảy ra, cũng có thể không phải chi trả tiền nếu rủi
ro không xảy ra. Đặc trng quan trọng này của hợp đồng bảo hiểm đã làm cho

thời điểm thực hiện nghĩa vụ của các bên không đồng thời xảy ra. Ngời mua
bảo hiểm khi hợp đồng đợc ký kết sẽ phải đóng ngay khoản phí bảo hiểm, còn
ngời bảo hiểm chỉ thực hiện việc chi trả tiền khi nào rủi ro xuất hiện. Chu
trình tài chính của bảo hiểm là DNBH thu tiền trớc chi trả sau, và đợc gọi là
chu trình sản xuất nghịch đảo.
Hợp đồng bảo hiểm gồm có ba loại chính là hợp đồng bảo hiểm tài
sản, hợp đồng bảo hiểm TNDS và hợp đồng bảo hiểm con ngời. Theo thời hạn
của hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm đợc chia làm hai loại: hợp đồng ngắn hạn
và hợp đồng dài hạn. Các hợp đồng bảo hiểm tài sản, bảo hiểm TNDS, bảo
hiểm con ngời phi nhân thọ là loại hợp đồng ngắn hạn, còn hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ là hợp đồng dài hạn. Thời hạn của hợp đồng bảo hiểm chi phối
nguyên tắc xác định nguồn vốn nhàn rỗi của mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm.


13

1.2.1.2. Hợp đồng bảo hiểm: nguồn gốc của vốn nhàn rỗi trong các
doanh nghiệp bảo hiểm
Khi một hợp đồng bảo hiểm đợc ký kết sẽ tạo ra nguồn phí bảo hiểm
cho DNBH. Mục đích chính của các khoản phí bảo hiểm là nhằm thực hiện
nghĩa vụ bồi thờng và chi trả tiền bảo hiểm cho NĐBH chứ không phải là để
đầu t thu lợi nhuận (trừ các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm).
Nhng do đặc thù của chu trình sản xuất nghịch đảo đã tạo ra tính chất nhàn
rỗi của nguồn thu này.
Nhiều nghiên cứu kinh tế về bảo hiểm trên thế giới chỉ tập trung vào
việc tạo ra nguồn tiết kiệm từ các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và các hoạt
động đầu t tài chính của các DNBH nhân thọ. Điều này đợc giải thích trớc hết
là do đặc tính cơ bản của phí bảo hiểm nhân thọ là khoản tiền tiết kiệm.
Bảo hiểm nhân thọ nh đã phân tích ở trên, là những hợp đồng bảo hiểm
không chỉ nhằm mục đích chống lại các sự cố không may, mà còn là một hợp

đồng tiết kiệm. DNBH thu phí bảo hiểm rồi tiến hành đầu t chúng và thực hiện
việc chi trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm hoặc khi đến kỳ hạn chi
trả tiền tiết kiệm đã đợc thỏa thuận. Nh vậy nếu không xảy ra sự cố đối với
NĐBH thì khoản tiền mà DNBH trả cho họ chính là khoản tiền gửi, còn nếu xảy
ra sự cố thì các khoản tiền mà DNBH chi trả chính là khoản tiền bảo hiểm.
Nói cách khác trong sự vận hành của bảo hiểm nhân thọ, cam kết bảo đảm của
DNBH luôn luôn bao hàm hai nghiệp vụ: bảo hiểm và đầu t tài chính. Điều
này còn có thể thấy qua việc xem xét cấu trúc của phí bảo hiểm nhân thọ. Phí
bảo hiểm nhân thọ đợc xác định dựa trên hai yếu tố: xác suất tuổi thọ và đầu t.
Mối tơng quan giữa hai yếu tố này đợc thể hiện qua công thức (1.A).
Phí bảo
hiểm nhân
thọ

=

Số tiền
bảo
hiểm

x

Xác suất
tuổi thọ

x

Chiết khấu
tài chính


(1. A)


14

Đây mới chỉ là khoản phí thuần để đảm bảo chi trả cho các cam kết.
Khi xác định khoản phí toàn bộ DNBH sẽ phải thêm vào một khoản phí hoạt
động để đảm bảo chi phí cho việc ký kết hợp đồng quản lý hợp đồng và thu
phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm thu đợc hàng năm đợc chia thành hai phần:
- Phí rủi ro dành để bảo đảm cho các khoản chi trả bảo hiểm hàng năm.
- Phí tiết kiệm dành để đa vào dự trữ và đầu t tài chính và đợc trả lại
cho ngời đợc bảo hiểm cả vốn lẫn lãi theo lãi suất kỹ thuật của DNBH.
Với đặc trng của phí bảo hiểm, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thực
hiện một chức năng tích tụ tài chính. Nhờ đó mà các DNBH nhân thọ trở
thành một trong những tổ chức thu hút tiết kiệm quan trọng và cạnh tranh
mạnh với các trung gian tài chính khác trong nền kinh tế. Mặt khác do tính
chất của hợp đồng tiết kiệm dài hạn, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã thực
hiện việc tạo ra nguồn vốn dài hạn cho DNBH.
Với sự phát triển rất mạnh của các loại bảo hiểm phi nhân thọ, chúng
ta cũng cần đánh giá đúng sự tạo nguồn vốn đầu t từ các hợp đồng bảo hiểm
theo kỹ thuật phân chia. Mặc dù, đối với các DNBH phi nhân thọ, phí bảo
hiểm thu đợc không có mục đích tập trung các nguồn tiết kiệm mà sẽ đợc sử
dụng toàn bộ để chi trả cho các khiếu nại bồi thờng trong năm tài chính. Nhng
do thời hạn của hợp đồng bảo hiểm không trùng với năm tài chính, nên DNBH
phải dự trữ một khoản phí lớn dành để thiết lập các dự phòng kỹ thuật bảo
đảm cho việc thực hiện cam kết trong tơng lai. Các quỹ dự phòng này tạo ra
một khoản ngân quĩ đầu t quan trọng cho DNBH phi nhân thọ.
Nh vậy, có thể đi đến kết luận: quá trình hình thành nguồn vốn nhàn
rỗi của các DNBH đợc thực hiện thông qua việc ký kết các hợp đồng bảo

hiểm. Việc tạo ra nguồn vốn này đợc thực hiện thông qua tất cả các loại hợp
đồng bảo hiểm và là hoạt động của toàn bộ các doanh nghiệp bảo hiểm chứ
không chỉ riêng các DNBH nhân thọ.


15

Sự khác biệt cơ bản của các DNBH với các tổ chức trung gian tài chính
khác cũng chính là hình thức huy động tiết kiệm của chúng. Nếu nh các tổ
chức tín dụng huy động tiết kiệm thông qua hình thức nhận tiền gửi của những
ngời gửi tiền và không có một sự cam kết đối xứng qua lại giữa ngời gửi tiền
và ngời nhận tiền gửi, thì việc nhận tiền phí bảo hiểm của các DNBH phải thông
qua cam kết qua lại giữa NĐBH và DNBH. Chính vì vậy nếu nhìn nhận trên
phơng diện huy động vốn thì các DNBH còn đợc gọi là các tổ chức tiết kiệm
theo hợp đồng [37, tr. 80].
1.2.2. Quỹ dự phòng kỹ thuật: nguồn vốn nhàn rỗi cơ bản của doanh
nghiệp bảo hiểm
Chu trình sản xuất nghịch đảo của dịch vụ bảo hiểm dẫn đến việc các
DNBH phải dự trữ các khoản phí bảo hiểm thu đợc từ các hợp đồng bảo hiểm
để bảo đảm thực hiện các cam kết trong tơng lai với NĐBH. Khoản dự trữ phí
bảo hiểm này đợc tồn tại dới dạng các quỹ dự phòng kỹ thuật. Cũng nh phí
bảo hiểm, mục đích chính của các khoản dự phòng kỹ thuật là để thực hiện
các cam kết bồi thờng và chi trả tiền bảo hiểm của DNBH. Nhng tính chất vận
hành đặc thù của các hợp đồng bảo hiểm đã tạo ra sự nhàn rỗi cho các khoản
dự trữ này. Chúng trở thành nguồn vốn nhàn rỗi quan trọng nhất và có qui mô
lớn nhất trong DNBH.
Trên bảng cân đối kế toán của DNBH, các quĩ dự phòng kỹ thuật đợc
thể hiện là những khoản nợ bên nguồn vốn của doanh nghiệp. Đây sẽ là những
nội dung nghiên cứu quan trọng của phần này.
1.2.2.1. Thiết lập quĩ dự phòng kỹ thuật: sự bắt buộc đối với doanh

nghiệp bảo hiểm
Sự sai biệt về thời điểm thu phí bảo hiểm và thời điểm chi trả khiếu nại
bắt buộc các DNBH phải luôn luôn duy trì các khoản phí bảo hiểm dự trữ để


16

thực hiện các nghĩa vụ của mình với khách hàng. Tính chất bắt buộc của việc
thiết lập các khoản dự phòng kỹ thuật đợc bắt nguồn từ hai phơng diện: kỹ
thuật nghiệp vụ bảo hiểm và luật pháp.
(1) Từ phơng diện kỹ thuật nghiệp vụ bảo hiểm
Do thu tiền trớc khi bồi thờng và chi trả tiền nên DNBH phải luôn duy
trì khoản dự phòng để thực hiện các cam kết với NTGBH vào bất cứ thời điểm
nào. Hàng năm khi kết thúc năm tài chính, từ các hợp đồng mà DNBH đã ký kết
có thể xảy ra những sự kiện không thể biết trớc một cách chính xác nh:
- Xảy ra rủi ro từ các hợp đồng mà thời hạn hiệu lực cha kết thúc vào
ngày cuối năm tài chính.
- Các vụ tổn thất đã xảy ra từ các hợp đồng thuộc năm tài chính hiện
hành và năm tài chính trớc nhng cha đợc các DNBH chi trả.
Trong cả hai trờng hợp này đòi hỏi DNBH phải duy trì một khoản dự
phòng đợc trích từ khoản phí bảo hiểm đã thu trong năm.
Ngoài ra, trong quá trình kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm các DNBH
còn phải trích lập các dự phòng nảy sinh từ quy trình kỹ thuật nghiệp vụ bảo
hiểm. Đó là các khoản tiền mà DNBH đã cam kết phải trả cho NĐBH, khoản
tiền cho phép DNBH có thể đối mặt với những đột biến trong kinh doanh. Các
khoản dự phòng này đặc trng trong từng lĩnh vực bảo hiểm, chúng ta sẽ nghiên
cứu chi tiết hơn ở phần sau.
(2) Từ phơng diện luật pháp
Luật pháp của các quốc gia đều có xu hớng tìm cách bảo vệ tối đa
quyền lợi của những NĐBH trớc DNBH. Bởi vậy Nhà nớc thiết lập sự kiểm tra

chặt chẽ khả năng thanh toán của DNBH, tránh việc DNBH thu phí mà không
thực hiện cam kết vào thời điểm cần thiết đối với NĐBH. ở các nớc, luật pháp
bắt buộc DNBH phải luôn luôn dự trữ đầy đủ khoản phí bảo hiểm thu đợc để
có khả năng thực hiện đợc các cam kết của mình. Phần phí giữ lại đợc sử dụng


17

để bồi thờng cho những tổn thất xảy ra thuộc phạm vi của hợp đồng bảo hiểm
đã ký kết. Nói cách khác, DNBH phải thể hiện đợc khả năng thanh toán của
mình trớc luật pháp. ở nớc ta, Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 22/12/2000
cũng qui định rõ tại Điều 77, Khoản 2: "Doanh nghiệp bảo hiểm đợc coi là đủ
khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ..." [36, tr. 52].
Nh vậy, vì mục đích bồi thờng vào bất kỳ thời điểm nào cho những tổn
thất cha xảy ra khi hợp đồng đang có hiệu lực, DNBH bắt buộc phải lập các quĩ
dự phòng kỹ thuật. Trích lập các quĩ dự phòng kỹ thuật không chỉ là yêu cầu của
kỹ thuật nghiệp vụ bảo hiểm, mà còn là sự bắt buộc của pháp luật. Các quĩ dự
phòng kỹ thuật luôn là đối tợng kiểm tra, giám sát của Nhà nớc đối với
DNBH. Kiểm tra việc trích lập đúng, đủ dự phòng kỹ thuật sẽ cho thấy DNBH
có tôn trọng các cam kết với NĐBH hay không. Giám sát chặt chẽ quá trình
lập và sử dụng các quĩ dự phòng kỹ thuật là một biện pháp hữu hiệu nhằm bảo
vệ quyền lợi của NĐBH. Đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy DNBH tập trung
nguồn vốn đầu t tham gia đầu t tài chính tài trợ cho nền kinh tế.
1.2.2.2. Các loại dự phòng kỹ thuật
Khi tiến hành các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ, DNBH sẽ phải thiết lập dự phòng kỹ thuật theo kỹ thuật phân chia và tồn
tích vốn. Luật pháp của các nớc bắt buộc các DNBH phải trích lập dự phòng
kỹ thuật riêng biệt cho từng loại nghiệp vụ bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo
hiểm Việt Nam ngày 22/12/2000, Điều 96, Khoản 2 cũng qui định rõ: "Dự
phòng nghiệp vụ phải đợc trích lập riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phải

tơng ứng với phần trách nhiệm của DNBH..." [36, tr. 62]. Mặc dù phải trích
lập riêng cho từng loại nghiệp vụ bảo hiểm, nhng trong từng nhóm nghiệp vụ
bảo hiểm có cùng kỹ thuật quản lý, các dự phòng kỹ thuật có mục đích và
nguyên tắc trích tơng tự nhau. Những nghiên cứu ở đây chỉ phân biệt dự
phòng trong bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.
(1) Dự phòng kỹ thuật trong nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ


18

Tất cả nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ đều đợc quản lý bằng kỹ thuật
phân chia. Theo đó việc trích lập các dự phòng kỹ thuật của các nghiệp vụ bảo
hiểm này dựa trên cùng một nguyên tắc.
DNBH phải thiết lập các quĩ dự phòng kỹ thuật cho các nghiệp vụ bảo
hiểm phi nhân thọ vào cuối năm tài chính - thời điểm khóa sổ kế toán để tính
toán kết quả kinh doanh. Xuất phát từ sự đa dạng của các nghiệp vụ bảo hiểm
phi nhân thọ và đặc trng rủi ro, tổn thất trong các nghiệp vụ này, DNBH có thể
phải thiết lập nhiều loại dự phòng kỹ thuật. Những dự phòng chủ yếu là dự
phòng phí, dự phòng bồi thờng và dự phòng dao động lớn.
(a) Dự phòng phí
Dự phòng này còn đợc gọi là dự phòng rủi ro cha phát sinh hoặc dự
phòng phí cha đợc hởng, là khoản dự phòng nhằm bảo đảm thanh toán cho
những rủi ro và các chi phí liên quan dự kiến có thể xảy ra trong khoảng thời
gian từ ngày kết thúc năm tài chính đến ngày kết thúc thời hạn của các hợp
đồng bảo hiểm.
- Cơ sở thiết lập của dự phòng phí:
Sự sai lệch giữa năm tài chính và thời gian hiệu lực của hợp đồng bảo
hiểm là cơ sở cho việc thiết lập quĩ dự phòng phí bảo hiểm.
Thật vậy, các DNBH bắt buộc phải khóa sổ kế toán vào ngày 31/12 để
xác định kết quả kinh doanh. Nhng các hợp đồng bảo hiểm đợc ký kết ở mọi

thời điểm trong năm. ở thời điểm 31/12 sẽ có nhiều hợp đồng bảo hiểm mà
hiệu lực kéo dài sang năm tài chính sau. Nh vậy, DNBH không thể coi toàn bộ
các khoản phí bảo hiểm thu đợc thuộc thu nhập của năm tài chính hiện tại. Vì
các nghiệp vụ đợc quản lý theo kỹ thuật phân chia, tức là phí bảo hiểm đợc
phân chia đều cho toàn bộ thời hạn hợp đồng, nên DNBH phải trích lại một
phần phí bảo hiểm tơng ứng với thời gian hiệu lực còn lại của các hợp đồng
bảo hiểm để đảm bảo chi trả cho những rủi ro và chi phí liên quan có thể phát
sinh từ những hợp đồng này.


19

Cơ sở của dự phòng phí đợc chứng minh qua một ví dụ sau:
Một hợp đồng có thời hạn một năm, đợc ký vào ngày 1/4/1996, phí
bảo hiểm nộp là 1.200.000đ, thời điểm kết thúc hiệu lực của hợp đồng là 1/4/1997.
Năm tài chính
1/1/96

31/12/96

1/4/96

1/4/97

Thời hạn của hợp
đồng BH

Hợp đồng này có 3 tháng hiệu lực đợc kéo sang năm 1997. Nh vậy phí
bảo hiểm đợc phân chia:
Năm 1996: 1200.000đ x 9/12 = 900.000đ

Năm 1997: 1200.000đ x 3/12 = 300.000đ
DNBH phải dự phòng 300.000đ vào ngày 31/12/96 để đảm bảo chi trả
cho những rủi ro có thể xảy ra từ 1/1/1997 đến 1/4/1997. Khoản tiền 300.000đ
là dự phòng cho rủi ro cha xảy ra, coi nh khoản phí trả trớc. Nếu hợp đồng bảo
hiểm đợc hủy bỏ vào ngày 31/12/96, DNBH phải hoàn trả cho NĐBH số phí
trả trớc này.
- Lợi ích của quĩ dự phòng phí
Dự phòng phí mang lại sự an toàn cho NĐBH, vì với quĩ dự phòng này
DNBH có đủ phơng tiện tài chính để thực hiện cam kết của mình vào bất kỳ
thời điểm nào, có nghĩa là DNBH có khả năng thanh toán những khoản nợ
không chắc chắn trong tơng lai.
Giả thiết rằng, DNBH không để lại một phần phí bảo hiểm mà sử dụng
toàn bộ phí bảo hiểm để xác định thu nhập. Lợi nhuận của DNBH tăng lên, số
thuế mà DNBH phải nộp cũng tăng lên, ở DNBH cổ phần, chia lãi cổ phần


20

nhiều hơn. Khi rủi ro xảy ra, DNBH bắt buộc phải sử dụng các khoản phí thu
đợc từ hợp đồng mới đợc ký kết để thanh toán cho NĐBH, nói cách khác là
DNBH đã thực hiện một cách trả nợ "nợ mới trả nợ cũ". Đây là nguy cơ dẫn
đến phá sản doanh nghiệp và đe dọa sự an toàn của NĐBH.
- Nguyên tắc thiết lập quĩ dự phòng phí:
Dự phòng phí đợc thiết lập dựa trên doanh thu phí bảo hiểm của năm
tài chính và tuân theo những nguyên tắc sau:
+ Phí bảo hiểm sử dụng để trích lập dự phòng phí là phí kiểm kê.
Phí kiểm kê = Phí thơng mại - Các chi phí ký kết hợp đồng.
Sở dĩ phải trừ đi các chi phí ký kết hợp đồng là vì sau khi thu phí bảo
hiểm, DNBH phải trả các chi phí ký kết hợp đồng cho các trung gian bảo hiểm
(môi giới, đại lý và cộng tác viên bảo hiểm). DNBH chỉ quản lý phần phí còn

lại gọi là phí kiểm kê để đảm bảo chi trả cho cam kết và trang trải các chi phí
quản lý.
+ DNBH là ngời duy nhất chịu trách nhiệm về toàn bộ các rủi ro của
ngời đợc bảo hiểm.
Dự phòng phí không tính đến phần trách nhiệm bồi thờng của doanh
nghiệp nhận tái bảo hiểm. Nói cách khác, dự phòng phí phải đợc thiết lập trên cơ
sở phân chia phí bảo hiểm gốc chứ không phải là trên phí giữ lại của DNBH.
Để đảm bảo thực hiện cam kết tái bảo hiểm, doanh nghiệp nhận tái
bảo hiểm phải thiết lập dự phòng phí bảo hiểm. Dự phòng này không làm
giảm dự phòng phí của doanh nghiệp nhợng tái bảo hiểm. Tuy nhiên doanh
nghiệp nhận tái bảo hiểm đợc coi là nợ DNBH gốc phần dự phòng phí
mà doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm đã thiết lập. Các dự phòng phí của DNBH
và doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm đợc thể hiện trên bảng cân đối kế toán nh
sau:


21

(*) Tại doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm:
Tài sản

Nguồn vốn

Tài sản

1. Nguồn vốn chủ sở hữu
2. Dự phòng phí

(*) Tại doanh nghiệp bảo hiểm gốc:
Tài sản


Nguồn vốn

1. Tài sản cố định

1. Nguồn vốn chủ sở hữu

2. Tài sản lu động

2. Dự phòng phí cho các hợp đồng
bảo hiểm gốc

- Các khoản phải thu:
+ Dự phòng phí mà doanh nghiệp
nhận tái thiết lập

Nh vậy trên bảng cân đối kế toán của DNBH, dự phòng phí do doanh
nghiệp nhận tái bảo hiểm thiết lập đợc phản ánh là một loại tài sản - khoản
phải thu của DNBH.
+ Việc tính toán dự phòng phí phải tuân theo kỹ thuật phân chia tức là
phải tính theo "tỉ lệ thời gian" của từng hợp đồng bảo hiểm.
Tuy nhiên nếu tính theo nguyên tắc "tỉ lệ thời gian" cho từng hợp đồng
bảo hiểm thì đối với các DNBH, nhất là các DNBH nhỏ sẽ là một công việc hết
sức phức tạp, đòi hỏi trình độ quản lý của DNBH phải ở mức độ cao. Chính vì
thế luật pháp các nớc đa ra các phơng pháp đơn giản hóa cho phép các DNBH
tính toán các dự phòng một cách dễ dàng.
+ Thời điểm trích dự phòng phí là 31/12 hàng năm - ngày khóa sổ kế
toán niên độ để xác định kết quả kinh doanh của DNBH.
Vì là khoản phí nộp trớc cho các hợp đồng có hiệu lực kéo dài sang
năm tài chính sau, nên dự phòng phí phải đợc coi là khoản thu nhập đợc "treo

lại" và nó làm giảm doanh thu phí của niên độ kế toán hiện hành. Sang niên


22

độ sau dự phòng phí lập cuối niên độ trớc là khoản thu nhập của niên độ và đợc cộng vào doanh thu cuối năm để xác định kết quả kinh doanh.
Dự phòng phí bảo hiểm ảnh hởng đến doanh thu của DNBH nh sau:
Doanh
thu và
thu nhập

Doanh thu
= phí bảo hiểm
trong niên độ

+

Dự phòng phí
bảo hiểm trích lập
cuối niên độ trớc

-

Dự phòng phí
bảo hiểm trích
lập cuối niên
độ

Nh vậy, dự phòng phí của các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trên
nguyên tắc sẽ có khoảng thời gian nhàn rỗi dài nhất là 1 năm.

Từ những phân tích về dự phòng phí có thể kết luận: dự phòng phí của
các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ là khoản phí bảo hiểm mà DNBH ớc tính
đợc để lại không đa vào thu nhập của năm tài chính, nhằm bảo đảm cho DNBH
thực hiện các cam kết với NĐBH từ những hợp đồng bảo hiểm cha kết thúc
hiệu lực đến thời điểm cuối năm tài chính. Do những nguyên tắc kỹ thuật bảo
hiểm phi nhân thọ, dự phòng phí là loại dự phòng có thời gian tồn tại ngắn
hạn. Đây là một trong những dự phòng kỹ thuật quan trọng và có qui mô lớn
của các DNBH phi nhân thọ.
(b) Dự phòng bồi thờng
Khác với dự phòng phí nhằm bảo đảm cho các rủi ro cha xảy ra, dự
phòng bồi thờng đợc thiết lập nhằm bảo đảm cho DNBH thanh toán cho các
tổn thất đã xảy ra nhng DNBH cha đợc thông báo hoặc cha thực hiện trách
nhiệm bồi thờng vào thời điểm kết thúc năm tài chính.
- Cơ sở thiết lập quĩ dự phòng bồi thờng
Việc thiết lập quĩ dự phòng bồi thờng là xuất phát từ sự sai lệch về thời
điểm xảy ra tổn thất và thời điểm bồi thờng và từ tính không chắc chắn trong
việc khai báo tổn thất, phân chia trách nhiệm và mức độ thiệt hại.


23

Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm tổn thất xảy ra thuộc nhiều loại
khác nhau vào ngày kết thúc năm tài chính. Cụ thể có thể phân biệt ba dạng
tổn thất sau:
Dạng thứ nhất: Những tổn thất xảy ra đã đợc DNBH xác định bồi thờng, nhng cha đợc thanh toán vào ngày khóa sổ niên độ. Đây là khoản nợ chắc
chắn đã đợc tính toán mà DNBH sẽ phải trả cho NĐBH.
Dạng thứ hai: Những tổn thất xảy ra "phải giải quyết" đã đợc DNBH
biết đến, nhng số lợng cha đợc đánh giá chắc chắn. Số tiền bồi thờng cho
những tổn thất này là khoản nợ tồn tại chắc chắn nhng số lợng nợ không chắc
chắn.

Dạng thứ ba: Những tổn thất "có thể đã xảy ra" mà DNBH cha đợc
biết đến vào ngày khóa sổ niên độ, nhng vì bằng các số liệu thống kê DNBH
coi nh những tổn thất này đã xảy ra. Tổn thất dạng này sẽ tạo ra một khoản nợ
không chắc chắn về sự tồn tại và số lợng nợ của DNBH đối với NĐBH.
Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, tồn tại rất nhiều vụ tổn thất xảy
ra nhng cha đợc bồi thờng ngay trong năm tài chính. Thời gian giải quyết các
vụ tổn thất cũng có thể kéo rất dài qua nhiều năm. Điều này thờng xảy ra ở
các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự, những vụ tổn thất phức tạp kéo
theo sự kiện tụng.
Đặc thù về giải quyết bồi thờng tổn thất cho thấy quĩ dự phòng bồi thờng có ý nghĩa quan trọng đối với kết quả kinh doanh của DNBH. Nếu DNBH
không lập một quỹ dự phòng để đảm bảo cho những tổn thất phải bồi thờng và
toàn bộ phí bảo hiểm đợc tính vào thu nhập của năm tài chính sẽ có thể gây ra
sự mất cân bằng tài chính cho những năm sau do việc DNBH phải đối mặt với
những tổn thất của năm trớc.
- Nguyên tắc thiết lập dự phòng bồi thờng:


24

Đánh giá và thiết lập quĩ dự phòng bồi thờng phải tuân theo những
nguyên tắc sau:
+ Phí bảo hiểm thu trong năm tài chính phải đợc sử dụng để bồi thờng
những tổn thất xảy ra cùng năm tài chính đó ngay cả khi nó đợc thanh toán
muộn.
Đây chính là nguyên tắc của kỹ thuật quản lý phân chia đã đợc nghiên
cứu ở phần trên. Nếu DNBH không thực hiện nguyên tắc này sẽ dẫn đến sử
dụng phí bảo hiểm của năm tài chính hiện tại để bồi thờng cho tổn thất của
năm trớc. Tức là cũng ở vào tình trạng "nợ mới trả nợ cũ" - nguy cơ phá sản
của DNBH.
+ Dự phòng bồi thờng phải đợc tính toán theo từng loại tổn thất.

Bản chất của mỗi loại tổn thất là khác nhau. DNBH phải tách biệt tổn
thất của rủi ro bảo hiểm tài sản và rủi ro bảo hiểm TNDS, thiệt hại về vật chất
và thiệt hại về con ngời để đánh giá dự phòng bồi thờng.
+ Dự phòng bồi thờng đợc xác định không tính đến phần thu từ việc
khiếu nại - khoản tiền mà DNBH nếu sau khi bồi thờng, sẽ có thể đòi đợc từ
ngời thứ ba gây ra tổn thất (nguyên tắc thế quyền trong bảo hiểm thiệt hại).
Không tính đến phần thu từ khiếu nại là sự tuân thủ nguyên tắc thận
trọng trong kế toán: thu nhập chỉ đợc ghi nhận khi có những bằng chứng chắc
chắn. Nguyên tắc này cũng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho NĐBH.
+ Đánh giá dự phòng bồi thờng có thể sử dụng nhiều phơng pháp khác
nhau, nhng DNBH phải sử dụng phơng pháp cho kết quả cao nhất để hạch
toán chi phí kinh doanh.
Nguyên tắc này bảo đảm sự an toàn tối đa cho DNBH trớc các tổn thất
phải bồi thờng trong tơng lai.
(c) Dự phòng dao động lớn


25

Dự phòng này còn đợc gọi là dự phòng bồi thờng cho những dao động
lớn, dự phòng rủi ro theo chu kỳ. Đây là dự phòng để bảo đảm cho DNBH có
thể đối mặt một cách an toàn với những rủi ro lớn đột biến xuất hiện có thể theo
chu kỳ, hoặc có thể không theo chu kỳ nhng có mức độ thiệt hại rất lớn.
Tổn thất lớn xảy ra sẽ làm chi phí bồi thờng tăng đột biến và mang lại
kết quả xấu cho quá trình kinh doanh của DNBH. Nếu không có khoản dự trữ
để đảm bảo đối mặt với kết quả này, DNBH sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ hoặc
bị phá sản. Nh vậy dự phòng dao động lớn có vai trò giữ ổn định về tài chính
cho DNBH.
(d) Dự phòng toán học
Dự phòng toán học là loại dự phòng cơ bản của các nghiệp vụ bảo hiểm

nhân thọ. Nhng trong các DNBH thiệt hại có thể dự phòng này cũng vẫn phải
tồn tại. Trờng hợp DNBH phải thực hiện các cam kết trợ cấp định kỳ cho
những ngời bị tai nạn thì việc xác lập một dự phòng toán học nh trong bảo
hiểm niên kim nhân thọ là cần thiết để bảo đảm cho DNBH chi trả cho những
khoản trợ cấp trong tơng lai.
(2) Dự phòng kỹ thuật trong các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
Trong các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, các dự phòng kỹ thuật cơ bản
bao gồm:
- Dự phòng toán học
- Dự phòng cam kết chia lãi
- Dự phòng đầu t vốn
(a) Dự phòng toán học
Dự phòng toán học bao hàm tính chất của cả dự phòng phí và dự
phòng bồi thờng trong các DNBH nhân thọ.


×