Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tài liệu triết học dành cho sau đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN: TRIẾT HỌC
Đối tượng: Sau đại học






Nguồn Sưu Tầm
Tập thể lớp Cao học LTXS & TKTH K21
Tập thể lớp Cao học Toán giải tích K21
Nguyễn Hữu Cần (Toán Giải tích K21)
Mai Hoàn Hảo (Phương pháp dạy học môn Toán K21)

Tổng hợp và Trình bày: Nguyễn Hữu Cần
Liên hệ: – www.nhcan.WordPress.com

2016


Chú ý:
Để sử dụng tốt nguồn tài liệu này, bạn đọc nên mang theo các tài liệu sau vì có
những câu có sẵn trong tài liệu sau đây sẽ không soạn lại trong tài liệu này mà chỉ ghi số
trang rồi bạn đọc tự tra cứu.
1. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không
chuyên ngành Triết học) (2005) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Giáo trình Lịch sử Triết học (2005) của thầy Đinh Ngọc Quyên.
3. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin (2010) của thầy


Nguyễn Viết Thông.
Chia sẻ một số kinh nghiệm:
 Chuẩn bị đầy đủ tài liệu (giấy), mặc dù là đề mở nhưng học viên không được phép
mang laptop và điện thoại (đã có rất nhiều người chủ quan đề mở nên không mang tài
liệu mà chỉ mang laptop chứa file này – do tiết kiệm chi phí in ).
 Tranh thủ đọc hết tất cả các câu hỏi để khi đọc đề xong tìm nhanh hơn.
 Ghi nhanh và rõ nhất có thể (tôi dám chắc vừa tra cứu, vừa ghi thì bạn sẽ không kịp
giờ nếu chủ quan).
 Điều cuối cùng: Đây là tài liệu chỉ mang tính chất tham khảo. Khóa sau hãy bỏ chút
thời gian ra để bổ sung thêm vào tài liệu này được đầy đủ hơn.
Chúc mọi người đạt kết quả cao.
Nguyễn Hữu Cần

MỤC LỤC

Phần I: Thầy Quyên 3 câu .......................................................................................... 1
Câu 1: Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ
trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam. ...............................................................1
Câu 2: Phân tích quan điểm triết học Phật giáo về nhân sinh của phật giáo. Ý nghĩa
về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo............................................................................................3
Câu 3: Phân tích tư tưởng triết học Mạnh tử trong lịch sử triết học trung hoa cổ?......5
Câu 4: Nội dung quan điểm triết học duy vật của Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN) ...........6
Phần II: Thầy Triết 9 câu ........................................................................................... 8
Câu 1: Anh chị hãy phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và nêu ý nghĩa của quy luật? Trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn thì bản chất anh chị vận dụng ý nghĩa đó như thế nào? 8
Câu 2: Trình bày nội dung, ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập? .............................................................................................................................................10



Câu 3: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa của phương
pháp luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay? ............................................................................................. 12
Câu 4: Phân tích nội dung của nguyên tắc toàn diện. Cho biết trong thực tiển , anh
/chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ? .......................................................................... 14
Câu 5: Phân tích nội dung của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Cho biết trong thực tiễn,
anh /chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ? ................................................................. 14
Câu 6. Phân tích nội dung của nguyên tắc phát triển ............................................................. 18
Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức,
thực tiển , anh /chị đã vận dụng như thế nào ? (Chỉ ra cơ sở lý luận không phân tích
nội dung) .................................................................................................................................................. 19
Câu 8: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và
hoạt động thực tiển. ............................................................................................................................. 21
Câu 9: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm (toàn diện/ lịch sử cụ thể/ phát triển)
trong hoạt động nhận thức, thực tiển , anh /chị đã vận dụng như thế nào ? (Chỉ ra
cơ sở lý luận không phân tích nội dung)..................................................................................... 22
Phần III: Thầy Sơn 5 câu ......................................................................................... 24
Câu 1: Trình bày sự vận dụng lý thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. ................................................ 24
Câu 2: Nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì? . 25
Câu 3: Trình bày mối quan hệ giai cấp và dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đấu
tranh giai cấp với phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.27
Câu 4: So sánh sự giống và khác nhau giữa nhà nước pháp quyền Tư sản và nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa................................................................................................ 31
Câu 5: Trình bày vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
(bản chất, điều kiện lịch sử hình thành, mục tiêu, đặc trưng, xây dựng con người). 31
Phần IV: Sưu Tầm Các Đề Thi Khóa Trước .......................................................... 35
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học Phật giáo về thế giới
trong lịch sử triết học Ấn Độ Cổ - Trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt
Nam? .......................................................................................................................................................... 35

Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích điểm khác nhau giữa triết học siêu hình và triết học
duy vật biện chứng khi xem xét “nguyên tắc về sự phát triển”. ........................................ 35
Câu 3: Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ
giữa nhận định trên của Đảng và vấn đề đấu tranh giai cấp ở nước ta giai đoạn hiện
nay. ............................................................................................................................................................. 36
Câu 4: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học duy vật của Đê-mô-crít trong lịch
sử triết học Hy Lạp cổ đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên? ......................................... 36


Câu 5: Anh (chị) hãy phân tích cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể trong
phép biện chứng duy vật. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh
(chị) vận dụng quan điểm đó như thế nào? ................................................................................36
Câu 6: Trình bày bối cảnh lịch sử, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
giai đoạn hiện nay. Từ đó, hãy chỉ rõ mặt tích cực và mặt hạn chế của người Việt
Nam? ..........................................................................................................................................................38
Câu 7: Anh (chị) hãy phân tích nội dung tư tưởng triết học của Democrit (460 - 370
trcn). ...........................................................................................................................................................38
Câu 8: Anh (chị) phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về
sự phát triển.............................................................................................................................................38
Câu 9: Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta giai đoạn hiện nay....................................................................................................40
Câu 10: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng triết học của Mạnh Tử trong lịch sử triết
học Trung Hoa cổ, trung đại? Ý nghĩa triết học của vấn đề trên? Anh (chị) rút ra ý
nghĩa gì từ phân tích vấn đề trên? ..................................................................................................42
Phần V: Sưu Tầm Một Số Câu Hỏi Khác ............................................................... 43
Câu 1: Phân tích những điều kiện ra đời của triết học Mác và nêu những giai đoạn
chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác – Lenin. ........................ 43
Câu 2: Khái niệm thế giới quan, các hình thức thế giới quan, bản chất và những
nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng

chúng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?. ..................................................... 46
Câu 3: Trình bày lịch sử của phép biện chứng, những nội dung cơ bản của phép biện
chứng và sự vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay .......................................................................................... 48
Câu 5: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển? Vận
dụng quan điểm toàn diện và phát triển như thế nào trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay? ............................................................. 49
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa
của phương pháp luận cảu quy luật này trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn ở
nước ta hiện nay? ......................................................................................................... 50
Câu 7: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay? ...................................................... 52
Câu 8: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định? Ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc ở nước ta hiện nay? ......................................................................................... 53
Câu 9: Quan niệm của triết học Mác – Lênin về thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm này trong việc đổi
mới tư duy lý luận và nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta? ........ 54


Câu 10. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về lý luận và thực tiễn, quan hệ giữa lý
luận và thực tiễn? Đảng ta vận dụng quan hệ này vào việc đổi mới tư duy lý luận như
thế nào?........................................................................................................................ 54
Câu 11: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất? Luận chứng
cho thấy, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp? .................... 55
Câu 13 :Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ? Vận dụng quy luật này luận chứng tính tất yếu
của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước

ta hiện nay ? ................................................................................................................. 56
Câu 15: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng XH? Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải
cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay? ..................................................... 59
Câu 16: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng XH để phân tích vai trò của nhà nước đối với sự phát triển XH ở nước ta hiện
nay?1. Quan điểm Macxit về mối quan hệ biện chứng lý luận giữa CSHT và KTTT 61
Câu 17: Phân tích luận điểm của Mác: “Tôi coi sự phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc nhận thức
về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN hiện nay? ............................................. 62
Câu 18: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - XH của Mác. Phân tích tính tất yếu của
việc định hướng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ? ............ 63
Câu 19 : Phân tích nội dung những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam................................................................................. 64
Câu 20: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp,
dân tộc, nhân loại và sự vận dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng hiện nay? ............................................................................................................ 65
Câu 21: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về nguồn gốc và bản chất của nhà
nước? Bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN? những đặc trưng của nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay? .................................................................. 66
Câu 23: Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người và giải phóng con
người? Ý nghĩa của quan điểm này đối với việc phát triển con người trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay? ........................................................................................ 68
Phần VI: Đề Và Đáp Án Trong Một Số Kì Thi ...................................................... 70



Phần I: Thầy Quyên 3 câu
Câu 1: Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ
trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam.

* Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích Ca
Phật giáo là một trào lưu triết học xuất hiện vào thế kỉ VI – TCN. Người sáng lập Phật
giáo là thái tử Tất Đạt Đa, họ Gôtama. Phật sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 TCN, nhưng theo
truyền thống Phật lịch là ngày rằm tháng tư (15/4) gọi là ngày Phật Đản. Ông là con vua
Tịnh Phạn, trị vì một xứ nhỏ ở trung lưu song Hằng là Ca tỳ la vệ. Cuộc sống nơi cung đình
đã tạo cơ hội cho ông chăm lo việc học hành, lễ bái, yến tiệc và giải trí. Vì vậy, ông không
hay biết những gì đen tối, cực nhọc, nỗi bất hạnh diễn ra ngoài xã hội. Năm 17 tuổi, ông
cưới vợ và sinh được một người con trai đặt tên là La Hầu La. Sau bốn lần trực tiếp ra ngoài
thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của kiếp người, ông quyết noi theo các đạo sĩ tu theo
lối sống khổ hạnh.
Năm 29 tuổi, ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn sĩ. Sau 6 năm tu khổ hạnh, ông chợt
nhận thấy rằng, lối tu đó cũng không giải thoát con người khỏi nỗi đau sinh, lão, bệnh, tử.
Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như
nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm trí tuệ, cuối cùng ông đã phát hiện ra con đường “trung
đạo”, một con đường có thể dẫn con người đến sự giải thoát. Bằng lối tu đó, sau 49 ngày
chìm đắm trong những tư duy sâu thẳm, ông tuyên bố đã đạt đến chân lí, đã hiểu được bản
chất sự tồn tại của nhân sinh, Từ đó, ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni – tức người giác ngộ
chân lí đầu tiên có họ là Thích Ca. Ông bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa của mình, thu nạp đệ
tử, thành lập các tang đoàn Phật giáo. Vào năm 483 TCN, ông tạ thế.
Xét về mặt triết học, Phật giáo được coi là triết lí thăng trầm về vũ trụ và con người.
Với mục đích giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con
người. Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần
chúng lao động. Nó trở thành biểu tượng của lòng từ bi bát ái trong đạo đức truyền thống
của các dân tộc châu Á.
Kinh điển của Phật giáo rất đồ sộ, bao gồm 3 bộ phận gọi là Tam tạng kinh, đó là: Tạng
kinh (ghi lại những lời dạy của Phật Thích Ca, Tạng luật (những điều quy định mà giáo
đoàn Phật giáo phải tuân theo), Tạng luận (các tác phẩm luận giải về Phật giáo của các học
giả cao tăng về sau).
* Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của 3

phạm trù là: vô ngã, vô thường và duyên.
- Quan điểm “vô ngã” (không có cái “ta”, cái “tôi” chân thực): Phật giáo cho rằng thế
giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần sáng tạo ra mà được cấu
thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố vật chất và tinh thần. Vật chất gọi là “sắc”, là cái có thể
cảm giác được, nó bao gồm đất, nước, lửa, không khí. Tinh thần là “danh”, không có hình
chất mà chỉ có tên gọi, bao gồm thụ (cảm thụ), tưởng (sự suy nghĩ, tư tưởng), hành (ý muốn
thúc đẩy hành động), thức (sự nhận thức). Chính cái “danh” và cái “sắc” đó kết hợp với
nhau tạo thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự
tồn tại chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó,
không có cái “bản ngã” hay cái tôi chân thực.
- Quan điểm “vô thường” (vận động biến đổi không ngừng): qua điểm này cho rằng
thế giới là dòng biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận: sinh, trụ, dị, diệt.
1


- Quan điểm “duyên” (điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả): Phật giáo cho rằng,
mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ, từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của
luật nhân duyên. Trong đó, duyên là điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả, kết quả ấy
lại nhờ có duyên mà trở thành nguyên nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành kết
quả mới, cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật. Ví dụ: Hạt lúa là
nguyên nhân, nhờ có duyên (đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, …) mà có kết quả là cây lúa.
Trong thực tế, quá trình nhân – quả là vô tận. Quá trình trước là cơ sở, nguyên nhân cho
quá trình sau. Ví dụ: Tốt nghiệp lớp 12 là kết quả của 12 năm học tập, đồng thời là nguyên
nhân cho vào đại học. Tuy nhiên, tốt nghiệp 12 đồng thời cũng là nguyên nhân cho việc học
cao học …
Như vậy, thong qua phạm trù vô ngã, vô thường và duyên, triết học Phật giáo đã bác bỏ
qua điểm duy tâm cho rằng Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng
con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự vật của thế
giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế
giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.

* Quan điểm của triết học Phật giáo về nhân sinh
Nội dung triết lí nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ diệu
đế” tức là bốn chân lí tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
- Khổ đế: Cuộc đời của mỗi con người là một bể khổ, ít nhất có tám nỗi khổ (bát khổ),
đó là sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt (thương nhau mà phải xa nhau), oán tang hội (ghét nhau
mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu
tố tạo nên con người). Vậy con người ở đâu, làm gì cũng khổ.
- Nhân đế (tập đế): Giải thích nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi khổ của
con người là có nguyên nhân, có 12 nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị nhân
duyên”.
1. Vô minh: Không sáng suốt.
2. Duyên hành: Ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: Quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan.
6. Duyên xúc: Sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7. Duyên thụ: Sự cảm thụ, nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
8. Duyên ái: Sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên
ngoài.
9. Duyên thủ: Do yêu thích mà muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10. Duyên hữu: Sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: Sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: Già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nỗi đau
nhân loại.
- Diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt được trạng
thái Niết bàn.
- Đạo đế: Con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là con đường giải
thoát khỏi nỗi khổ để đạt đến hạnh phúc. Phật giáo đưa ra 8 con đường chân chính gọi là

“bát chính đạo”.
1. Chính kiến: Hiểu đúng đắn tứ diệu đế.
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn.
3. Chính ngữ: Nói năng đúng đắn.
2


4. Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn.
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6. Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng.
7. Chính niệm: Tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.
8. Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế, về vô
ngã, vô thường.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ được vô minh, đạt tới
sự giải thoát, nhập vào Niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử
luân hồi.
Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, Phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mỗi
người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó là bất sát
(không được sát sinh), bất dâm (không được dâm dục), bất vọng ngữ (không được nói năng
thô tục, bậy bạ), bất ẩm tửu (không được rượu trà), bất đạo (không được trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo là một trào lưu triết học lớn của Ấn Độ trung đại. Ở giai đoạn đầu,
học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng về thế giới.
Phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất
công, đòi tự do, bình đẳng xã hội. Đồng thời, nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát con
người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bát ái,
góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên, triết lí nhân sinh của Phật giáo vẫn còn
mang nặng bi quan không tưởng và duy tâm về mặt xã hội.
* Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Với bản chất từ bi, bát
ái, hỷ xả, Phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên

mảnh đất này. Phật giáo truyền vào nước ta bằng 2 con đường: từ Trung Hoa và từ phía
Nam. Do phù hợp với truyền thống, đạo đức của người Việt Nam nên Phật giáo thâm nhập
vào VN một cách tự nhiên.
Từ khi vào VN đến nay, PG đã tồn tại và phát triển phù hợp với truyền thống VN. PG
đã trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, góp phần kiến lập và bảo vệ chế
độ phong kiến vững mạnh, giữ vững độc lập dân tộc.
Trước đây, PG có công trong việc đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc. Trong đó có
nhiều vị thiền sư, quốc sư có đức độ và tài năng giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu,
Pháp Nhuận, Vạn Hạnh, Viên Thiếu, Không Lộ, … Bản chất từ bi hỷ xả ngày càng thấm
sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng nhân dân và vua quan vào con đường thiện
nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì dân vì nước.
Vào thời cực thịnh, PG là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị,
văn hóa, khoa học, giáo dục, …Nhiều tác phẩm văn học có giá trị, nhiều công trình kiến trúc
độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tầm quốc tế của VN được xây dựng vào thời kì này.
Từ cuối tk XIII cho đến nay, PG không còn là quốc giáo nữa nhưng những giá trị tư tưởng
tích cực của nó vẫn còn là nhu cầu, sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.
Câu 2: Phân tích quan điểm triết học Phật giáo về nhân sinh của phật giáo. Ý nghĩa
về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo
1. Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích Ca:
Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI tr.CN.
Người sáng lập ra phật giáo là Tất Đạt Đa (Siddharta), họ là Gôtama, dòng họ này thuộc bộ
tộc Sakya. Ông là thái tử của vua Tịnh Phạn, vua một nước nhỏ ở Bắc Ấn Độ lúc đó (nay
thuộc đất Nêpan) sáng lập.
3


Về năm sinh của phật hiện nay có nhiều tài liệu khác nhau nhưng nhìn chung nhiều ý
kiến cho rằng phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông sinh ngày 8/4 năm 563 tr.CN nhưng theo
truyền thống phật lịch thì tính là ngày 15/4 ( rằm tháng tư ) gọi là ngày phật đản.
Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc dòng dõi Đế Vương, nhưng trước bối cảnh xã

hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất lực của con người trước những khó khăn của
cuộc đời và xã hội đã khiến ông sớm có ý định từ bỏ cuộc đời giàu sang phú quý để đi tìm
đạo lí cứu đời. Vì vậy năm 29 tuổi người đã rời bỏ hoàng cung xuất gia tu đạo, đến năm 35
tuổi người đã đắc dạo tìm ra chân lí. Ông trở thành người sáng lập ra tôn giáo mới gọi là
phật giáo.
Từ đó người đi khắp nơi để truyền bá đạo lí của mình, sau này ông được suy tôn với
nhiều danh hiệu khác nhau: đức phật (Buddha), Người giác ngộ hay Thích Ca - mâu ni
(sakyamuni), Thánh thích ca (vị thánh dòng họ thích ca ). Xét về mặt triết học, phật giáo
được coi là triết lí thâm trầm sâu sắc về vũ trụ và con người.
Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống
đức độ của con người, phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông
đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức
truyền thống của các dân tộc Châu Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi
là Tam tạng kinh bao gồm:Tạng kinh: ghi lại những lời dạy của phật thích ca; Tạng luật:
những điều quy định mà giáo đoàn phật giáo phải tuân theo; Tạng luận: các tác phẩm luận
giải về phật giáo của các học giả cao tăng về sau.
2. Quan điểm về triết lý nhân sinh của phật giáo:
Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
diệu đế” tức là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
- Một là khổ đế: Là triết lý về cuộc đời và con người là bể khổ, ít nhất có tám nỗi
khổ. Đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau mà phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không
được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu tố tạo nên con người). Vậy con người ở đâu, làm gì cũng
khổ.
- Hai là nhân đế (tập đế): Triết lý về nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng
nỗi khổ của con người là có nguyên nhân, phật giáo đưa ra 12 nguyên nhân của sự khổ gọi
là thuyết “thập nhị nhân duyên”.
1) Vô minh: Là không sáng suốt.
2) Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3) Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.

4) Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5) Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan.
6) Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7) Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
8) Duyên ái: Là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới
bên ngoài.
9) Duyên thủ: Do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10) Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11) Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12) Duyên lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nỗi khổ
đau nhân loại.
4


– Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt tới
trạng thái niết bàn.
– Bốn là đạo đế: Là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là con
đường giải thoát khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh phúc. Phật giáo đưa ra tám con đường chân
chính gọi là (bát chính đạo).
1) Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ diệu đế.
2) Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn.
3) Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn.
4) Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn, không làm việc xấu, nên làm việc
thiện.
5) Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6) Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng, không biết mệt mỏi.
7) Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.

8) Chính định: Là kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế, về
vô ngã, vô thường.
Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, phật giáo còn đưa ra năm điều răn để mỗi
người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó là: bất sát
(không được sát sinh); bất dâm (không được dâm dục); bất vọng ngữ (không được nói năng
thô tục, bậy bạ); bất ẩm tửu (không được rượu trà); bất đạo (không được trộm cướp).
3. Ý nghĩa về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo
- Về mặt tích cực: phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc
nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do bình đẳng xã hội. đồng thời nêu lên khát vọng giải
thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, làm cho con người không ngừng tu dưỡng
phẩm chất, đạo đức cá nhân.
- Về mặt tiêu cực: trong triết lý nhân sinh của phật giáo vẫn mang nặng tính bi quan
không tưởng và duy tâm về xã hội.
Câu 3: Phân tích tư tưởng triết học Mạnh tử trong lịch sử triết học trung hoa cổ?
Mạnh Tử (327-289 trước Công Nguyên) tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh ra tại nước Lỗ,
nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là người kế thừa xuất sắc tư tưởng trường phái
Nho gia, thực chất là kế thừa quan điểm và tư tưởng của nhà triết gia Khổng Tử. Ông đã hệ
thống hóa triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện thế giới quan và nhận thức luận.
Quan điểm triết học của Mạnh Tử thể hiện ở ba nội dung:
a. Quan điểm về thế giới quan
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng tử và đẩy thế giới quan ấy đến
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không có mệnh
trời, mình nên tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó Mạnh Tử đưa ra học
thuyết “vạn vật đều có đủ trong ta nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất cả” nghĩa là
không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả.
b. Quan điểm về bản chất con người
Ông là người đi sâu vào việc lý giải bản chất con người, ông cho rằng con người khi
sinh ra vốn là thiện “nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Tính thiện đó là do thiên phú mà có chứ
không phải là do con người chọn, nếu như con người biết nuôi dưỡng, giữ gìn thì làm cho
tính thiện ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu như không biết nuôi dưỡng, giữ gìn thì làm cho

tính thiện ngày càng mai một đi, con người trở nên xấu xa, nhỏ nhen, ti tiện không khác gì
loài cầm thú.
5


Từ đó Mạnh Tử kết luận rằng bản chất con người là thiện nhưng trong hiện thực thì
con người có thể là ác. Đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn.Cho nên để
thiết lập quốc gia thái bình, thịnh trị thì phải lại con người tính thiện bằng đường lối chính
trị lấy con người làm gốc.
c. Quan điểm về chính trị xã hội
Trong học thuyết, quan điểm về chính trị - xã hội Mạnh Tử có nhiều tiến bộ, đặc biệt là tư
tưởng của ông về dân quyền, tức là quan điểm về quần chúng nhân dân. Ông là người đầu
tiên đề cao vai trò của người dân, ông cho rằng: “Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”.
Với tinh thần ấy, Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế độ “bảo dân, dưỡng dân” – bảo vệ
cho dân, nuôi dưỡng, chăm lo cho dân, phải tạo cho dân có nhà cửa ruộng vườn. Vì vậy, ông
chủ trương khôi phục lại chế độ “đinh điền” để chia ruộng đất cho dân, để cho dân có tài
sản, ông cho rằng dân có hằng sản thì mới hằng tâm. Đồng thời ông khuyên các bậc vua
chúa phải tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Đó là những quan điểm hết sức
mới mẻ và tiến bộ của ông, khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của Nho gia
hàng loạt vấn đề mới mẻ, toát lên tinh thần nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc.
Câu 4: Nội dung quan điểm triết học duy vật của Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN)
Đêmôcrit là một trong những nhà triết học duy vật vĩ đại trong thế giới cổ đại. Ông
sinh ra ở Apđe, một thành phố thương mại lớn nhất vùng Tơ – ra – xơ trong một gia đình
giàu có, có điều kiện để học tập và đi du lịch nhiều nơi, do vậy ông có tầm hiểu biết rộng,
nắm được hầu hết những kiến thức đương thời như: Triết học, Logic học, Toán học, Vũ trụ
học, Vật lý học, Sinh vật học, Tâm lý học, Đạo đức học, Mỹ học, Ngôn ngữ học, … Vì vậy,
ông được coi là người có bộ óc bách khoa đầu tiên của Hy Lạp. Quan điểm duy vật của ông
được thể hiện ở những nội dung sau:
Quan điểm về thế giới
Đêmôcrit cho rằng, cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi vật là nguyên tử. Nguyên tử là

phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được nữa, không nhìn thấy được, không âm thanh,
không màu sắc, không mùi vị và tồn tại vĩnh viễn.
Theo quan điểm của Đêmôcrit, sự vật là do các nguyên tử liên kết lại với nhau tạo
nên. Tính đa dạng của các nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên
tử tự vận động nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm cho vật thể và thế giới
chuyển động không ngừng. Lần đầu tiên trong lịch sử Đêmôcrit nêu lên khái niệm không
gian là khoảng trống mà ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với nhau. Ông là người đã
thấy mối liên hệ giữa vật chất, vận động và không gian. Ở đây, Đêmôcrit đã thể hiện lập
trường duy vật về tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của ông là tư tưởng quyết định luận, nghĩa là ông
giải thích mọi hiện tượng biến đổi theo quy luật nhân quả. Theo ông vũ trụ do vô số thế giới
tạo nên. Do những sự vật kết hợp khác nhau (tập trung và phân tán) của những nguyên tử
luôn vận động trong không gian và tuân theo quy luật của tự nhiên đã tạo nên sự xuất hiện
và diệt vong của vô số thế giới, hợp thành vũ trụ. Ông cho rằng sự sống là kết quả của quá
trình biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất hiện ở môi trường
nước là bùn, dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới nước, sau đó dần dần xuất
hiện sinh vật có vú sống trên cạn, cuối cùng là con người trên quả đất.
Sự thừa nhận tính quy luật, tính nhân quả trong triết học của Đêmôcrit là thành quả
có giá trị của triết học duy vật cổ đại Hy Lạp. Song, ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên và cho
rằng trong cuộc sống nếu chỉ dựa vào ngẫu nhiên thì chỉ làm cho con người thêm lười biếng
mà thôi. Ông bác bỏ quan điểm duy tâm, xem linh hồn là bản nguyên của thế giới. Ông cho
6


rằng linh hồn cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu nó cũng chết cùng với cái chết
của cơ thể.
Về lý luận nhận thức
Đêmôcrit là người có công đặt nền móng cho sự hình thành lý luận nhận thức chủ
nghĩa duy vật. Ông thừa nhận khả năng nhận thức của con người về thế giới. Ông chia nhận
thức ra làm hai dạng: Nhân thức cảm tính do các giác quan đem lại gọi là nhận thức mờ tối,

thực chất là trực quan sinh động và dạng nhận thức chân lý thông qua phán đoán logic, thực
chất là giai đoạn tư duy trừu tượng. Ông cho rằng dạng nhận thức chân lý phản ánh được
bản chất của sự vật và hai dạng nhận thức này có liên hệ chặt chẽ với nhau và đều có vai trò
quan trọng nhưng dạng nhận thức chân lý đáng tin cậy hơn vì có khả năng phản ánh được
bản chất của sự vật.
Đêmôcrit còn là người đặt nền móng cho sự ra đời của logic học với tư cách là khoa
học của tư duy. Ông là người đầu tiên trong lịch sử viết tác phẩm “Bàn về logic học”. Ông
coi logic học là một công cụ để nhận thức các hiện tượng của tự nhiên.
Ví dụ:
Từ những đặc điểm riêng – đến đặc điểm chung – đến khái niệm
+ Cây lúa có đặc điểm: Lá hình mác, thân thảo, rễ chùm. Cây xoài có đặc điểm: Lá
hình bầu dục, thân gỗ, rễ cọc. Cây mít có đặc điểm: Lá hình bầu dục, thân gỗ, rễ cọc. Các
cây này đều có đặc điểm chung là đều có lá, thân, rễ - Khái niệm “Cái cây”.
+ Từ các đặc điểm: Động vật biết chế tạo công cụ lao động và có ý thức – Khái niệm
“Con người” vừa là thực thể sinh vật vừa là thực thể xã hội.
+ Từ các đặc điểm chung và các dạng vật chất vô cơ, vật chất hữu cơ, vật chất xã hội
là đều tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người – Khái niệm “Vật
chất”.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội
Đêmôcrit phê phán mạnh mẽ tôn giáo. Ông cho rằng những thần thánh của tôn giáo
Hy Lạp chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của tự nhiên hay thuộc tính của con
người. Đêmôcrit là người đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô dân chủ chống lại bọn
chủ nô quý tộc.
Đêmôcrit có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Theo ông, phẩm chất con
người không phải ở lời nói mà ở việc làm. Con người cần hành động có đạo đức, còn hạnh
phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, ở khả năng tinh thần nói chung và đỉnh cao hạnh
phúc là trở thành nhà thông thái, trở thành công dân của thế giới.
Tóm lại, những quan điểm, tư tưởng triết học của Đêmôcrit còn mang tính chất phát, mộc
mạc, trực quan, song nó đã đưa triết học duy vật Hy Lạp cổ đại lên bước tiến mới, đóng góp
cho kho tàng triết học của nhân loại những thành quả vô giá.


7


Phần II: Thầy Triết 9 câu
Câu 1: Anh chị hãy phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và nêu ý nghĩa của quy luật? Trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn thì bản chất anh chị vận dụng ý nghĩa đó như thế nào?

Khái niệm
Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các
thuộc tính, các đặc trưng để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
Lượng là tính quy định bên trong vốn có của sự vật biểu hiện bằng con số của các
thuộc tính, tổng số những đại lượng, trình độ và quy mô phát triển của nó.

Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Chất và lượng của sự vật hiện tượng là 2 mặt thống nhất quy định lẫn nhau. Sự thống
nhất phụ thuộc lẫn nhau giữa chất và lượng được thể hiện trong quan hệ nhất định và trong
quan hệ đó chất và lượng cùng quy định sự tồn tại của sự vật thì quan hệ đó gọi là độ của sự
vật. Vậy, độ là giới hạn và trong giới hạn độ của mình sự vật còn là nó chưa biến thành sự
vật hiện tượng.
Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng liên hệ tác động lẫn nhau làm
cho sự vật vận động biến đổi, sự vận động biến đổi của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự
thay đổi vượt quá giới hạn độ dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi về chất gọi là bước
nhảy và ở thời điểm xảy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, nó là sự gián đoạn trong
quá trình vận động liên tục của sự vật nhưng nó không chấm dứt sự vận động nói chung mà
chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật

Ý nghĩa

Quy luật lượng chất giúp ta hiểu được bước nhảy làm cho chất mới ra đời thay thế
chất cũ. Và chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn độ. Do đó trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn để có sự thay đổi về chất phải quan tâm đến quá trình tích lũy
về lượng và khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn độ thì phải thực hiện bước nhảy. Đó là yêu
cầu khách quan của sự vận động phát triển của sự vật.
Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện các bước nhảy: quy
luật của tự nhiên và quy luật của quy luật của đời sống xã hội đều có tính khách quan. Song
sự khác nhau giữa quy luật của giới tự nhiên và quy luật của đời sống XH là ở chổ: quy luật
trong giới tự nhiên diễn ra tự phát, còn quy luật của đời sống XH chỉ được giải quyết thông
qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, trong hoạt động thực tiễn chẳng những
chúng ta phải xác định được quy mô và nhịp điệu bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi,
chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời cơ thực hiện kịp thời các bước nhảy khi điều
kiện cho phép.
 Vận dụng
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bản thân em vận dụng ý nghĩa đó
vào trong học tập như sau:
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về
thể xác, tinh thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để
phục vụ cho bản thân. Ti thức tồn tài dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, do vậy
con người có thể tiếp thu nó bằng nhiều cách khác nhau. Quá trình tích lũy tri thức, kinh
nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều
kiện,… của mỗi người. Quá trình tích lũy tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy
8


luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ
làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình biến
đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong phú, ở ví dụ này chúng
tôi chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông qua quá trình học tập và rèn luyện
của học sinh, sinh viên và học viên.

Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông kéo dài
trong suốt 12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị
những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản là khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng, những
hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Quá trình tích lũy về lượng (tri thức) của
mỗi học sinh là một quá trình dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà
còn chính tử sự nỗ lực và khả năng của bản thân người học. Quy luật lượng chất thể hiện ở
chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một lượng kiến thức nhất định qua từng bài học
trên lớp cũng như trong việc giải bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua
các kì, trước hết là các kì thi học kì và sau đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng
kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi và chuyển sang 1 giai đoạn mới. Như
vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học tập
tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính là
bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, tức là có sự
thay đổi về chất.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến
thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu
bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học.
Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi
đại học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã
có sự tích lũy đây đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của
lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Cũng giống như ở phổ thông, để có được tấm bằng đại học thì SV cũng phải tích lũy
đủ các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc đại học có sự khác
biệt về chất so với học phổ thông, sự khác biệt nằm ở chỗ, sinh viên ko chỉ tiếp thu kiến
thức một cách đơn thuần mà phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những kĩ năng mà
giảng viên đã cung cấp. Nói cách khác, ở bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn
về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa
dạng và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ
sự thay đổi về chất do sự tích lũy về lượng trước đó (ở bậc học phổ thông) tạo nên, chất mới

cũng tác động trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của
sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh lên tầm tri thức cao hơn.
Cũng giống như ở bậc học phổ thông, quá trình tích lũy các học phần của sinh viên
chính là độ, các kì thi chính là điêmt nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy,
trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp. Vượt qua kì thi tốt nghiệp lại
đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất so với giai đoạn trước. Quá trình
đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng ngay trong chính
bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã hội.
Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có
ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn, không chỉ với bản thân người học mà còn rất có ý nghĩa
với công tác quản lý và đào tạo. Thực tế trong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã mắc phải
nhiều sai lầm trong tư duy quản lý cũng như trong hoạt động đào tạo thực tiễn. Việc chạy
theo bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động của ngành giáo dục bởi vì mặc dù sẹ
tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện
9


“thành công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết
quả là trong nhiều năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra lò những lớp người không “lượng”
mà cũng chẳng có “chất”.
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta thực
hiện những cải cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh thành
tích trong giáo dục ở bậc phổ thông và đào tạo đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên chế
sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học được học vượt tiến độ chính là việc áp dụng
đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người.
Câu 2: Trình bày nội dung, ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập?
Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng, nói lên nguồn gốc động lực của
sự phát triển. Lê-nin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, nghĩa là nắm bắt
được quy luật này sẽ là cơ sở để hiểu các quy luật khác và hiểu được nguồn gốc vận động,

phát triển của mọi hiện tượng.
1.
Nội dung của quy luật
1.1
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến
- Phép siêu hình: phủ nhận mâu thuẫn bên trong bản thân của sự vật, hiện tượng, cho
rằng chỉ có sự khác nhau giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và trong xã
hội nếu có mâu thuẫn sẽ làm cho xã hội tan rã còn trong tư duy nếu có mâu thuẫn thì đó là
sự suy nghĩ sai lầm.
- Phép biện chứng duy vật:
+ Khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều có mâu thuẫn bên trong và mỗi sự vật, hiện
tượng là thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Các
mặt đối lập liên hệ bài trừ, gạt bỏ lẫn nhau thì tạo nên mâu thuẫn.
+ Mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó có mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh
với nhau.
+ Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn phổ biến, mâu thuẫn tồn
tại một cách khách quan ở mọi sự vật, hiện tượng trong suốt quá trình của sự vật và không
có sự vật, hiện tượng nào không có mâu thuẫn, nếu không có mâu thuẫn này cũng sẽ có mâu
thuẫn khác, mâu thuẫn có trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy.
* Một số loại mâu thuẫn:
a) Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
- Mâu thuẫn bên trong: là mâu thuẫn xảy ra ngay bên trong bản thân của sự vật, hiện
tượng.
- Mâu thuẫn bên ngoài: là do sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
b) Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
- Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quyết định bản chất của sự vật, gắn liền với sự vật
và khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Mâu thuẫn không cơ bản: chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản, không giữ vai trò
quyết định bản chất của sự vật và hiện tượng nhưng nó cũng giữ một vai trò nhất định đối
với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

c) Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
- Mâu thuẫn chủ yếu: là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định
của quá trình phát triển của sự vật. Nó có tác dụng quyết định đối với những mâu thuẫn
khác trong cùng một giai đoạn của quá trình phát triển của sự vật.
10


- Mâu thuẫn thứ yếu: là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định.
d) Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
- Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hòa được và đi đến
đấu tranh một mất một còn.
- Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn
người, những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, còn mâu thuẫn chỉ tạm
thời cục bộ.
1.2
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau tạo nên thế cân bằng
nhưng liên hệ phụ thuộc ràng buộc tác động lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn
tại cho mình và ngược lại nếu thiếu một trong hai mặt đối lập thì sự vật sẽ không tồn tại.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự phủ định bài trừ gạt bỏ lẫn nhau.
1.3
Đấu tranh của sự đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển
- Phép biện chứng duy vật chỉ ra là muốn tìm nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển thì phải tìm ngay bên trong bản thân của sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện
tượng là thể thống nhất trong các mặt đối lập, trong đó có 2 mặt đối lập cơ bản. Các mặt đối
lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Chừng nào sự vật chưa mất đi thì đấu tranh của
các mặt đối lập còn diễn ra và đấu tranh của các mặt đối lập làm cho thể thống nhất cũ mất
đi, thể thống nhất mới cao hơn ra đời.

- Đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình diễn ra phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã
hội, quá trình này có thể chia ra nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng thông
thường khi mới xuất hiện thì có 2 mặt đối lập chưa thể hiện sự xung đột gay gắt và trong
quá trình phát triển của mâu thuẫn thì đấu tranh của các mặt đối lập ngày càng trở nên quyết
liệt khi hội đủ những điều kiện cần thiết thì dẫn đến sự chuyển hóa lẫn nhau, lúc đó mâu
thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự vật mới là thể thống nhất của
những mặt đối lập mới và đấu tranh của các mặt đối lập lại diễn ra làm cho mâu thuẫn được
giải quyết, sự vật cũ lại mất đi, sự vật mới cao hơn ra đời và quá trình này được lặp đi lặp lại
không ngừng làm cho con đường phát triển diễn ra liên tục ngày càng cao. Điều đó chứng
minh đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
2.
Ý nghĩa
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn phải phát hiện sớm mâu thuẫn để
giải quyết kịp thời, phải phân loại mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết thích hợp và giải
quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh, mục đích của đấu tranh là thúc đẩy sự vật phát triển.
- Đối với nhận thức: mâu thuẫn là khách quan phổ biến nên việc nhận thức mâu thuẫn
của sự vật là cực kỳ quan trọng. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt
đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó, phải phân biệt được các loại
mâu thuẫn để giải quyết kịp thời đưa sự vật phát triển tiến lên.
- Đối với hoạt động thực tiễn:
+ Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải
quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
+ Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta
không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện, cũng không
để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, chủ động thúc đẩy sự chín muồi
của mâu thuẫn.

11



+ Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình thức cụ thể
rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau cần có phương pháp giải quyết khác nhau.
Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
Câu 3: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa của phương
pháp luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc ở nước ta hiện nay?
- Vị trí của quy luật: Đây là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó
phản ánh về khuynh hướng chung của sự vận động phát triển và tiến lên thông qua 1 chu kì
phủ định biện chứng thì sự vật hiện tượng mới sẽ ra đời thay thế cho sự vật hiện tượng cũ
nhưng ở trình độ cao hơn cái cũ.
- Khái niệm phủ đinh, phủ định biện chứng.
Phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu của
quá trình dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Mọi quá trình vận động và phát
triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua những sự thay thế, trong đó
có sự thay thế chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề
cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho qúa trình
phát triển của sự vật thì gọi là phủ định biện chứng.
- Tính chất của phủ định.
Tính khách quan
Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là quá trình đấu
tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo kả năng ra đời cái mới
thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Tính kế thừa
Tính kế thừa của Phủ định được thể hiện mà trong đó cái mới hình thành và phát triển tự
thân thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội
dung tích cực.
Nội dung quy luật Phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong

bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái
phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái
mới xuất hiện sau cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi
phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo ra chu kỳ phủ định
lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này
đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban đầu
nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Ý nghĩa quy luật phủ định của phủ định
Quá trình phủ định mang tính đi lên, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải có niềm
tin vào xu hướng của sự phát triển.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.trong sự thay thế đó có sự tác động của
các nhân tố chủ quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy tính
năng động sáng tạo, phát hiện những cái mới thay thế những cái cũ lỗi thời.
12


Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải kế thừa những yếu
tố tích cực. Kế thừa phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại. Loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những tư tưởng lỗi thời mang tính bảo thủ.
Trong quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà
nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển
cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn
đề và đã có cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà
chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ

của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy
luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như
vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Vận dụng quy luật
VD: Hạt thóc Cây mạ Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là
nhiều hạt). Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ
sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ
định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố
tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định
tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung
toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ
nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng
là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng
chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng
phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc".
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát
triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường
xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát
triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới
lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Ý nghĩa trong quá trình đổi mới ở nước ta

* Đặc điểm của phủ định trong đời sống xã hội:
- Phủ định trong xã hội là hình thức và kết quả hoạt động của con người do vậy ngoài những
đặ trưng mà mọi phủ định biện chứng đều có thì phủ định biện chứng trong xã hội có 2 đặc
điểm riêng:
+ Quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phủ định:
> Quan điểm siêu hình về phủ định trong xã hội xuất hiện khi xác định không đúng đối
tượng, thời điểm, phương thức phủ định.
13


> Tuyệt đối hoá mặt loại bỏ hoặc mặt giữ lại.
+Phủ định xã hội diễn ra bằng cơ chế khác căn bản với phủ định trong tự nhiên.
* Vì vậy, phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa:
- Cho ta cơ sở lý luận để hiểu sự ra đời của các mới, cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa những
mặt tích cực của cái cũ do vậy cần chống thái độ phủ định sách trơn.
- Phải phát hiện và quý trọng cái mới, phải biết sàng lọc giữ lấy những cái tích cực có giá trị
của cái cũ.
- Chống lại thái độ bảo thủ, khư khư giữ những cái cản trở bước tiến của lịch sử
Câu 4: Phân tích nội dung của nguyên tắc toàn diện. Cho biết trong thực tiển , anh
/chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ?
(TRANG 340)
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. cơ sở
lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện
đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn
tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính
chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện tượng đó
với sự vật, hiện tượng khác, tránh xem xét phiến diện một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và
phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự

vật, hiện tượng. Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp
tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có của sự
vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tượng trong một chỉnh
thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối quan
hệ của chúng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần
xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật,
hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ
nghĩa chiết trung và thuật ngữ ngụy biện.
Câu 5: Phân tích nội dung của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Cho biết trong thực tiễn,
anh /chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ?
 Phân tích nội dung:
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của
nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong
điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Điểm xuất phát của nguyên tắc lịch
sử - cụ thể là sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra trong không
gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì các
mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không
chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian,
thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau đó.
14


Theo triết học Mác - Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế giới
khách quan trong quá trình lịch sử - cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự
vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát triển của
sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong
của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát

triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian và theo thời gian
khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện
tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển,
chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên
gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ
thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn
cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt dộng
thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử - cụ
thể. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được V.I.Lênin nêu rõ và cô đọng, “xem xét mỗi vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào,
hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm
của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên
tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong
sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy,
sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước
quanh co, những gián đoạn, theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của
nguyên tắc lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình
thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh
được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự
vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ
biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm
cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của
vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã
trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những
thuộc tính, những mối liên hệ tất yêu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật,
hiện tượng.

Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra
trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu
cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới
thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ đỉnh, sự vật, hiện
tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật,hiện tượng cũ trong dạng
đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm
được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình
thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự
tồn tại và chuyển hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển
khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác, hay thành các mặt
đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của
nó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các
15


mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện
tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận
thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hưóng đúng cho hoạt
động thực tiễn của con ngưòi. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch
sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển
của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó.
Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử - cụ thể nói riêng và đối
với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử - cụ thể không kết hợp các sự
kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự
kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng để tạo nên bức
tranh khoa học về các quá trình lịch sử.
Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên
hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác

nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng
giáo điều chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh
hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động,
biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa
thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.
 Vận dụng của bản thân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử- cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải
tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta
cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Đối với học
viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương
pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước
ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống:
Chúng ta hiện nay đều là những tân học viên, khi mới nhập học hầu như là không quen
biết nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy, chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng đầu tiên
về ngoại hình, tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà chúng ta đã
đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt, dễ tính hay khó tính. Cách đánh giá như vậy là phiến
diện, chủ quan trái với quan điểm toàn diện.Điều có thể làm cho chúng ta có những quyết
định sai lầm . Chẳng hạn như khi nhìn thấy một người có gương mặt ưa nhìn, ăn nói nhỏ
nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và muốn làm bạn, còn khi nhìn thấy một người ít nói,
không hay cười thì cho là khó tính không muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới
nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính không tốt như lợi dụng bạn bè, ích kỷ.
Còn người bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè. Ấn tượng đầu tiên chỉ
quyết định đến quá trình giao tiếp về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho ta biết rằng khi xem
xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện, mọi mặt của
vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề
ngoài mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất
cả, có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì

vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài, nhìn nhận họ trên mọi
phương diện, ở từng thời điểm,từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù
hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông,bà,bố,mẹ, thầy cô… thì
chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động,
16


thái độ thoải mái, tự nhiên. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không
gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan
hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi xưa anh ta là người
xấu, tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã
sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người không như xưa, chúng ta cần nhìn nhận
anh ta khác đi, có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp, kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem
xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt .
Khi ta học kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười
học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu, thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết
quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ giúp định
hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới quan
của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học một
cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :
- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng mũi,
bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn tại, học
để chung sống với con người, với vạn vật, với muôn loài...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.

- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời
gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào phù hợp
vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt năng suất,
khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết thế nào...
- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy rằng:
“Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải luôn ý thực là lí thuyết
hay cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác
hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần hiểu : “học”
là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết
trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước.
“Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự hiểu biết của mình,
không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức của loài người nhằm
chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là ứng
dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mối quan hệ rất
chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống nhất, nó không thể tách
rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi đã
nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng
trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ quan…
Lúng túng không biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được học như thế nào?
Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán nản. Nguyên do dẫn đến
việc “học” mà không “hành” được là do học không thấu đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà
trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi trường hoạt
động.
17


Ngược lại nếu hành mà không có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc
kết dẫn dắt thì việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại,

thậm chí có khi còn dẫn đến những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến
thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực
tiễn cuộc sống.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ
thông đã khiến các học viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi.
Đa số các em không biết sử dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngoài việc để...
thi đỗ đại học
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” không đi đôi với “hành” là có nhiều học sinh, học viên
đạt kết quả học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau
khi ra trường, va vấp cuộc sống mới tự hỏi: “Không biết việc chọn trường chọn ngành của
mình đã đúng hay chưa?”. Nhất là khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục
vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì việc “Học đi đôi với hành” càng trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết.
- Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện cả
về phẩm chất, đạo đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất khác nhau
nhưng luôn luôn gắn bó mật thiết không thể tách rời. Có tài mà không có đức là người vô
dụng, bởi tài năng đó không phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu lợi ích cho một cá nhân thì
cũng trở thành vô giá trị. Con người ta không thể sống một mình, không thể tách rời khỏi
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhân dân, nhân loại. Giá trị một con người được xem xét
chính bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Người không có đức là
người không quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài, họ cũng chỉ vun vén để có
lợi cho riêng họ. Người có tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích của tập thể thì
chẳng những vô dụng mà còn có tội. Người càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại mang
đến cho gia đình, xã hội càng lớn.
Nhưng nếu chỉ có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có khát vọng
hành động vì lợi ích của mọi người nhưng không có kiến thức, năng lực kém thì những ý
định tốt cũng khó trở thành hiện thực. Tài năng giúp con người lao động có hiệu quả. Thiếu
tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong đời sống con người. Rõ ràng là giá trị con
người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau thì con người mới trở

nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi người.
Chúng ta hiện nay đang là những học viên, là những người đang trong quá trình phát
triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này
phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả
đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội
chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục
trong tương lai.

Câu 6. Phân tích nội dung của nguyên tắc phát triển
Như chúng ta đã biết, mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và
phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân thì bên cạnh nguyên tắc toàn diện
18


và nguyên tắc lịch sử - cụ thể, chúng ta phải có nguyên tắc phát triển. Điều đó có nghĩa là
khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát
triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật,
mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được
những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là
phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biển đổi chính của sự vật. Để xem
xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển; để phát hiện ra các quy luật quy định
sự chuyển hóa về chất của nó; để xem xét sự vật, hiện tượng trong giai đoạn phát triển này
sang giai đoạn phát triển khác, cần phải chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu
thuẩn. Điều quan trọng là phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt
đối lập; phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa
những khuynh hướng ấy.
Xem xét sự vật theo nguyên tắc phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển
của sự vật ấy thành những giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình

thức khác nhau; bởi vậy, phải có sự phân tích cụ thể để tìm ra phương pháp nhận thức và
cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát
triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
Nguyên tắc phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu chúng ta tuyệt đối hóa nhận
thức, nhất là nhận thức khoa học, về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính
vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hóa
nguyên tắc phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của
chúng ta và của toàn xã hội. Chúng ta phải sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp
quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ. Sự thay thế cái cũ bằng cái
mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.
Trong quá trình đó, nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường
phát triển quanh co, phức tạp. Nhận thức được như vậy sẽ vững tin ở cái mới, tìm mọi cách
vượt qua cản trở trên con đường phát triển, tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.
Trong quá trình thay thể cái cũ phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo những yếu tố
tích cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh (chị) vận dụng quan điểm của
nguyên tắc như thế nào? Tùy cơ ứng biến
Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức,
thực tiển , anh /chị đã vận dụng như thế nào ? (Chỉ ra cơ sở lý luận không phân tích
nội dung)
a/ Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện: là nội dung nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến.
MLHPB là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong
mọi lĩnh vực hiện thực.
MLHPB mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quá sự tồn tại , vận
động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng. Nó được nhận thức trong các cặp phạm trù (mặt đối lập- mặt đối lập;
19



×