MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
“Trẻ em hơm nay, thế giới ngày mai”, đúng thật là như vậy. Bởi trẻ ở lứa
tuổi mầm non là thời kì mà sự tăng trưởng và phát triển trí tuệ, tình cảm xã hội
diễn ra rất nhanh. Có thể nói đây là thời kì tăng trưởng và phát triển nhanh nhất
so với các giai đoạn sau này của con người. Lứa tuổi mầm non là thời kì mà
nhân cách bắt đầu được hình thành. Việc ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
từ những năm tháng đầu tiên là việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng trong việc chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những
chủ nhân tương lai của đất nước.
Muốn trở thành chủ nhân tương lai của đất nước, trước hết con người phải
có tri thức. Do vậy cho trẻ khám phá khoa học ngay từ nhỏ là điều kiện thiết
yếu nhằm dẫn dắt trẻ hịa nhập vào cuộc sống, có cơ hội cho trẻ gần gũi với môi
trường xung quanh, nhằm giúp cho khả năng nhận thức của trẻ phát triển thơng
qua việc tiếp xúc, tìm hiểu, khám phá, quan tâm đến môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội. Điều đó tạo nên sự tị mị ham hiểu biết của trẻ. Thông qua
những câu hỏi về môi trường xung quanh sẽ giúp trẻ hình thành các kĩ năng tư
duy: quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, phán đốn…từ đó giúp trẻ hình
thành các khái niệm và biết cách giải quyết các vấn đề, tiếp nhận kiến thức một
cách tự nhiên và hiệu quả.
Song ở lứa tuổi này ta chưa thể đặt nặng việc giáo dục trẻ bởi vì như vậy sẽ
tạo cho trẻ áp lực rất lớn và không mang lại hiệu quả. Trẻ ở lứa tuổi mầm non,
thời gian chính là chơi, do vậy các nhà giá dục phải biết kết hợp sao cho thật hài
hòa để giúp trẻ vừa có thể học tập mà lại vẫn có thể vui chơi. Chơi là hoạt động
chủ đạo của trẻ mà điển hình trong trường mầm non là hoạt động góc. Thơng
qua hoạt động này trẻ có thể “học mà chơi, chơi mà học” và tiếp nhận tri thức
một cách phong phú.
Tuy nhiên, thực tế nhiều giáo viên lại chưa nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động khám phá khoa học và hoạt động góc đối với sự phát triển của
trẻ. Mặc khác, ở nhiều trường mầm non giáo viên vẫn chưa biết lồng ghép hoạt
động khám phá khoa học vào hoạt động góc, chưa có những biện pháp hay để
lồng ghép chúng một cách có hiệu quả.
Nhận thấy đây là một điểm yếu cịn nhiều vướn mắc trong cơng tác giáo dục
của nhiều giáo viên và tầm quan trọng của việc lồng ghép hoạt động khám phá
khoa học vào hoạt động góc đối với cơ hội phát triển tồn diện của trẻ. Dựa trên
nền tảng tiếp thu những kiến thức có sẵn và sự am hiểu của bản thân, tôi xin
chọn đề tài “ Biện pháp tổ chức cho trẻ 5 – 6 tuổi khám phá khoa học thông
qua hoạt động góc” để nghiên cứu. Đề tài hồn thành sẽ góp phần làm phong
phú hơn tài liệu kham khảo cho các bạn sinh viên chuyên ngành Giáo dục Mầm
non, cho những giáo viên mầm non nào quan tâm để có thể nâng cao năng lực
nghề nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Hoạt động khám phá khoa học nói chung và việc tìm ra các biện pháp nhằm
nâng cao hoạt động khám phá khoa học cho trẻ là một vấn đề rất được quan tâm
nhằm giúp trẻ phát triển nhận thức chuẩn bị hành trang vào đời, là miếng đất
màu mỡ mà các nhà nghiên cứu đã đi sâu khai thác, lí giải. Vấn đề này cũng
được rất nhiều nhà giáo dục quan tâm và nghiên cứu. Tuy nhiên, mỗi người lại
chỉ khai thác, làm rõ một khía cạnh nhất định.
Thiết kế các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo của PGS.TS.
Hoàng Thị Phương của từ tháng 5 năm 2008 đến tháng 10 năm 2013 nhằm làm
sáng tỏ khung lí thuyết và cơ sở thực tiễn của việc thiết kế và tổ chức các hoạt
động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo; đồng thời đề xuất một số hướng tổ
chức hoạt động khám phá khoa học và thiết kế mộ số hoạt động khám phá
khoa học cho trẻ mẫu giáo. Trong giai đoạn thực hiện đề tài, về mặt lí thuyết,
tiến sĩ đã làm rõ một số khái niệm: nhận thức, khoa học, khám phá khoa học với
trẻ nhỏ; làm sáng tỏ vấn đề lí luận liên quan đến hoạt động khám phá khoa học
của trẻ mẫu giáo như sự phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo, các q trình
khám phá khoa học thích hợp với trẻ nhỏ, mục tiêu của tổ chức hoạt động khám
phá khoa học cho mẫu giáo, tầm quan trọng của hoạt động khám phá khoa học
với trẻ nhỏ, tổng quan chuẩn giáo dục khoa học cho trẻ nhỏ mẫu giáo của một
số nước, vai trò của giáo viên trong tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho
trẻ. Đây là một đề tài mang tính chất thực tiễn, góp phần nâng cao hoạt động
khám phá khoa học cho trẻ nhỏ.
Giáo trình Lí luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với mơi
trường xung quanh của PGS.TS. Hồng Thị Phương, Tiến sĩ đã đưa ra các vấn
đề lí luận của bộ mơn: về mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, các hình
thức và phương tiện hướng dẫn trẻ làm quen mơi trường xung quanh. Từ đó
giúp giảng viên, sinh viên và cả giáo viên mầm non nào quan tâm có cơ sở để
có biện pháp tổ chức hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh
cho trẻ được tốt hơn.
Tài liệu Tuyển chọn giáo án lĩnh vực phát triển nhận thức cho độ tuổi nhà
trẻ và các độ tuổi mẫu giáo của các tác giả Hoàng Thị Dinh, Nguyễn Thị Thanh
Giang, Lý Thị Hằng, Nguyễn Thanh Huyền với, các tác giả đã tuyển chọn và
biên soạn các giáo án hay của lĩnh vực phát triển nhận thức cho trẻ trong đó có
hoạt động khám phá khoa học. Đây là những tài liệu vơ cùng bổ ích để giáo
viên và sinh viên mầm non tham khảo trong quá trình học và dạy, để từ đó có
thêm kinh nghiệm và biện pháp nâng cao hoạt động khám phá khoa học cho trẻ
nhỏ.
Phương pháp hướng dẫn trẻ mầm non làm quen môi trường xung quanh
của tác giả Trần Thị Thanh, trong các tài liệu này tác giả đã nghiên cứu và trình
bày các phương pháp, biện pháp, các hình thức dạy học trên cơ sở của dạy học
đổi mới đã chú ý đến vấn đề phát huy vai trò của chủ thể nhận thức là trẻ.
Giáo dục mầm non- Những vấn đề lí luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn
Ánh Tuyết (2007), trong tài liệu này tác giả đã nêu lên các vấn đề như trí tuệ trẻ
em được hình thành như thế nào? thì trong đó có đề cập đến vai trị của hoạt
động khám phá khoa học, ngồi ra tác giả cịn nêu ra phương pháp tổ chức cho
trẻ trải nghiệm trong môi trường, đây là một phương pháp hay giúp chúng ta có
thể tổ chức tốt hoạt động khám phá khoa học cho trẻ.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, nêu ra thực trạng việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học thơng
qua hoạt động góc cho trẻ 5-6 tuổi của trường mầm non Phong Sơn- Phong
Điền- Thừa Thiên Huế, từ đó tìm các biện pháp nhằm khắc phục khó khăn,
nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ngoài ra, nghiên cứu vấn đề này cũng giúp tôi mở rộng, cũng cố kiến thức
cho chun mơn của mình sau này và góp phần rèn luyện kỹ năng nghiên cứu
khoa học giáo dục.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi khám phá khoa học thơng qua
hoạt động góc.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Trẻ mẫu giáo lớn và một số giáo viên ở trường mầm non Phong Sơn- phong
Điền- Thừa Thiên Huế
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trên cơ sở tổng hợp các tài liệu liên quan đến vấn đề
cần nghiên cứu, tôi đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lí thuyết vai trị của hoạt động khám phá khoa học cho trẻ
thơng qua hoạt động góc, đặc điểm nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động
khám phá khoa học.
- Khảo sát thực trạng quá trình tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi khám phá
khoa học thơng qua hoạt động góc của giáo viên ở trường ầm non Phong SơnPhong Điền- Thừa Thiên Huế
- Đưa ra một số biện pháp tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi khám phá
khoa học thơng qua hoạt động góc.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sự kết hợp các phương pháp nghiên cứu là tính tất yếu của một cơng trình
nghiên cứu khoa học, do đó để làm rõ nội dung nghiên cứu, trong bài làm tôi đã
sử dụng các phương pháp sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Tôi sử dụng phương pháp này để quan sát
các hoạt động giáo dục của trẻ ở trường, từ đó có thể rút ra nhận xét, đánh giá
về khả năng giảng dạy và tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ thơng
qua hoạt động góc của giáo viên.
+ Phương pháp điều tra giáo dục: Tôi dùng phương pháp này để trao đổi, đàm
thoại với giáo viên ở trường nhằm thu thập thông tin về nhà trường và nhận
thức của họ về việc tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi khám phá khoa học thơng
qua hoạt động góc.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tôi dùng phương pháp này để đúc kết
những kiến thức, kĩ năng từ thực tiễn để đưa vào bài làm cho phù hợp.
Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
+ Phương pháp phân tích – tổng hợp: tơi tiến hành phân tích các tài liệu có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm làm rõ các dẫn chứng, từ đó nhằm làm
nổi bậc các luận điểm cần triển khai, sau đó thâu tóm, khái quát lại.
+ Phương pháp hệ thống lí thuyết:Tơi sử dụng phương pháp này để hiểu rõ
vai trò của hoạt động khám phá khoa học đối với trẻ, đặc điểm nhận thức của
trẻ trong hoạt động phám phá khoa học và đặc điểm hoạt động góc của trẻ 5 – 6
tuổi.
7. Cấu trúc đề tài
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
đề tài gồm có 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi khám phá khoa học thơng qua hoạt động góc
Chương 2: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi khám phá khoa học thơng qua hoạt động góc
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC CHO TRẺ MẪU GIÁO 56 TUỔI KHÁM PHÁ KHOA HỌC THƠNG QUA HOẠT ĐỘNG GĨC
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Hoạt động khám phá khoa học của trẻ
1.1.1. Khái niệm “khám phá khoa học”
1.1.1.1.
Khái niệm khám phá
mẫu giáo 5-6 tuổi
Theo GS. Vũ Cao Đàm, khám phá là một hoạt động trong nghiên cứu khoa
học nhằm nhận ra cái vốn có (phát hiện) quy luật xã hội, vật thể, hiện tượng và
nhận ra cái vốn có (phát hiện) quy luật tự nhiên; từ đó có thể tạo ra cái chưa
từng có mới về nguyên lý kỹ thuật và có thể áp dụng được (sáng chế).
Theo từ điển tiếng Việt của ngơn ngữ học do Hồng Phê chủ biên: Khám
phá là tìm thấy, phát hiện ra cái ẩn giấu, bí mật.
1.1.1.2. Khái niệm khoa học
Theo từ điển Giáo dục học của Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, khoa học là
lĩnh vực hoạt động của con người nhằm tạo ra hệ thống hoa những tri thức
khách quan về thực tiễn, là một trong những hình thái ý thức xã hội bao gồm cả
hoạt động để thu hái kiến thức mới lẫn cả kết quả của hoạt động ấy, tức là toàn
bộ những tri thức khách quan làm nên nền tảng của một bức tranh về thế giới.
Từ “khoa học” còn dùng để chỉ những lĩnh vực trí thức chuyên ngành. Những
mục đích trực tiếp của khoa học là miêu tả, giải thích và dự báo các q trình và
các hiện tượng của thực tiễn dựa trên cơ sở của những quy luật mà nó khám phá
được.
Theo từ điển Wikipedia, khoa học là các nổ lực thực hiện phát minh, và tăng
lượng tri thức hiểu biết của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật
chất xung quanh. Thông qua các phương pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng
cách quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường của tự
nhiên nhằm thu thập dữ liệu, phân tích thơng tin để giải thích cách thức hoạt
động, tồn tại của sự vật hiện tượng. Một trong những cách thức đó là phương
pháp thử nghiệm nhằm mơ phỏng hiện tượng tự nhiên dưới điều kiện kiểm soát
được và các ý tưởng thử nghiệm. Tri thức khoa học là tồn bộ lượng thơng tin
mà các nhà nghiên cứu đã tích lũy được. Định nghĩa về khoa học được chấp
nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức tích cực đã được hệ thống hóa.
Theo PGS.TS. Nguyễn Tuấn Lê, khoa học được định nghĩa như sau:
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội, tồn tại mang tính độc lập tương đối
với các hình thái ý thức xã hội khác.
Theo Pierre Auger – UNESCO Paris 1961, Khoa học là hệ thống những tri
thức về mọi loại quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy
luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.1.1.3. Khái niệm hoạt động khám phá khoa học
Khám phá khoa học dành cho trẻ mầm non được nhìn nhận, hiểu và định
nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể như:
Trong quyển “ Các hoạt động khám phá cho trẻ mầm non” thì khám phá
khoa học là quá trình trẻ tích cực tham gia hoạt động thăm dị, tìm hiểu thế giới
tự nhiên. Đó là q trình quan sát, so sánh, phân loại, thử nghiệm, dự đoán, suy
luận, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định…
Hoặc khi dựa vào định nghĩa về khám phá và khoa học thì khám phá khoa
học có thể được hiểu như sau:
Thứ nhất, hoạt động khám phá khoa học là hoạt động nhận thức của cá nhân
nhằm phát hiện ra tri thức về thế giới xung quanh.
Hoạt động khám phá khoa học là tìm thấy, phát hiện ra tri thức tích cực được
ẩn dấu từ thế giới xung quanh.
Hoạt động khám phá khoa học là hoạt động nhận thức nhằm chiếm lĩnh hệ
thống tri thức tích cực có được thơng qua q trình tìm tịi, phát hiện, khám phá
thế giới xung quanh.
Như vậy có thể thấy rằng: hoạt động khám phá khoa học của trẻ em được
xem như là hoạt động nhận thức nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri thức, là quá trình
tìm tịi, phát hiện, khám phá thế giới xung quanh bằng quan sát, so sánh, phân
loại, thử nghiệm, dự đoán, suy luận, kết luận nhằm tăng hiểu biết của trẻ
1.1.2. Đặc điểm khám phá khoa học của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Trẻ nhỏ có vai trị tích cực trong sự phát triển nhận thức của mình thơng qua
tương tác qua lại tích cực giữa trẻ với mơi trường vật chất và môi trường xã hội
xung quanh. Chất lượng của hoạt động nhận thức liên quan đến các thái độ
nhận thức và các kĩ năng nhận thức của trẻ. Sự phát triển của quá trình nhận
thức phụ thuộc vào sự trưởng thành của trẻ, vào các kích thích và các trải
nghiệm có trong mơi trường, vào các vấn đề mà trẻ tiếp xúc trực tiếp trong môi
trường và vào các vấn đề do người lớn tổ chức hướng dẫn. Trẻ thơng qua mơi
trường để tự hồn thiện mình, sáng tạo bản thân và hình thành nhân cách.[3;
tr41]
Với trẻ 5 – 6 tuổi, thế giới xung quanh ngày càng được mở rộng, và ngày
càng hấp dẫn, thu hút sự tìm tòi khám phá của trẻ. Hoạt động khám phá khoa
học của trẻ ở lứa tuổi này có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh.
Sự trưởng thành của mỗi trẻ em không phải trong một chốc lát mà là một
quá trình, quá trình này diễn ra một cách tự nhiên, trẻ em được sinh ra và tự
chúng lớn lên. Thực ra khơng hồn tồn như vậy, sự lớn lên, trưởng thành của
trẻ phải theo một trật tự và theo quy luật nào đó [3; tr58]. Sự trưởng thành của
trẻ không chỉ được đo bằng các chỉ số về mặt chiều cao, cân nặng mà cịn thơng
qua các yếu tố khác. Và một yếu tố quan trọng mà chúng ta cần phải đề cập đến
đó là nhận thức. Nhu cầu nhận thức là một trong những nhu cầu cơ bản của con
người. Ở trẻ, mức độ đầu tiên của nhu cầu nhận thức là nhu cầu có những ấn
tượng bên ngồi. Điều này biểu hiện ở chổ trẻ thích tiếp xúc và khám phá các
đối tượng của thế giới xung quanh. Trẻ thường đưa ra hàng loạt câu hỏi về một
đối tượng cụ thể nào đó mà trẻ quan tâm. Ví dụ, khi quan tâm con mèo, trẻ sẽ
có vơ số các thắc mắc như: “ Con mèo này được sinh ra như thế nào? Có bao
nhiêu loại mèo khác nhau? Tại sao mèo hay dùng mũi để ngửi? Vì sao mèo
thích liếm lơng? Có phải khi nào mèo rửa mặt là trời mưa không?”…Mức độ
cao hơn của tính ham hiểu biết là hứng thú nhận thức, nó thể hiện ở mong muốn
tìm hiểu những điều mới, làm rõ cái chưa biết về đặc điểm, tính chất, mối quan
hệ giữa các đối tượng với nhau.
Vì vậy, khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ, giáo viên mầm non
cần thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ bằng cách tạo điều kiện cho trẻ tự do
tiếp xúc, khám phá đối tượng; trả lời tất cả những câu hỏi, những thắc mắc của
trẻ; tôn trọng hứng thú, ý kiến và cách khám phá riêng của từng trẻ…
Thứ hai, trẻ tìm hiểu và kết luận vấn đề một cách chính xác, đầy đủ hơn.
Ở trẻ 5 – 6 tuổi, tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh và chiếm ưu
thế. Ở cuối độ tuổi, ở trẻ bắt đầu xuất hiện tư duy trực quan sơ đồ mà mầm
móng của tư duy logic. Trẻ có thể hiểu được bản chất, mối quan hệ của sự vật
hiện tượng. Trẻ có khả năng hiểu một cách dễ dàng và nhanh chóng về cách
biểu diễn sơ đồ và sử dụng có kết quả những sơ đồ đó để tìm hiểu sự vật. Trẻ có
khả năng suy luận dựa vào vốn kinh nghiệm và biểu tượng trong đầu của trẻ rất
tốt. Trẻ hay hỏi các câu hỏi “ Vì sao?”, “Từ đâu ra?”. Trẻ bắt đầu biết phân tích,
suy ngẫm, suy luận và sắp xếp theo trình tự logic. Khơng những thế, trẻ cịn có
khả năng tổng hợp và khái qt hóa đơn giản những dấu hiệu bên ngồi khác
hay giống nhau, phân hạng, phân nhóm các đối tượng xung quanh. Trẻ có khả
năng vận dụng những kiên thức đã biết vào cuộc sống xung quanh sâu và rộng
hơn lứa tuổi trước. Trẻ biết thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ của mình. Trẻ có ý
thức đối với hành động văn hóa và hành vi văn minh trong cuộc sống.
Do vậy, trong quá trình tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ, giáo
viên mầm non cần lựa chọn đối tượng xuất phát từ nhu cầu và hứng thú của trẻ,
đưa ra nhiệm vụ nhận thức rõ ràng, cụ thể, sử dụng một số biện pháp, thủ thuật
để thu hút sự chú ý của trẻ. Bên cạnh đó, giáo viên cần thường xuyên sử dụng
trò chơi, bài hát…để làm cho trẻ thêm hứng thú.
1.1.3.
Vai trò của hoạt động khám phá khoa học đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Di truyền không thể là yếu tố quyết định hoàn toàn năng lực trí tuệ của mối
con người, mơi trường giáo dục mới là nhân tố có phần ảnh hưởng tới sự phát
triển năng lực trí tuệ này. Montessori nhấn mạnh: “Mơi trường giáo dục giống
như “ đầu não” của nhân loại, nó là phần quy định cho sự phát triển toàn diện
của con người” [3; tr66]. Ở trường mầm non, hoạt động khám phá khoa học là
hoạt động mang lại cho trẻ cơ hội được mở mang tri thức một cách tốt nhất, nó
cịn giúp cho các nhà giáo dục có phương hướng rõ ràng trong việc xác định
mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp với khả năng lĩnh hội tri
thức của chúng và đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ mầm non. Đối với trẻ 5 –
6 tuổi, khám phá khoa học có vai trị to lớn đối với sự phát triển nhận thức của
trẻ nói riêng và nhân cách của trẻ nói chung.
Thứ nhất, rèn luyện và phát triển các q trình tâm lí cho trẻ.
Q trình nhận thức của trẻ về mơi trường xung quanh diễn ra trên cơ sở
thống nhất nhận thức cảm tính và lí tính. Trong đó, nhận thức cảm tính là nguồn
gốc của mọi tri thức về môi trường và nhận thức lí tính giúp cho việc bổ sung,
điều chỉnh và làm chính xác tri thức của trẻ về mơi trường xung quanh. Khám
phá khoa học là điều kiện để rèn luyện và phát triển cho trẻ các quá trình tâm lí
như: cảm giác, tri giác, chú ý, ghi nhớ có chủ định cũng như các q trình tư
duy, ngơn ngữ, tưởng tượng…
Một là rèn luyện và phát triển cảm giác, tri giác cho trẻ. Hoạt động khám
phá khoa học giúp cho trẻ có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với đối tượng, điều
này là cơ hội để trẻ có thể huy động tối đa sự tham gia của các giác quan và sự
vận động của cơ thể để khảo sát sự vật, hiện tượng. Trẻ xem xét đối tượng dưới
nhiều khía cạnh nên có sự hiểu biết về đối tượng một cách đầy đủ và chính xác
hơn.
Hai là rèn luyện trí nhớ và chú ý có chủ định. Khi trẻ tham gia vào các hoạt
động khám phá khoa học, trẻ phải huy động kiến thức cũ và đồng thời tiếp thu
thêm kiến thức mới cho bản thân, có thể là từ bạn bè và cơ giáo, điều này địi
hỏi trẻ phải có một khả năng ghi nhớ và trí nhớ tốt mới có thể học hỏi có hiệu
quả, do vậy hoạt động này có thể được xem là một biện pháp tốt giúp trẻ có trí
nhớ tốt hơn. Bên cạnh đó, khi tham gia hoạt động khám phá khoa học trẻ cần
phải luôn luôn chú ý quan sát, lắng nghe cơ giáo nói và chú ý đến đối tượng
một cách có chủ định. Nó rèn cho trẻ khả năng chú ý có chủ định lâu hơn, điều
này hỗ trợ trẻ rất lớn khi trẻ bước vào lớp một.
Ba là rèn luyện và phát triển các thao tác tư duy. Khi tham gia khám phá
khoa học về môi trường xung quanh trẻ có cơ hội luyện tập các thao tác để tìm
ra điểm giống và khác nhau của đối tượng để có thể có thể so sánh, đối chiếu ý
tưởng và khái niệm. Ngồi ra trẻ cịn được luyện tập để học cách phân loại đối
tượng theo dấu hiệu khác nhau và mỗi loại có những dấu hiệu chung. Trẻ được
học cách đo lường bằng ác đơn vị đo chuẩn hoặc ước lượng, điều này giúp trẻ
phân tích, tổng hợp, khái quát vấn đề tốt hơn.
Bốn là rèn luyện và phát triển ngôn ngữ. Khi tham gia vào bất cứ hoạt động
nào, kể cả khám phá khoa học trẻ đều có cơ hội để trò chuyện, trao đổi, tiếp xúc
với bạn bè và giáo viên. Điều này đòi hỏi trẻ phải có một vốn từ nhất định, biết
nói thành câu, biết mô tả bằng lời để người khác hiểu ý định của mình, hiểu
được lời nói của người khác. Ngồi ra khi làm quen, tiếp xúc với mỗi đối tượng
trẻ đều có cơ hội để học hỏi thêm nhiều từ ngữ thuộc các loại từ trong các chủ
đề khác nhau. Đây chính là cơ hội để trẻ có thể rèn luyện, trau dồi và phát triển
ngơn ngữ của mình.
Năm là rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng. Khi tham gia khám phá khoa
học trẻ sẽ có cơ hội đưa ra những nhận xét, suy luận dựa trên kết quả của một
vấn đề nào đó. Ngồi ra trẻ cịn được luyện tập kĩ năng dự báo hay ước lượng
dựa trên kết quả quan sát, kinh nghiệm, kiến thức đã có hoặc đưa ra những phát
biểu thể hiện một giả định nào đó, nhờ vậy trí tưởng tượng của trẻ sẽ được phát
triển nhanh chóng.
Thứ hai, củng cố tri thức, mở rộng sự hiểu biết của trẻ về môi trường xung
quanh.
Nhu cầu tiếp nhận ấn tượng từ thế giới bên ngoài là một trong những nhu
cầu cơ bản thúc đẩy sự phát triển của trẻ. Tạo ra và tổ chức những hoạt động
sao cho tác động của thế giới bên ngoài đến trẻ một cách tích cực nhất là một
trong những nhiệm vụ khơng thể thiếu được của các bậc làm cha mẹ, cô nuôi
dạy trẻ và tất cả những người lớn quan tâm tới sự phát triển của trẻ. Thỏa mãn
nhu cầu này là điều kiện cho trẻ định hướng tốt vào môi trường xung quanh và
cũng từ đó mà nhận ra bản thân mình. [5; tr49]
Tri thức của trẻ về mơi trường xung quanh được trẻ lĩnh hội trong quá trình
sống bằng nhiều con đường khác nhau: trong sinh hoạt hàng ngày, khi tiếp xúc
trực tiếp với sự vật hiện tượng xung quanh; trong quá trình giao tiếp với người
lớn và bạn, thông qua các hoạt dộng của trẻ… Tri thức mà trẻ lĩnh hội được về
môi trường xung quanh thông qua việc học tự nhiên rất phong phú, đa dạng
nhưng không đầy đủ, thiếu chính xác, chưa hệ thống nên đơi khi trẻ khơng có
biểu tượng rõ ràng và dung về sự vật và hiện tượng ở môi trường xung quanh.
Điều này khơng những ảnh hưởng đến việc hình thành biểu tượng cho trẻ mà
cịn tạo ra thái độ khơng đúng của trẻ trong quan hệ với sự vật, hiện tượng và
người khác.
Khi tham gia khám phá khoa học về môi trường xung quanh trẻ được bổ
sung tri thức thông qua các cơ hội tiếp cận với đối tượng một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp, kích thích trẻ tích cực huy động các giác quan để khảo sát đối
tượng, được hình thành kĩ năng nhận thức cơ bản như quan sát, so sánh, phân
loại, đo lường, giao tiếp,… để tìm hiểu đối tượng. Điều này giúp trẻ tích lũy
nhiều tri thức một cách đầy đủ, chính xác và khoa học. Ngồi ra, trong tiết học
nếu giáo viên biết kết hợp các phương pháp dùng lời như đàm thoại, kể truyện,
đọc thơ… thì sẽ là điều kiện đẻ giúp trẻ khắc sâu, mở rộng, được hệ thống hóa,
khái quát hóa vè đối tượng một cách tốt hơn.
Thứ ba, kích thích hứng thú và phát triển tính ham hiểu biết của trẻ về mơi
trường xung quanh.
Việc tích lũy tri thức của trẻ về môi trường xung quanh được thể hiện trên cơ
sở trẻ có hứng thú với sự vật, hiện tượng, mọi người xung quanh. Mà khám phá
khoa học là một trong những hoạt động hấp dẫn, đưa trẻ đến với thế giới bên
ngoài một cách tự nhiên, hấp dẫn, phù hợp với đặc điểm tâm lí của trẻ. Do vậy
nó sẽ tạo cho trẻ sự hứng thú một cách hiệu quả và dễ dàng.
Khám phá khoa học về môi trường xung quanh cũng là điều kiện để kích
thích tính ham hiểu biết của trẻ phát triển. Trẻ sẽ hình thành được phản xạ tìm
tịi định hướng – một đặc điểm cơ bản của con người (I.P. Paplop). Khi tiếp xúc
với đối tượng trẻ sẽ liên tục đặt ra các câu hỏi cho người lớn: “Đây là cái gì? Nó
như thế nào? Tại sao nó lại như vây? …”
Thứ tư, giáo dục đạo đức, thẩm mĩ, lao động, thể chất trong quá trình cho
trẻ khám phá khoa học về mơi trường xung quanh.
Trong q trình hướng dẫn trẻ khám phá khoa học về môi trường xung
quanh, bên cạnh việc phát trển trí tuệ cho trẻ thì nó còn là điều kiện, cơ hội giúp
trẻ phát triển các mặt khác của nhân cách.
Về đạo đức: Trẻ sẽ được giáo dục tình u thiên nhiên, có thái độ giữ gìn và
bảo vệ mơi trường tự nhiên xung quanh; hình thành cho trẻ thái độ trân trọng
lao động, yêu lao động, có trách nhiệm với cơng việc được giao, trẻ nhạy cảm
với các trạng thái của sự vật hiện tượng, con người xung quanh, biết thể hiện sự
đồng cảm, chia sẻ…
Về thẩm mĩ: khám phá khoa học sẽ là cơ hội để hình thành ở trẻ khả năng
cảm nhận cái đẹp, rung động trước cái đẹp có ở xung quanh; biết giữ gìn và bảo
vệ cái đẹp ở mơi trường xung quanh; kích thích trẻ tham gia vào các quá trình
cải tạo mơi trường, tạo cái đẹp.
Về lao động: Trẻ sẽ hứng thú với quá trình lao động, kết quả lao động của
mình; hình thành kĩ năng lao động ở trẻ, trẻ có thể thực hiện các nhiệm vụ lao
động vừa sức; trẻ biết trân trọng công sức lao động, sản phẩm lao động, tôn
trọng người lao động.
Về thể chất: q trình nhận thức về mơi trường xung quanh được thực hiện
thông qua các hoạt động cơ bản của trê mầm non như vui chơi, học tập, lao
động, sinh hoạt hằng ngày. Nó sẽ là cơ hội để phát triển các nhóm cơ lướn nhỏ
ở trẻ, làm cho vận động cơ thể trẻ linh hoạt hơn, sự phối hợp vận động được
1.1.4.
tăng cường.[2; tr49-51]
Đặc điềm nhận thức của trẻ mấu giáo 5-6 tuổi trong khám phá khoa học
Xây dựng con người mới bắt đầu từ khi lọt lòng. Khoa học ngày nay cho
chúng ta đủ chứng cứ để khẳng định rằng những cơ cấu và cơ chế quan trọng
nhất của tâm trí con người đã được hình thành trong năm, sáu năm đầu [1;
tr43].
Từ 0 – 6 tuổi là giai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát
triển của trẻ em. L.N Tơnxtơi đã nói về tầm quan trọng của giai đoạn này như
sau: “ Tất cả những gì mà đứa trẻ có sau này khi trở thành người lớn đều thu
nhận được trong thời thơ ấu. Trong qng đời cịn lại, những cái mà nó thu
nhận chỉ đáng một phần trăm những cái đó thơi”.
Nhiều cơng trình nghiên cứu hiện nay thuộc lĩnh vực tâm lí học trẻ em lứa
tuổi mầm non và tâm lí học sư phạm cũng như những nghiên cứu của A.U.
Daporzet, N.N Potdiacop… đã khẳng định rằng việc dạy và nâng cao chất
lượng dạy học cần phải được xây dựng trên cơ sở đặc điểm tâm sinh lí của trẻ.
Do đó, việc giáo dục tạo cho trẻ thói quen sống thân thiện với mơi trường, có ý
thức đạo đức về việc giữ gìn bảo vệ mơi trường sẽ rất thuận lợi.
Ở lứa tuổi này, ý thức bản ngã đã được hình thành, trẻ có khả năng so sánh
mình với người khác. Trẻ đã nhận biết được giới tính của mình và biết phải thể
hiện như thế nào cho phù hợp với giới tính. Trẻ có thể lĩnh hội các khái niệm sơ
đẳng, có các lập luận và kết luận chính xác hơn.
Ở lứa tuổi này chú ý, trí nhớ và tưởng tượng có nhiều thay đổi. Chú ý có chủ
định bắt đầu phát triển mạnh, chú ý của trẻ bền vững hơn, tập trung hơn. Trẻ dễ
tập trung chú ý vào đối tượng sinh động, hấp dẫn. Trí nhớ của trẻ thì ổn định và
bền vững hơn. Trẻ dễ dàng ghi nhớ những gì gây ấn tượng mạnh, cịn những gì
khơ khan thì khó nhớ. Tưởng tượng của 5 – 6 tuổi cũng phong phú hơn do trẻ
đã có nhiều tri thức về mơi trường xung quanh, hình thành nhiều biểu tượng
mới. Do vậy khả năng khám phá sự vật, hiện tượng ở trẻ cũng tốt hơn làm cho
khối lượng tri thức về sự vật, hiện tượng của trẻ ngày càng phong phú. Đây là
cơ sở để trẻ có thể tiến hành các thao tác so sánh những điểm khác nhau và
giống nhau của một vài đối tượng, phân nhóm đối tượng theo một hay vài dấu
hiệu bên ngoài của sự vật, hiện tượng được trẻ thực hiện tương đối tốt.
Cảm giác và tri giác của trẻ phát triển mạnh. Đối với trẻ mẫu giáo lớn, cảm
giác, tri giác ngày càng chính xác hơn, độ nhạy cảm của các giác quan được
tinh nhanh hơn. Trẻ bắt đàu có khả năng tri giác có kế hoạch, có hệ thống
những sự vật, hiện tượng xung quanh, trẻ phân biệt đối tượng một cách nhanh
hơn. Tri giác của trẻ thường gắn với hoạt động của chúng. Cho trẻ tham gia tích
cực vào các hoạt động với các sự vật, hiện tượng sinh động, hấp dẫn thì tri giác
của trẻ càng phát triển và đạt kết quả tốt.
Ở lứa tuổi này, bên cạnh các kiểu tư duy trực quan hình tượng đang phát
triển mạnh mẽ, còn xuất hiện kiểu tư duy trực quan sơ đồ. Tư duy trực quan sơ
đồ vẫn giữ tính chất hình tượng, song bản thân hình tượng trở nên khác trước:
Hình tượng đã bị mất đi chi tiết rườm rà mà chỉ còn giữ lại những yếu tố giúp
trẻ phản ánh một cách khái quát về những sự vật chứ không phải là từng sự vật
riêng lẻ. Nhờ đó, trẻ có thể khám phá các mối liên hệ phức tạp bên trong sự vật,
hiện tượng và giữa nó với mơi trường xung quanh. Hình thức tư duy mới này là
bước đệm để chuyển từ kiểu tư duy trực quan sơ đồ sang hình thức tư duy cao
hơn tư duy lôgic. Sự phát triển kiểu tư duy này được thể hiện rõ khi trẻ biết sử
dụng thành thạo vật thay thế trong trị chơi đóng vai. Ý thức của trẻ đã đạt được
bước tiến mới nhờ sự phát triển tình cảm và vốn hiểu biết của trẻ ngày càng
tăng. Vì vậy trẻ có khả năng và có nhu cầu mn giải thích trạng thái cảm xúc,
tình cảm riêng của mình với người khác và điều này đã làm thay đổi một cách
rõ nét quan hệ của trẻ với bạn và người lớn xung quanh. Trẻ đã biết đánh giá
bạn qua cảm xúc, tình cảm, hành động cụ thể của chúng và quan hệ tình bạn đã
thêt hiện tương đối rõ ở lứa tuổi này. Do kinh nghiệm xã hội mà trẻ tích lũy
được ngày càng nhiều nên trẻ dần biết được trách nhiệm của chúng, có ý thức
trong việc thực hiện nghĩa vụ và cố gắng thực hiện các hành vi văn minh trong
các hoạt động và sinh hoạt [2; tr46-47].
1.2. Hoạt động góc với việc tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Khám phá khoa học
1.2.1. Khái niệm “hoạt động góc”
Hoạt động góc là hoạt động học hoặc chơi của trẻ ở mỗi góc theo sở thích cá
nhân hoặc nhóm nhỏ để thực hiện mục tiêu và nội dung giáo dục. Tại góc hoạt
động trẻ được trải nghiệm, củng cố, rèn luyện những kiên thức, kĩ năng đã được
học trong hoạt động chung, được khám phá, tìm tòi, phát hiện những cái mới ở
xung quanh. Ở mỗi góc có nội dung và hoạt động khác nhau, tên góc phản ánh
nội dung các trị chơi, các hoạt động được chuẩn bị ở các góc.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động góc của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Tổ chức các góc hoạt động với mục đích khuyến khích tính độc lập và tính
tích cực ở trẻ, kích thích trẻ thực hiện các quyết định, động viên trẻ tham gia
vào các việc chung cho trẻ tự lựa chọn hoạt động mà trẻ thích để tạo điều kiện
cho trẻ khám phá thử nghiệm, tích lũy kinh nghiệm và bộc lộ mọi khả năng của
mình [4; tr204].
Và mỗi độ tuổi mẫu giáo hoạt động góc sẽ có những đặc điểm riêng phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Với trẻ 5 – 6 tuổi, hoạt động góc của trẻ có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thời gian hoạt động góc của trẻ mẫu giáo lớn ngắn hơn so với các
lứa tuổi khác, thường là 20 phút từ 9h30 đến 9h50. Do ở độ tuổi này, trẻ đã có
nhiều kinh nghiệm chơi nên việc tổ chức cho trẻ chơi và việc trẻ tự chơi diễn ra
rất thuận tiện, thoải mái, không mất nhiều thời gian so với các độ tuổi trước đó.
Thứ hai, trẻ biết chơi nhiều trị chơi mới, biết sáng tạo, mở rộng hợp tác với
bạn bè khi chơi. Ở độ tuổi này trẻ đã có được vốn hiểu biết khá phong phú, do
đó nó cũng được phản ánh vào trong các góc chơi, trẻ chơi nhiều trò chơi hơn
với nhiều đồ chơi hơn trong mỗi chủ đề ở trong mỗi góc. Chẳng hạn lúc trước
trị chơi đóng vai mẹ con ở góc phân vai chỉ có hai vai chơi là mẹ và con với
các hoạt động như nhự cho con ăn cơm, mẹ đưa con đi học... khi lớn hơn, vào
tuổi mẫu giáo lớn trẻ vân chơi với những chủ đề đó, tuy nhiên trẻ đã biết bổ
sung thêm rất nhiều vai chơi để khai thác hết những hiểu biết của trẻ trong cuộc
sống. Ví dụ khi mẹ đưa con đi học thì có thêm cô giáo, bạn bè trong lớp với các
hoạt động khác nhau như trong giờ học, giờ ra chơi… Trong trò bác sĩ trẻ đã
biết thêm các vai chơi khác như có thêm cơ y tá, những bệnh nhân khác…mỗi
vai có một nhiệm vụ với các hoạt động, trạng thái cảm xúc riêng. Hay trong góc
xây dựng, kỹ năng xây dựng các cơng trình, trang trại…của trẻ cũng đã được
nâng cao hơn. Trẻ biết mở rộng quy mơ cơng trình của mình, làm việc một cách
say sưa, thích thú với bạn trong thời gian dài, trẻ hóa thân vào thế giới người
lớn một cách rất tự nhiên.
Thứ ba, trẻ đã tự biết liên kết giữa các góc. Trong cuộc sống, khơng ai có thể
sống và hoạt đơng một mình, con người trong cộng đồng ln có những sự kết
nối chặc chẽ bằng các mối quan hệ. Trẻ nhỏ khi bắt chước người lớn cũng ln
cố gắng tìm ra những mối quan hệ này. Chẳng hạn trong khi chơi trẻ ở góc xây
dựng có thể sang góc gia đình để ăn cơm, sang góc bán hàng để mua đồ bảo hộ
lao động…; trẻ ở các góc có thể đến góc bác sĩ để khám bệnh; trẻ ở góc nghệ
thuật có thể đi biểu diễn ca nhạc cho các bạn ở các góc khác nghe… Do đó có
thể nói rằng, lớp học của trẻ trong giờ hoạt động góc cũng giống như một mạng
lưới xã hội của người lớn.
1.2.3. Ý nghĩa của việc tổ chức cho trẻ 5 – 6 tuổi khám phá khoa học qua
hoạt động góc
Từ lâu hoạt đông vui chơi của trẻ mẫu giáo đã cuốn hút sự quan tâm của các
nhà khoa học như triết học, dân tộc học, sinh học, tâm lí học, giáo dục học…Sự
quan tâm trên không phải là ngẫu nhiên bởi lẽ các nhà tâ lí học, giáo dục học
cho rằng chơi chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của trẻ mẫu giáo, còn các
nhà dân tộc học cho rằng chơi là một hiện tượng của nền văn hóa lồi người, là
cái nơi sáng tạo của nhân dân. [4; tr7]
Trong trường mầm non, các khu vực hoạt động hay các góc chơi là nơi có
nguồn thơng tin phong phú, là nơi trẻ có thể cùng chơi và cùng làm một việc gì
đó một mình hoặc một nhóm trẻ. Tổ chức hoạt động góc hợp lí có vai trị quan
trọng đối với sự phát triển thể chất, ngơn ngữ, trí tuệ, tình cảm – xã hội, khả
năng thẩm mỹ, sáng tạo của trẻ. Các góc chơi là sự phản ánh của thế giới tự
nhiên, xã hội con người qua lăng kính của trẻ nhỏ, trẻ được hóa thân vào các vai
chơi, làm những cơng việc của người lớn. Do đó trẻ được tiếp xúc, làm quen
nhiều sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Đây cũng là nội dung cho trẻ khám
phá khoa học. Vì vậy, việc tích hợp hoạt động khám phá khoa học vào hoạt
động góc cho trẻ có vai trị rất quan trọng
Thứ nhất, thơng qua hoạt động góc ta có thể giúp trẻ lĩnh hội được nhiều tri
thức về môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên là môi trường giáo dục rất hấp dẫn với trẻ, thông qua
hoạt động với môi trường tự nhiên sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả
năng phân tích, so sánh, tổng hợp, phát triển trí thơng minh, vốn sống, tình cảm,
thẩm mĩ, đạo đức. Trong hoạt động góc ta có thể thấy yếu tố mơi trường tự
nhiên được đưa vào hoạt động của trẻ một cách rất tự nhiên, đa dạng dưới nhiều
hình thức, góc nhìn khác nhau. Chẳng hạn, ở góc xây dựng có các chú cơng
nhân đang xây dựng cơng trình. Ở đó có rất nhiều vật liệu thuộc thế giới tự
nhiên vơ sinh mà trẻ có thể làm quen, khám phá. Nào là đá, gạch, bê tông…
Mặc dù đó chỉ là đồ chơi nhưng trẻ vẫn muốn biết về chúng, trẻ sẽ đặt các câu
hỏi: “ Viên gạch này được làm từ chất liệu gì nhỉ?, “ Tại sao khi trộn nước vào
xi sẽ tạo ra bê tơng?, Hịn đá này có được là do đâu?”…Và rồi câu trả lời của
cô giáo sẽ đem lại cho trẻ nhiều hiểu biết mới thật thú vị. Hay khi trẻ trồng cây
xanh trong trang trại của mình, trẻ sẽ tập làm một người nơng dân giỏi, biết tưới
nước, bón phân, bắt sâu, nhổ cỏ cho cây, rồi vui sướng khi cây ra hoa kết quả.
Mặc dù chỉ là giả vờ nhưng qua đây trẻ đã được học làm người lướn làm những
công việc khác nhau, biết yêu quý thành quả, sản phẩm lao động…Ở một góc
khác, chẳng hạn như ở góc bán hàng, trẻ tập bn bán những sản phẩm đồ chơi
như một góc chợ được thu nhỏ. Được tiếp xúc, vui chơi với các con vật, các
loại hoa quả trẻ sẽ có cơ hội đặt ra nhiều câu hỏi, rồi suy nghĩ về những thứ
xung quanh, rằng “ Quả bí này dùng để làm gì?, Làm sao để con cá không bị
ươn?, Phải cho con khỉ này ăn trưa, nhưng nó sẽ ăn gì?...Rồi khi các con vật bị
bênh phải đi tìm bác sĩ thú y, và trẻ thể hiện tâm trạng buồn, lo lắng như thế
nào… Đây chính là kiều kiện để trẻ củng cố và phát triển nhận các q trình
tâm lí, các thao tác tư duy như quan sát, so sánh, phân tích, phán đốn…; trẻ
cịn biết các thể hiện tình cảm, biểu lộ cảm xúc của mình phù hợp với tình
huống đặt ra, là biện pháp hữu hiệu để giúp trẻ phát triển nhận thức của mình.
Thứ hai, thơng qua hoạt động góc ta có thể giúp trẻ lính hội được nhiều tri
thức về môi trường xã hội.
Môi trường xã hội bao gồm mọi người, đồ vật và xã hội lồi người. Đó
chính là các đồ vật xung quanh trẻ và các mối quan hệ giữa trẻ và mọi người
xung quanh, nó tạo ra cuộc sống của con người. Đặc biệt là các mối quan hệ
giữa con người với con người tạo nên cộng đồng xung quanh trẻ. Những mối
quan hệ gần gũi như gia đình, bạn bè, cơ giáo là nhưng mối quan hệ nhất thiết,
gần gũi, bảo bọc đời sống vật chất và tình cảm của trẻ. Trong trường mầm non,
hoạt động góc chính là những giờ phút trẻ được hóa thân mình vào các nhân vật
trong xã hội, trẻ được kết nối để tạo nên những mối quan hệ giữa người lớn và
người lớn, giữa người lớn và trẻ nhỏ, giữa trẻ nhỏ và trẻ nhỏ. Vì vậy hoạt động
góc chính là biện pháp tốt để giáo dục cho trẻ khám phá khoa học về mơi
trường xã hội.
Chẳng hạn ở góc gia đình, đó là không gian tái hiện lại cung cảnh sinh hoạt
trong đời sống hằng ngày của con người, ở đây trẻ được hóa thân vào các vai
như làm bố, làm mẹ, làm con, làm ông bà. Trẻ sẽ được ông bà, bố mẹ chỉ cho
cách ăn mặc, cách giữ gìn vệ sinh cá nhân; được nhận sự chăm sóc từ người
thân trong gia đình như được mẹ đút cơm ăn, được nghe bà đọc thơ, được ba
dạy dỗ điều hay lẽ phải; rồi được ba mẹ chỉ cho cách sử dụng các đồ vật trong
gia đình. Ngồi ra trẻ cịn được hóa thân vào những mối quan hệ khác như khi
bị ốm trẻ được đưa đi gặp bác sĩ, bác sĩ biết an ủi trẻ và người mẹ thì vơ cùng lo
lắng; trẻ cịn được đưa đi thăm quan các cơng trình xây, các di tích, thắng cảnh
của q hương qua góc xây dựng giúp trẻ biết tự hào về quê hương đất nước;
được mẹ dẫn đi chợ ở góc bán hàng, ở đây trẻ có cơ hội giao tiếp với người bán
hàng, được học cách ứng xử trong mua bán…
Thứ ba, giúp trẻ hình thành tinh thần tập thể, phát triển những kỹ năng xã
hội.
Tổ chức khu vực chơi hợp lý, khuyến khích trẻ chơi cùng nhau và làm việc
cùng nhau, cùng nhau xây dựng, cùng nhau chơi đóng vai gia đình, siêu thị trên
cơ sở đó giúp cho trẻ tái hiện các mối quan hệ trong gia đình, cộng đồng, làng
xóm. Qua đó trẻ học được cách làm việc với người khác, được học lẫn nhau, trẻ
học cách chấp nhận (lắng nghe, tuân theo ý kiến chung), chia sẻ những suy nghĩ
cá nhân với bạn bè. Trẻ biết cách chia sẻ kinh nghiệm chơi, biết tạo môi trường
giao tiếp cở mở, dân chủ giữa trẻ với trẻ, giữa cô với cơ. Đây là điều kiện để
hình thành tính tập thể cho trẻ.
Ngoài ra, khi tổ chức cho trẻ chơi ở các góc chơi, trẻ làm một chủ thể hoạt
động tích cực, trẻ được giao lưu trao đổi với các bạn trong nhóm chơi, với giáo
viên. Tổ chức hoạt động góc tạo mơi trường giao tiếp tích cực, thân thiện, hịa
đồng, ấm cúng, cởi mở giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với môi trường
xung quanh, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của
mình. Trẻ dễ dàng hướng tới những cái đẹp trong hành vi văn minh, trong cách
giao tiếp, ứng xử.
Những yếu tố này nhằm gắn kết trẻ với cộng đồng, lớn lên và thích ứng
trong những mối quan hệ của mơi trường xã hội.
Tất cả những hoạt động này trong các góc sẽ là cơ hội để trẻ mở rộng hiểu
biết về môi trường xã hội trong thế giới xung quanh. Do vậy có thể nói việc tích
hợp hoạt động khám phá khoa học vào hoạt động góc là biện pháp rất tốt để
phát triển nhận thức cho trẻ
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi khám phá khoa học qua hoạt động góc
Việc cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng khám phá khoa
học
qua hoạt động góc là một trong những biện pháp hay giúp trẻ phát triển nhận
thức. Tuy nhiên, nó cũng có những yếu tố khơng tốt ảnh hưởng đến kết quả của
việc tổ chức này. Ở trẻ 5 – 6 tuổi, có những yêu tố sau:
Thứ nhất, đồ dùng đồ chơi ở các góc cịn nghèo nàn, khơng bắt mắt,
gợi
hứng thú cho trẻ tìm hiểu.
Đối với trẻ mẫu giáo lớn, do biểu tượng về thế giới xung quanh đã phong
phú rất nhiều so với các lứa tuổi trước, trẻ đã có nhiều hiểu biết, kinh nghiệm
hơn. Do vậy trẻ cần có nhiều đồ dùng đồ chơi với nhiều thể loại khác trong mỗi
góc để tiếp tục khám phá sâu hơn về chúng, không chỉ về tên gọi, đặc điểm,
cơng dụng, cách sử dụng mà trẻ cịn muốn biết thêm về cả chất liệu của chúng,
quá trình làm ra chúng như thế nào…Do vậy, giáo viên cần phải quan tâm, bổ
sung thêm nhiều đồ chơi phù hợp và có thể tự làm thêm đồ chơi cho trẻ. Không
chỉ thế, đồ chơi đối với trẻ cần phải đẹp, bắt mắt, hấp dẫn, phải có màu sắc, kích
thước phù hợp. Cịn có một điều quan trọng là đồ chơi phải mơ phỏng được các
đặc điểm của sự vật. Chẳng hạn như một quả bí đỏ thì ta có thể dùng bồi giấy
để làm, rồi tô màu cho chân thực chứ không nên dùng miếng xốp để cắt hình
quả bí đỏ. Một con hươu cao cổ ta có thể dùng vải để may chứ khơng nên cắt
giấy hay xốp để làm…Có như vậy thì trẻ mới có hứng thú, trẻ sẽ suy nghĩ, tìm
tịi, đặt ra những câu hỏi, thắc mắc trong quá trình chơi, như thế sẽ tăng nhanh
vốn kiến thức cho trẻ.
Thứ hai, các góc chơi trong lớp cịn ít.
Trẻ mẫu giáo lớn so với các lứa tuổi trước thì lượng tri thức và vốn sống đã
được mở rộng rất nhiều. Do đó trẻ cần được hoạt động nhiều hơn trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống, muốn được hóa thân vào các vai với các nghề
nghiệp khác nhau, làm các công việc khác nhau. Cho nên số lượng các góc chơi
trong lớp cần phải phong phú hơn, trẻ có thể chơi ở nhiều góc như góc học tập,
góc xây dựng, góc nội trợ, góc gia đình, góc bán hàng, góc thiên nhiên, góc bác
sĩ, góc thí nghiệm, góc nghệ thuật. Do vậy giáo viên cần phải có biện pháp thay
đổi góc chơi cho các trẻ và thay đổi các góc chơi trong lớp để mỗi trẻ có cơ hội
tìm hiểu nhiều điều hơn. Và trong các góc cần đưa vào nhiều hơn các đồ dùng
đồ chơi để giúp trẻ có cơ hội khám phá khoa học tốt hơn.
Thứ ba, giáo viên chưa quan tâm giải đáp các thắc mắc của trẻ, hoặc trả lời
không đúng các câu hỏi mà trẻ đưa ra.
Trẻ nhỏ rất mong muốn được khám phá những gì xung quanh mình, được
tìm tịi những điều mà trẻ chưa biết. Thế nhưng bằng vốn sống và kinh nghiệm
của mình trẻ sẽ khơng thể nào tự giải đáp được những thắc mắc mà mình đặt ra
một cách chính xác, khoa học và trẻ cũng khơng thể nào tìm hiểu đầy đủ về sự
vật được. Do đó, trẻ luôn luôn cần sự quan tâm của giáo viên để giải quyết giúp
trẻ những vấn đề mà trẻ không thể tự trả lời hoặc những vấn đề mà trẻ trả lời
sai. Vì vậy, trong lớp học giáo viên cần chú ý, biết lắng nghe những thắc mắc
của trẻ và giải đáp chúng một cách kịp thời, cơ giáo có thể đi đến từng góc chơi
để lắng nghe trẻ hoặc có thể gợi ý cho trẻ hỏi hỏi các vấn đề về sự vật, hoặc đặt
các câu hỏi cho trẻ trả lời. Giáo viên không nên lờ đi những câu hỏi của trẻ hoặc
trả lời qua loa cho xong chuyện. Trẻ của chúng ta khi cần đến sự giúp đỡ của cô
giáo là đã đặt rất nhiều niềm tin vào cô, cô không nên làm cho trẻ thất vọng;
mỗi khi được cô giải đáp trẻ sẽ rất vui, huênh hoang đi kể lại với bạn, đó cũng
chính là một sợi dây nhỏ làm thắt chặc tình cảm của trẻ với cơ giáo. Cịn nếu
giáo viên không quan tâm đến các câu hỏi của trẻ, khơng nhiệt tình giúp trẻ
khám phá thì nó sẽ ảnh hưởng khơng chỉ về kiến thức mà cịn cả và thái độ của
trẻ đối với cơ. Ngồi ra, cịn một vấn đề nữa là giáo viên không đưa ra được câu
trả lời đúng cho trẻ. Điều này sẽ là sai lệch đi những kiến thức mà trẻ tiếp nhận,
nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến trẻ vì với trẻ, câu trả lời của cơ giáo có thể đươc coi
là chân lí, là một tiên đề mà trẻ hiển nhiên tin tưởng mà khơng ai có thể thay đổi
được. Do vậy yêu cầu đặt ra là giáo viên cần phải cung cấp đúng kiến thức cho
trẻ, còn nếu giáo viên chưa có câu trả lời thì phải có phương pháp giải quyết
vấn đề ổn thỏa, không được đưa ra câu trả lời sai hay nạt nộ, lờ đi câu hỏi của
trẻ. Bên canh đó, giáo viên cần phải tạo điều kiện cho trẻ được trao đổi, mở
rộng kiến thức. Thực tế có nhiều giáo viên yêu cầu trẻ khi chơi phải giữ trật tự,
không được làm ồn, điều này làm trẻ không thể trao đổi nhiều với bạn, với cô
nên sẽ hạn chế các cơ hội được học hỏi kiến thức.
2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI KHÁM
PHÁ KHOA HỌC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG GÓC
2.1. Sơ lược về trường mầm non Phong Sơn- Phong Điền- Thừa Thiên Huế
2.1.1. Sơ lược về trường mầm non Phong Sơn
Trường Mầm non Phong Sơn nằm trên tỉnh lộ 11B, thuộc địa bàn xã Phong
Sơn- Huyện Phong Điền- Tỉnh Thừa Thiên Huế. Trường được thành lập năm
2001, quy mô ban đầu có 5 lớp. Từ đó đến nay trường ổn định, phát triển và
không ngừng nâng cao chất lượng về mọi mặt. Đến nay trường tiếp tục nâng
cấp và hồn thiện dần các phịng chức năng, đảm bảo cho nhu cầu hoạt động
của cô và cháu.
- Hiện nay trường có 208 cháu chia làm 6 nhóm lớp, gồm:
+ Lớp mẫu giáo lớn: 2 lớp A1, A2
+ Lớp mẫu giáo nhỡ: 2 lớp B1, B2
+ Lớp mẫu giáo nhỏ: 1 lớp C
+ Lớp nhà trẻ: 1 lớp
- Tình hình đội ngũ: Tổng số CB - GV – NV gồm 22 người, trong đó có Ban
Giám hiệu: 3 người, Giáo viên:12 người, Nhân viên:7 người; có 17 người vào
biên chế và 5 người làm hợp đồng.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ giáo viên: 100% đạt chuẩn trong đó trên chuẩn
là 5/12 (ĐHMN: 2 người, CĐMN: 3).
- Trường có chi bộ độc lập gồm 6 Đảng viên, Chi Đồn TN gồm 7 đồn viên, có
Chi đồn Cộng sản gồm 22 đoàn viên và Chi hội phụ nữ là 21 hội viên.
- Cơ sở vật chất:
+ Phòng học: 6 phịng/ 6 nhóm, lớp. Có đủ bộ thiết bị tối thiểu cho trẻ theo quy
định tại Thông tư 34/2013/TT –Bộ Giáo dục Đào tạo.
+ Trường có đủ các phịng chức năng trong đó gồm:
. 1 phịng hiệu trưởng
. 1 phịng phó hiệu trưởng, y tế
. 1 phịng hành chính ( văn phịng + kế tốn)
. 1 bếp ăn bán trú đảm bảo quy trình 1 chiều, sạch sẽ, vệ sinh ngăn nắp, có đủ đồ
dùng của bếp.
. 1 nhà xe cho giáo viên
- Trong những năm học qua, trường đã đạt được nhiều thành tích cao trong nhiều
lĩnh vực công tác, được nhiều giấy khen, chứng nhận của các cấp, ban ngành:
+ 2003 – 2004: Cờ thi đua của UBND Tỉnh
+ 2008 – 2009: Bằng khen của Cơng đồn Giáo dục Việt Nam
+ 2013 – 2014: Bằng khen tập thể lao động xuất sắc và khen tặng của LĐLĐ
Huyện
- Cơ sở vật chất:
+ Diện tích khn viên: Tổng diện tích trường 1875m 2, khn viên trường, sân
trường rộng để trẻ chơi thoải mái.
+ Cảnh quan môi trường khá tốt, có cây cảnh phù hợp với trường mầm non.
2.1.2. Về cơng tác giáo dục trẻ
Thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới ở các lớp. Chỉ đạo và thường
xuyên có kế hoạch bồi dưỡng , tổ chức cho giáo viên tham gia tập huấn chương
trình đổi mới Giáo dục Mầm non nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Đồng