Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Hướng dẫn thực hành Hoá Hữu cơ Olympic hay dành cho sinh viên đại học, cao đẳng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.49 KB, 49 trang )

TUYỂN TẬP BÀI TẬP PHỔ THÔNG, ĐẠI HỌC, SAU ĐẠI HỌC
LUẬN VĂN-KHOÁ LUẬN-TIỂU LUẬN

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH HOÁ HỮU CƠ
THI OLYMPIC

1


PHẦN 1. ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY THỰC HÀNH HÓA HỌC
Bộ môn Hóa
I.

Đặt vấn đề
Sử dụng các phương pháp tích cực vào giảng dạy Hoá học ở bậc Đại học hiện

nay là rất cấp thiết. Với việc trang bị những thiết bị và đồ dùng dạy học, phục vụ cho
việc cải cách giáo dục hiện nay tại Bộ môn Hóa- Đại học Nha trang (NTU) sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho Giảng viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá
trình dạy và học Hoá học. Thí nghiệm Hóa học sẽ tạo cơ hội cho Sinh viên bổ sung
kiến thức, nắm vững các khái niệm, định luật … về lý thuyết và rèn luyện kỹ năng làm
thực nghiệm, nghiên cứu khoa học, làm sáng tỏ những gì học tại lớp và học qua sách
vở. Sự hình thành những câu hỏi, kiểm chứng giả thuyết, thu thập dữ liệu và phân tích
số liệu để giải quyết vấn đề trong lí luận và thực tiễn về Hóa học chỉ có thể thực hiện
trong phòng thí nghiệm.
Mục đích của bài viết này là làm thế nào để kích thích Sinh viên không chuyên
Hóa, thích học Hóa học và thích làm thí nghiệm Hóa học. Phương pháp dạy học “ Nêu
và giải quyết vấn đề trong thí nghiệm Hóa học” theo phương pháp Spickler hy vọng
đạt được kết quả cao.
II. Những vấn đề cần giải quyết
1. Tại sao cần đổi mới phương pháp dạy trong thực hành thí nghiệm Hóa học?


Mấy năm vừa qua, tuyển sinh Đại học nước ta thực hiện theo tiêu chí 3 chung.
Môn Hóa học được đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm. Vì vậy, Sinh viên không
quen học theo kiểu tự luận, tự mình giải quyết các tình huống có vấn đề. Qua thực tế
giảng dạy, rất nhiều Sinh viên (Tôi không dám nói là phần đông) không nắm được các
kiến thức cơ bản về Hóa học ở bậc trung học phổ thông. Thậm chí, công thức Hóa
học, cách gọi tên … một chất Hóa học đơn giản, thông thường cũng không biết viết,
biết đọc. Điều này đã cản trở Sinh viên tiếp thu những kiến thức mới, cao hơn nhiềuở bậc Đại học. Như một ngôi nhà cao tầng được xây trên một nền móng yếu kém, với
lại xã hội có nhiều điều hấp dẫn hơn, Sinh viên chơi nhiều hơn học. Sinh viên phải
đăng kí học lại nhiều. Đó là điều hiển nhiên.

1


Giáo viên không chỉ “khổ sở dài dài” khi đánh giá kết quả học tập lí thuyết qua
kiểu tự luận mà còn “vất vả dài dài hơn” khi cho Sinh viên thực hành Hóa học. Hiện
nay, việc học tập Hóa học của Sinh viên thông qua môn thực hành thí nghiệm ở bậc
Đại học, theo Tôi vẫn chưa thực sự phản ảnh đúng với bản chất của khoa học. Trong
nhiều năm qua, tại NTU- hình thức giảng dạy thực hành Hóa học là bắt Sinh viên phải
tuân thủ đúng theo những bước đã được soạn thảo trong tài liệu thí nghiệm, tỉ mỉ rập
khuôn lại các bài thực tập nhằm kiểm tra các khái niệm và lý thuyết học tại lớp (còn
các môn học khác có thí nghiệm thì sao?). Nhưng thực sự, khoa học là luôn gắn liền
với các yếu tố “khám phá và phóng tới” chứ không phải khuôn mẫu. Lâu nay, Sinh
viên được yêu cầu mua các “tài liệu hướng dẫn thí nghiệm” mà trong tài liệu này đã
có sẵn những chỉ dẫn về thao tác và từng bước thực hiện cụ thể. Như vậy, Sinh viên
gần như thụ động và rập khuôn mà không có sự sáng tạo của riêng mình. Sinh viện
thực hiện theo các mệnh lệnh trong tài liệu hướng dẫn. Công việc này bắt đầu từ việc
Giảng viên giải thích cho Sinh viên rất chi tiết về những điều gì sẽ xảy ra từ đầu đến
cuối thí nghiệm với mục đích là phải đảm bảo cho Sinh viên thí ngiệm “đúng”. Sinh
viên chỉ biết thực hiện các thí nghiệm một cách máy móc, không có sáng tạo và tư
duy. Cách dạy này đã tồn tại bao nhiêu năm nay rồi và kết quả là sau khi kết thúc môn

học, kiến thức, kĩ năng và thái độ thực nghiệm của Sinh viên hầu như quay lại điểm
xuất phát ban đầu.
Tự nhận thấy trước đây, ai thích học ngoại ngữ thì học vì ít có nhu cầu về cập
nhật kiến thức chuyên môn và giao tiếp, làm việc với người nước ngoài, đọc và dịch
tài liệu bằng tiếng nước ngoài. Nhưng trong thời kì hội nhập ngày nay, điều đó không
phải là tùy thích nữa mà nhà trường yêu cầu mỗi Giảng viên dạy Đại học- để tồn tại và
làm việc có hiệu quả, mỗi Giảng viên phải có các văn bằng ngoại ngữ theo yêu cầu.
Bao khó khăn phải vượt qua và thực sự chúng ta đã vượt qua. NTU ngày càng có đông
đảo các Thạc sĩ, Tiến sĩ được đào tạo từ nước ngoài, chất lượng người thầy, người cô
được tăng lên. Chúng ta nên nhớ rằng, “ Bộ não của con người có khả năng tiếp nhận
nhiều thông tin ở bất kỳ một thời điểm nào” và đó là những cái ngưỡng mà mỗi con
người có ý chí phải cố gắng vượt qua. Nếu bộ não của Sinh viên hoạt động theo bài thí
nghiệm đã được biên soạn tỉ mỉ thì trong suốt quá trình thí nghiệm, Sinh viên sẽ
không có thời gian dành cho quá trình suy nghĩ về các vấn đề khoa học đang đặt ra.

2


Sinh viên cũng không đủ thời gian suy nghĩ để chọn lựa cách tiến hành thí nghiệm
khoa học, đặc biệt các kỹ năng xử lý sáng tạo. Cách giảng dạy rập khuôn theo từng chi
tiết, đi đúng từng bước và cho từng giọt hóa chất vào ống nghiệm không những làm tê
liệt việc rèn luyện những kỹ năng xử lý có tính khoa học mà còn làm cho Sinh viên
nhàm chán, thiếu thích thú trong thí nghiệm. Khi Giáo viên yêu cầu Sinh viên tự thí
nghiệm và tự tìm tòi khám phá với sự hướng dẫn, theo dõi của Giáo viên thì chắc chắn
rằng, Sinh viên sẽ thực hiện và đáp ứng được (ngoại trừ Sinh viên Trung cấp và Cao
đẳng) những yêu cầu của môn học và Họ sẽ phát triển và phát huy được khả năng tiếp
nhận nhiều thông tin ở bất kỳ một thời điểm nào.
2. Chúng ta cần làm gì?
Thực tế tại NTU, số Sinh viên trong mỗi lớp là khá đông, trình độ Sinh viên
trong lớp quá chênh lệch nên khả năng tiếp thu là khác nhau. Để nâng cao chất lượng

giáo dục- đào tạo, thực hiện được tinh thần chủ đạo “Lấy học sinh làm trung tâm của
quá trình dạy học” theo Tôi, cần:
a. Tăng cường giáo dục thái độ, không ngừng kích thích sự ham muốn tìm tòi
những cái mới nhằm phát huy sự chủ động, sáng tạo của Sinh viên ở mức độ cao nhất,
biến Họ thành những người có khả năng nghiên cứu, nắm vững các nội dung cần học
và thiết tha những kiến thức mới về Hoá học để có thể áp dụng nghề nghiệp trong
tương lai.
b. Tăng cường các hoạt động rèn luyện kĩ năng thực hành của Sinh viên trong
giờ học, làm cho Sinh viên trở thành chủ thể hoạt động bằng các biện pháp hợp lí như:
 Tổ chức cho Sinh viên tự giác làm các thí nghiệm, tự nhận xét thí nghiệm, ưu
tiên sử dụng hình thức thảo luận, tranh luận, xây dựng giả thuyết…
 Các gợi ý của giáo viên phải làm tăng mức độ trí lực Sinh viên qua việc trả
lời các câu hỏi tổng hợp, đòi hỏi so sánh, suy luận trước và sau khi thí nghiệm
để Sinh viên tự mình giải quyết các tình huống có “vấn đề” từ thấp đến cao.
c. Đổi mới phương pháp dạy thực hành Hóa hữu cơ bằng phương pháp Spickler.
Công trình nghiên cứu của Sphickler và một số nhà giáo dục Bắc Mỹ về việc
khảo sát nhiệm vụ thực hành trong các môn khoa học bậc Đại học đã cho các kết luận
[2]:
 Gắn Sinh viên vào quá trình học tập tích cực.

3


 Làm cho Sinh viên có trách nhiệm học và lựa chọn tiến hành thí nghiệm
một cách hứng thú.
 Đòi hỏi Sinh viên phải áp dụng nhiều kỹ năng xử lý thí nghiệm bao quát
hơn và có thể đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay “Sinh viên tự
nghiên cứu, tự học, tự phát triển tư duy và phát huy tính sáng tạo”.
 Thể hiện chất lượng công việc thí nghiệm khảo sát tốt hơn cho Sinh viên ở
tất cả các trình độ, không những chỉ có những Sinh viên có trình độ cao và

tư duy tốt mà thậm chí cho Sinh viên có trình độ tư duy thấp.
Với yêu cầu hiện nay của nhà trường, phải đổi mới phương pháp giảng dạy
bằng mọi hình thức từ nội dung đến phương pháp. Vì thế, tôi đã mạnh dạn đổi mới
phương pháp giảng dạy trong thực hành Hóa học theo phương pháp Spickler (1984).
3. Đổi mới như thế nào?
Xuất phát từ suy nghĩ và mong muốn đem lại cách học tập chủ động hơn cho
Sinh viên, Tôi đã ứng dụng phương pháp Spickler trong quá trình hướng dẫn thực
nghiệm nhằm gắn Sinh viên với quá trình tự điều khiển thí nghiệm. Theo Spickler,
muốn phát huy được tính tích cực của sự học qua thực nghiệm, cần tiến hành ba giai
đoạn [1]:
a. Giai đoạn khảo sát thăm dò là giai đoạn Sinh viên tự vạch ra cách tiến hành
hoặc có thể truy tìm thí nghiệm và tham khảo trên Internet với mục đích là Sinh
viên tiến hành thu thập số liệu mà không được giảng viên hướng dẫn chi tiết và
tỉ mỉ.
b. Giai đoạn sáng tạo là giai đoạn yêu cầu Sinh viên tự thiết kế cách thực hiện,
tiến hành, phân tích số liệu và hình thành giả thiết.
c. Giai đoạn khám phá, phát minh và kiểm tra giả thiết qua phản ứng thí nghiệm.
Tôi đã xây dựng các thí nghiệm trên cơ sở không cung cấp chi tiết các bước
tiến hành thí nghiệm như trước đây mà để Sinh viên tự tìm hiểu cách thức thí nghiệm
theo sự hướng dẫn nội dung của Tôi và phải suy nghĩ làm thế nào để thực hiện được
hiệu quả nội dung đó. Để Sinh viên nắm vững kiến thức, sau quá trình hướng dẫn và
theo dõi Sinh viên thực hành thí nghiệm, Tôi đã củng cố lại toàn bộ kiến thức về phản
ứng trong thực nghiệm cho Sinh viên nhờ minh họa qua hình ảnh, băng Video, file
minh họa thí nghiệm … những thực nghiệm đó nhờ các thiết bị dạy học đã được trang

4


bị. Và cuối cùng, Tôi yêu cầu Sinh viên viết tường trình những gì tự thực hiện được và
đánh giá.

Qua thực tiễn đổi mới, bảng 1 cho thấy sự khác biệt giữ 2 phương pháp dạy
truyền thống và phương pháp Spickler.
Bảng 1: So sánh cách dạy truyền thống và phương pháp Spickler
Thứ tự
1

Cách dạy truyền thống
Cách dạy theo phương pháp Spickler
Thí nghiệm kiểm chứng, cung Thí nghiệm cho Sinh viên tự khảo sát
cấp cho Sinh viên qua tài liệu

theo hướng dẫn

- Lý thuyết thí nghiệm trước khi

-

tiến hành thí nghiệm.

Có thể cung cấp

lý thuyết thí

nghiệm hoặc yêu cầu Sinh viên tìm tòi
những thí nghiệm theo yêu cầu của giáo

- Tiến hành thí nghiệm chính xác
và tỉ mỉ như tài liệu hướng dẫn.

viên.

-

Hướng dẫn sử dụng thiết bị và dụng
cụ thí nghiệm.

-

Sinh viên trình bày cách tiến hành
và giáo viên kiểm tra lại tính khả thi của
thí nghiệm hoặc có gợi ý kịp thời sơ bộ

- Mô tả chi tiết như công thức
Hóa học, hiện tượng quan sát,

2

sau khi Sinh viên đã trình bày cách của
mình

cách tính toán, phân tích kết

- Không cung cấp các mô tả chi tiết cách

quả thí nghiệm và giải thích kết

tiến hành thí nghiệm, cách tính toán, phân

quả và hiện tượng quan sát

tích kết quả thí nghiêm. Giải thích kết quả


được.

thí nghiệm.

Mục đích đạt được
- Sinh viên kiểm tra lại hiện
tượng Hóa học và tính chất

Mục đích đạt được

Hóa học được học tại lớp.

- Sinh viên tự vạch ra các bước tiến hành
thí nghiệm.
- Sinh viên tự thu thập số liệu

3

Quá trình học tập

- Sinh viên phân thích những gì thu thập

- Tuân theo những thí nghiệm
cho sẵn và theo từng bước một
của thí nghiệm.

được và đưa ra kết luận
Quá trình học tập
- Quá trình thực hiện tìm tòi và khám phá.


5


- Giảng viên giảng trước khi Sinh
viên tiến hành thí nghiệm.
- Giảng viên nhận xét và đánh giá quá trình
học và củng cố kiến thức.

III.

Kết luận
Những đổi mới giảng dạy thực hành Hóa học theo phương pháp Spickler này

được áp dụng cho Sinh viên K51, ngành Công nghệ sinh học, hệ Đại học chính quy tại
phòng thí nghiệm Hóa hữu cơ- NTU. Kết quả đánh giá cho thấy kiến thức, kĩ năng và
thái độ của Sinh viên tiến bộ vượt bực so với những năm trước đây.
Tôi hy vọng báo cáo này sẽ có ích cho những môn học có học phần thực
nghiệm và là một trong những cách đổi mới về phương pháp giảng dạy thí nghiệm,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường chúng ta trong thời gian tới.

PHẦN 2. MỘT SỐ BÀI THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH
THEO CHƯƠNG TRÌNH OLYMPIC
Vụ Giáo dục Trung học – Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bài 1. Xác định Sắt có trong thuốc viên chứa Sắt
Lý thuyết
Sắt là một thành phần thiết yếu của hồng cầu (hemoglobin), giúp vận chuyển oxi
trong máu đến mọi phần của cơ thể. Nó cũng giữ vai trò sinh tử trong nhiều phản
ứng trao đổi chất. Thiếu sắt có thể gây bệnh thiếu máu là hệ quả của mức hồng cầu

trong máu thấp. Thiếu sắt là sự suy dinh dưỡng khoáng chất phổ biến nhất trên thế
giới. Một cách để giảm sự thiếu hụt sắt là chữa trị bằng viên chứa sắt.
Hoạt chất trong thuốc viên chứa sắt là sắt(II) hiện diện trong thuốc viên khảo sát
dưới dạng sắt(II) fumarat. Ngoài hợp chất hữu cơ sắt(II) này, thuốc viên có chứa
các chất khác như những tác nhân liên kết. Cấu trúc của axit fumaric là:
OH
O

O

OH

6


Axit fumaric
Sắt(II) và 1,10-phenanthroline tạo phức có màu vàng cam/đỏ
[(C12H8N2)3Fe]2+. Mật độ quang (absorbance) của phức này, xác định tại 510
nm trong dung dịch đệm (pH=8) là một phép đo hàm lượng sắt của viên thuốc.
Do 1,10-phenanthroline chỉ liên kết với sắt(II) và sắt(II) dễ bị oxi hóa thành
sắt(III), thêm hidroxiamoni clorua (hydroxylammonium chloride) để khử toàn
bộ sắt(III) thành sắt(II). Một sơ đồ phản ứng đơn giản là:
2 NH2OH + 4 Fe3+ → N2O + 4 H+ + H2O + 4 Fe2+
N
N

1,10-Phenanthroline

1,10 phenantroline


Thiết bị và Hóa chất tiến hành
THIẾT BỊ

HÓA CHẤT

− Cân

− Viên thuốc chứa Fe (II)

− Cối, chày sứ;

− HCl 4M;

− Cốc 100 mL;

− Dung dịch 1,10-phenanthroline;

− Thiết bị siêu âm (ultrasonic bath);

− Dung dịch hydroxylammonium

− Bếp điện;

chloride;

− Phễu Hirsch chứa một lớp nhỏ chất
giúp lọc nhanh;
− Bình định mức 250 mL và 100 mL;
− Pipet;
− Quang phổ kế;

Phương pháp tiến hành
Dùng cân để xác định khối lượng của viên thuốc chứa sắt chính xác đến 1
mg. Viên thuốc được tán cẩn thận thành bột trong một cối và chuyển định lượng
vào cốc 100 mL bằng một lượng nhỏ nước cất. Thêm axit clohidric (5 mL, 4

7


M). Đun nóng các chất trong cốc đến khoảng 60 oC trên bếp điện. Dung dịch đổi
sang màu vàng.
Đặt cốc vào thiết bị siêu âm (ultrasonic bath) trong ít nhất 5 phút. Giữ cốc ổn
định bằng mốp xốp (styrofoam). Phễu Hirsch chứa một lớp nhỏ chất giúp lọc
nhanh (Hi-flo filter aid) đã được làm ẩm và ép chặt trên lọc, dùng phễu này lọc
huyền phù bằng cách hút. Rửa chất giúp lọc nhanh (Hi-flo filter aid) bằng lượng
dư nước cất. Nước lọc được chuyển cẩn thận vào bình định mức (250 mL) và
thêm nước cất, khuấy liên tục để điều chỉnh thể tích cuối. Dùng pipet để hút 10
mL dung dịch này và cho vào bình định mức 100 mL. Lại điều chỉnh thể tích
bằng nước cất đồng thời khuấy đều.
Từ dung dịch này, dùng pipet lấy 10 mL và cho vào bình định mức 100 mL.
Sau đó, thêm dung dịch 1,10-phenanthroline (10 mL) và dung dịch hidroxi
amoni clorua (hydroxylammonium chloride) (1 mL) . Kế tiếp, điều chỉnh thể
tích dung dịch bằng dung dịch đệm (pH 8).
Mật độ quang của dung dịch này được đo bằng máy so màu (quang phổ kế)
tại 510 nm so với nước trong cuvet 1,000 cm.
Hãy tính lượng sắt trong viên thuốc chứa sắt dựa trên độ hấp thụ mol (hệ số
tắt, e) đã biết của phức sắt(II) phenanthroline tại 510 nm. Độ hấp thụ mol của
phức sắt(II) phenanthroline tại 510 nm bằng 11100 M-1cm-1.
Quan trọng
Để lọai bỏ sai lệch trong mật độ quang khi nối với máy so màu sử dụng, một hệ
số điều chỉnh được ghi trên máy so màu học sinh dùng trong thí nghiệm. Mật độ

quang quan sát được cần phải nhân với hệ số này để thu được mật độ quang
đúng của dung dịch phức sắt.

Bài 2. Xác định các mẫu vô cơ chưa biết
Lý thuyết
Có 12 mẫu chưa biết đựng trong túi bằng chất dẻo bao gồm 9 dung dịch
chưa biết, mỗi dung dịch được đựng trong ống nhỏ giọt và 3 mẫu chất rắn đựng
8


trong ba lọ miệng rộng. Tất cả các mẫu chưa biết đều được đánh số với 3 chữ
số. Hãy kiểm tra cẩn thận các mã số mẫu theo danh sách các mẫu vô cơ chưa
biết rồi viết số báo danh và tên của mình vào tờ giấy. (Danh sách đó được kèm
theo các mẫu chưa biết của học sinh). Mỗi lọ đựng chất rắn có khoảng 20
miligam dưới dạng bột hoặc tinh thể của một hợp chất tinh khiết. Mỗi ống nhỏ
giọt chứa khoảng 1,5ml dung dịch của một hợp chất tinh khiết được hòa tan
trong nước cất. Nồng độ của các dung dịch chưa biết nằm trong khoảng từ 0,05
đến 0,5 M(mol/lit).
Các dung dịch chưa biết là như sau:
HCl
NaOH

H2O2
Na2CO3

H2SO4
Na2SO3

ZnCl2
BaCl2


NH4SCN
K4Fe(CN)6

Chú ý:
(1) Có 2 mẫu chưa biết được lặp lại.
(2) H2O kết tinh trong tinh thể ngậm nước được bỏ qua trong các công thức cho
ở trên.
Trên bàn thí nghiệm của học sinh có một hộp nhựa đựng các dụng cụ, mẫu
chưa biết và các thuốc thử được sử dụng trong bài thực hành này.
Danh sách các dụng cụ
Dụng cụ
Điện cực dây Pt
Hộp đựng pin
Bản lõm trắng để nhỏ
giọt
Kéo cắt
Thìa càphê
Danh sách thuốc thử
Thuốc thử
KI
FeCl3

Số
lượng.
1
1
1
1
2


Dụng cụ

Số lượng.

Điện cực dây Au
Pin
Bản mỏng bằng nhựa màu

1
2
1

đen
Ống nhỏ giọt (1 mL)

5

Nồng độ.
Thuốc thử
0.1M
pp (phenolphtalein)
0.1M
Dung dịch tinh bột

Mức độ độc hại và an toàn của các hóa chất

9

Nồng độ.

0.01%
0.01%


Hóa chất
Axit clohidric
Axit sunfuric
Dung dịch Natri

Công thức
HCl
H2SO4
NaOH

Độ độc hại
36/37/38
35
35

Độ an toàn
26
26-30-45
26-36/37/39-45

H2O2

22-41

26-39


Hydroperoxit
Dung dịch Natri

Na2CO3

36

22-26

cacbonat
Dung dịch Bariclorua
Dung dịch Natrisunfit
Dung dịch Kẽm clorua

BaCl2
Na2SO3
ZnCl2

20-25
31-36/37/38
22-34-50/53

45
26-36
26-36/37/39-45-60-

32

61
22-24/25


20/21/22-32-52/53

13-61

22-34
40

26-36/37/39-45
22-24/25 *
36/37

hidroxit
Dung dịch

Dung dịch Kali

K4Fe(CN)6

hexaxyanoferat (II)
Dung dịch Amoni

NH4SCN

thioxyanat
Sắt (III) clorua (rắn)
Kali iotua (rắn)
Dung dịch tinh bột
Chất chỉ thị


FeCl3
KI
-

Phenolphthalein
Tiến hành
1. Sử dụng bốn thuốc thử đã được cấp, các phản ứng giữa các mẫu chưa biết với
nhau và thiết bị điện phân đơn giản để nhận biết các mẫu chưa biết và viết
trả lời của em (dưới dạng số với 3 chữ số - như cách đánh số mẫu của các
mẫu đã cho) vào các ô trống trong tờ phiếu trả lời.
Chú ý: Sau khi kết thúc công việc hãy cho hai dây vàng (Au) và Platin(Pt) và các pin vào các
túi nilon ban đầu của chúng rồi để lại tất cả dụng cụ và hóa chất (kể cả các mẫu chưa biết) vào
hộp nhựa đúng vị trí ban đầu.

2. Trong bài thực hành này học sinh đã thực hiện một loạt phép thử để xác định
(hoặc khẳng định) các mẫu chưa biết. Học sinh cần nắm được các phản ứng

10


hoá học liên quan đến các phép thử đã tiến hành và viết được các phương
trình phản ứng:
A. Viết phương trình điện phân xảy ra ở dạng ion rút gọn có ghi trạng thái
tồn tại để khẳng định một mẫu chưa biết là dung dịch chứa ZnCl2.
B. Viết một phương trình phản ứng dùng để làm sạch kết tủa Zn trên bề
mặt điện cực bằng các dụng cụ và hóa chất đã cho trong bài này.

Bài 3. Xác định cacbonat và hiđro photphat trong một mẫu làm chất mài
Lý thuyết
Na2CO3, CaCO3 và Na2HPO4 là các thành phần chính của các bột mài. Trong

bài thí nghiệm này, phải xác định các ion cacbonat và hiđro photphat trong một
mẫu để mài bằng hai chuẩn độ axit-bazơ.
Đầu tiên, thêm một lượng chính xác axit clohiđric (được lấy với lượng dư) vào
mẫu thử. Phản ứng xảy ra, hiđro photphat chuyển thành H 3PO4, còn các ion cabonat
chuyển thành CO2 sau đó thoát ra hết khi bị đun sôi. Các ion canxi có ban đầu trong
mẫu đó chuyển vào dung dịch. Vì các ion này có thể ảnh hưởng đến kết quả phân
tích nên chúng được kết tủa trong CaC2O4 và lọc bỏ trước khi chuẩn độ.
Tiếp đến, axit photphoric vừa tạo thành được chuẩn độ bằng dung dịch NaOH có
nồng độ chính xác với hai chất chỉ thị khác nhau là: Bromcrezon xanh
(Bromocresol Green, BCG) và Thymolphthalein (TP). Bước thứ nhất của chuẩn độ
này là: H3PO4 (và lượng dư HCl) được chuẩn độ tới ion H 2PO4-, điểm kết thúc bước
chuẩn độ này có môi trường hơi axit (pH khoảng ~4.5). Điểm này làm cho BCG
chuyển từ màu vàng sang màu xanh. Bước thứ hai của chuẩn độ này: tiếp tục bước
trên cho tới khi tạo ra HPO42-. Điểm kết thúc bước hai này xảy ra khi TP không
màu chuyển sang màu xanh (môi trường có tính kiềm, pH vào khoảng 10).
Lượng ion CO32- trong mẫu đó được tìm ra khi dựa vào lượng khác nhau giữa:
a)

Lượng chất chuẩn độ ứng với lượng ban đầu của HCl (đã dùng để hòa tan
mẫu)

11


b)

Lượng cũng của chất chuẩn độ đó ứng với điểm kết thúc chuẩn độ thứ hai
(chỉ thị TP).

Lượng ion HPO42- được tìm ra khi dựa vào lượng khác nhau giữa lượng chất

chuẩn độ đã dùng để đạt tới hai điểm kết thúc chuẩn độ (chỉ thị TP và BCG).
Thiết bị và Hóa chất tiến hành
THIẾT BỊ

HÓA CHẤT

− Cân

− Bột mài chứa Na2CO3, CaCO3 và

− Phễu lọc;

Na2HPO4

− Cốc 100 mL;

− HCl 1M;

− Ống đong;

− Nước cất

− Bếp điện;

− Dung dịch K2C2O4 15%;

− Bình hình nón (Erlenmeyer);

− Dung dịch NaOH;


− Bình định mức 100 mL;

− Dung dịch Thymolphthalein (TP)

− Pipet;

− Dung dịch BromoCresol Green
(BCG)

Qui trình tiến hành
Bước 1. Hòa tan mẫu và đuổi CO2
Thêm đúng 10,00 mL dung dịch HCl nồng độ khoảng 1 mol/L (xem trị số chính
xác này được ghi trên nhãn của lọ) vào mẫu bột mài có trong cốc được đậy bằng
mặt kính đồng hồ thủy tinh (mọi thao tác phải chính xác: lấy dung dịch bằng
một pipet! Không được bỏ nắp đậy cốc ra để tránh thất thoát hóa chất!). Sau
giai đoạn thoát khí mạnh kết thúc, dùng bếp điện cẩn thận đun nóng dung dịch
trong cốc (vẫn phải đậy cốc bằng mặt kính đồng hồ) tới khi hết khí thoát ra. Tiếp
đến, đun cẩn thận dung dịch còn lại trong cốc cho sôi trong khoảng 2-3 phút.
Bước 2. Kết tủa canxi
Nhấc cốc khỏi bếp điện. Dùng nước cất rửa phần hơi nước ngưng tụ ở mặt kính
đồng hồ cho chày vào cốc. Dùng ống đong lấy 1-2 mL dung dịch K 2C2O4 15%. Cho
từ từ lượng này theo thành vào cốc (mất khoảng 10 đến 20 phút) cho tới lúc kết tủa

12


hoàn toàn. Dùng khoảng thời gian chờ đợi này để xác định nồng độ chính xác của
dung dịch NaOH (theo phương pháp dưới đây).
Bước 3. Xác định nồng độ chính xác của dung dịch NaOH
Dùng một pipet lấy 10,00 mL dung dịch HCl rồi cho vào bình định mức 100 mL,

thêm nước cất cho đến vạch, lắc bình để trộn đều. Rót dung dịch NaOH đầy buret.
Dùng pipet lấy 10,00 mL dung dịch HCl trong bình định mức cho vào một bình
hình nón (Erlenmeyer). Thêm vào erlenmeyer này 1-2 giọt dung dịch
Thymolphthalein rồi chuẩn độ bằng dung dịch NaOH tới khi màu xanh xuất hiện
trên vòng xoáy của dung dịch và bền chỉ trong khoảng 5 - 10 giây.
Tại đây và phần sau: Hãy lặp sự chuẩn độ ở mức độ cần thiết. Cần lưu ý rằng trị
số thể tích dung dịch cần dùng nhiều nhất và ít nhất chỉ cách nhau có 0,10 mL. Số
liệu thể tích dung dịch báo cáo có độ chính xác tới 0,01 mL.
3.1a Hãy điền đầy đủ vào bảng trong Phiếu trả lời.
3.1b Hãy tính nồng độ của dung dịch NaOH (theo mol/L).
Bước 4. Lọc bỏ canxi oxalat
Sau khi kết tủa được hầu hết CaC 2O4, dùng phễu lọc dung dịch vào bình định mức
100 mL. Nước lọc này hơi bị đục do có mặt lượng nhỏ canxi oxalat nhưng không
gây ảnh hưởng tới việc chuẩn độ. Dùng nước cất rửa sạch kết tủa rồi bỏ giấy lọc có
kết tủa vào thùng đựng rác. Thêm nước cất vào bình đựng nước lọc cho tới vạch và
lắc đều.
Bước 5. Chuẩn độ mẫu dùng Bromocresol Green
Dùng pipet lấy 10,00 mL nước lọc thu được sau bước 4 cho vào một Erlenmeyer
rồi thêm tiếp vào đó 3 giọt dung dịch BCG. Hãy chuẩn bị một Erlenmeyer khác có
dung dịch đối chứng gồm 3 giọt dung dịch NaH2PO4 15%, 3 giọt dung dịch BCG
và 15-20 mL nước cất. Dùng dung dịch NaOH chuẩn độ dung dịch nước lọc tới khi
màu của dung dịch này trùng với màu của dung dịch đối chứng thì dừng.
3.2 Hãy điền đầy đủ vào bảng trong Phiếu trả lời.
Bước 6. Chuẩn độ mẫu dùng Thymolphthalein

13


Dùng pipet lấy 10,00 mL nước lọc thu được sau bước 4 ở trên cho vào một
Erlenmeyer rồi thêm tiếp vào đó 2 giọt dung dịch TP. Dùng dung dịch NaOH

chuẩn độ dung dịch nước lọc đó tới khi màu xanh xuất hiện và bền trong khoảng 5
– 10 giây thì dừng.
3.3 Hãy điền đầy đủ vào bảng trong Phiếu trả lời.
Bước 7. Các tính toán
3.4. Hãy tính khối lượng của CO32- trong mẫu đã dùng.
3.5. Hãy tính khối lượng của HPO42- trong mẫu đó.
Bước 8. Các câu hỏi thêm cho bài thí nghiệm này
Hãy trả lời các câu hỏi sau đây vào Phiếu trả lời.
3.6a. Hãy chỉ ra một phản ứng (viết phương trình) làm cản trở sự phân tích mẫu khi
có mặt Ca2+.
3.6b. Danh mục các lỗi có thể phạm phải ở các bước khác nhau được nêu ra trong
bảng của Phiếu trả lời. Hãy chỉ ra trong số đó những lỗi nào dẫn đến sai số khi xác
định hàm lượng của CO32- và/hoặc HPO42-. Hãy dùng các kí hiệu sau đây: “0” nếu
không có sai số như được dự đoán, “ + ” hoặc “ – ” nếu có sai lệch nhiều hơn (sai
số dương) hoặc sai lệch ít hơn (sai số âm) so với thực tế.

Bài 4. Chuẩn độ complexon;
Ví dụ của sự xác định ion kim loại dùng phép đo complexon.
Lý thuyết
Nồng độ ion Ni2+ có thể được xác định bằng sự tạo phức với EDTA
(etylendiamin tetraaxetat).
EDTA là một ligand nhiều răng tạo phức 1: 1 với ion Ni 2+. Chất chỉ thị là
murexide cũng có thể tạo phức với ion Ni2+ nhưng phức này không bền bằng
EDTA. Mục đích của thí nghiệm này là để xác định lượng nước kết tinh trong
niken sunfat.
Hóa chất cần thiết:

Mã an toàn:

14



Niken sunfat (300 mg)

R 20/21/22, 42/43, 45, 46 S 26, 27, 28, 36/37/39, 45

Dung dịch EDTA tiêu chuẩn
Chất chỉ thị murexide

R 22 S 36

R - S 22, 24/25

Ammoni clorua (3 g)

R 22, 36 S 22

Ammoniac đậm đặc (20 mL)
Dụng cụ cần thiết:
− Cân
− Cốc đong 100 mL
− Bình tam giác
− Bộ thiết bị chuẩn độ
Tiến hành
Cân chính xác khoảng 300 mg niken sunfat và hòa tan vào nước. Dùng
cốc đong 100 mL.
Điều chế dung dịch đệm bằng cách hòa tan 2,7 g ammoni clorua và 17,5
mL ammoniac đậm đặc trong 50 mL nước. Đổ đầy dung dịch EDTA tiêu chuẩn
0,01 M vào một buret. Dùng pipet lấy 10,00 mL dung dịch niken sunfat cho vào
cốc hình nón 200 mL và pha loãng với khoảng 90 mL nước. Vừa thêm vừa

khuấy đều 10 mL dung dịch đệm vào cốc hình nón. Thêm một ít chất chỉ thị
murexide rắn và đảm bảo tan hết. Chuẩn độ với dung dịch EDTA đến khi đổi
màu từ vàng sang tím. Khi màu đổi chậm, thêm một ít ammoniac đậm đặc lúc
cuối chuẩn độ. Thí nghiệm này cần được thực hiện hai lần.
Ghi lại các số liệu sau:
1. Lượng dung dịch EDTA theo mL. Cũng ghi lại chính xác độ chuẩn của dung dịch.
2. Khối lượng niken sunfat.xH2O.
3. Tính nồng độ Ni2+ trong dung dịch.
4. Tính số mol nước kết tinh trong một mol niken sunfat.

15


Bài 5. Phân tích định tính các hợp chất hữu cơ
Ở thí nghiệm này bạn phải nhận biết 7 chất rắn chưa biết ghi trong danh sách
các chất ở trang 7, chúng là các thuốc phổ biến trong cuộc sống hằng ngày và là
các tác nhân hữu ích trong hóa hữu cơ. Để đạt điều này, phải tiến hành các phản
ứng hoá học theo qui trình sau và phân tích kết quả thu được.
-

Các lọ dán nhãn chất chưa biết như:
Lọ U-1, Lọ U-2, Lọ U-3, Lọ U-4, Lọ U-5, Lọ U-6, Lọ U-7

Phản ứng thử 1: Thử tính tan
Lắc ống nghiệm với CH3CN, 1M HCl, nước và 1M NaOH.
Phản ứng thử 2: thử với 2,4-DNPH
Hòa tan một chất chưa biết với 95% EtOH và thử với dung dịch của 2,4dinitrophenylhydrazin trong axit sunfuric đặc và 95% ethanol (2,4-DNPH).
Phản ứng thử 3: thử với CAN
Trộn dung dịch Xeri(IV) ammoni nitrat trong HNO 3 loãng (kí hiệu nhãn là
CAN) với CH3CN được hỗn hợp. Cho chất chưa biết vào dung dịch hỗn

hợp. Nếu có sự đổi màu dung dịch, thì dung dịch này có thể chứa ancol,
phenol hoặc andehit.
Phản ứng thử 4: Phép thử Baiơ (Baeyer)
Trong ống nghiệm, hòa tan chất chưa biết với CH3CN. Vừa lắc vừa cho từ
từ vào dung dịch thử 5 giọt dung dịch 0.5% KMnO4.
Phản ứng thử 5: Thử pH
Trong ống nghiệm, hoà tan chất chưa biết với 2 ml 95% EtOH. Dùng giấy
pH để đo pH của dung dịch.
Phản ứng thử 6: thử với sắt (III) clorua
Lấy dung dịch thu được từ Phản ứng thử 5 và cho 5 giọt dung dịch 2.5%
FeCl3.

16


Thiết bị và Hóa chất tiến hành
THIẾT BỊ

HÓA CHẤT

− Cân

− 7 chất chưa biết

− Phễu lọc;

− HCl 1M;

− Cốc 100 mL;


 NaOH 1M;

− Ống nghiệm;

− Nước cất

− Thìa;

− Dung dịch KMnO4;
− CH3CN;
− Dung dịch CAN
− 2,4 – DNPH
 Dung dịch FeCl3 2,5%
 C2H5OH
 Giấy pH

Qui trình tiến hành
Các lời khuyên hữu ích
a) Trọng lượng của thìa (spatula) lấy đầy chất khoảng 15~20 mg.
b) Lau kĩ thìa bằng giấy lau sau khi dùng lấy chất.
c) Sau khi cho bất kì tác nhân nào miêu tả dưới đây vào dung dịch của mẫu
chưa biết, phải trộn kĩ và quan sát thận trọng hỗn hợp thu được.
d) Để nhận điểm tối đa, phải tiến hành tất cả các phản ứng thử và ghi vào bảng.
Phản ứng thử 1: Thử tính tan
Cho vào ống nghiệm một thìa đầy chất (15~20 mg) chưa biết và1 ml of
CH3CN. Lắc ống nghiệm và ghi lại tính tan. Lặp lại thí nghiệm với 1M HCl,
nước và1M NaOH.
Phản ứng thử 2: thử với 2,4-DNPH
Cho khoảng 15~20 mg một chất chưa biết vào ống nghiệm và hòa tan với 2
ml 95% EtOH (đối với các chất tan được trong nước, thì lấy khoảng15~20

mg hoà vào trong 1 ml nước). Cho vào 5 giọt dung dịch của 2,417


dinitrophenylhydrazin trong axit sunfuric đặc và 95% ethanol (kí hiệu nhãn
là 2,4-DNPH).
Phản ứng thử 3: thử vớiCAN
Trộn 3 ml dung dịch Xeri(IV) ammoni nitrat trong HNO3 loãng (kí hiệu
nhãn là CAN) với 3 ml CH3CN trong ống nghiệm. ở ống nghiệm khác cho
khoảng 15~20 mg chất chưa biết vào 1 ml dung dịch hỗn hợp. (đối với chất
tan trong nước, thì đầu tiên hoà khoảng 15~20 mg mẫu trong 1 ml nước, và
sau đó cho thêm 1 ml thuốc thử CAN. Nếu có sự đổi màu dung dịch, thì
dung dịch này có thể chứa ancol, phenol hoặc andehit.
Phản ứng thử 4: Phép thử Baiơ (Baeyer)
Trong ống nghiệm, hòa tan khoảng 15~20 mg chất chưa biết với 2 ml
CH3CN (Đối với chất tan được trong nước, thì hoà khoảng 15~20 mg chất
với 1 ml nước). Vừa lắc vừa cho từ từ vào dung dịch thử 5 giọt dung dịch
0.5% KMnO4.
Phản ứng thử 5: Thử pH
Trong ống nghiệm, hoà khoảng 15~20 mg chất chưa biết với 2 ml 95%
C2H5OH (Đối với chất tan được trong nước, thì hoà khoảng 15~20 mg chất
với 1 ml nước. Dùng giấy pH để đo pH của dung dịch
Phản ứng thử 6: thử với sắt (III) clorua
Lấy dung dịch thu được từ Phản ứng thử 5 và cho 5 giọt dung dịch 2.5%
FeCl3.
Ghi kết quả
1. Ghi các kết quả thử vào tờ Phiếu Trả lời. Viết O nếu tan, còn X nếu không tan
đối với phản ứng thử tính tan. Viết (+) đối với phản ứng dương tính, còn (–) cho
phản ứng âm tính đối với các phản ứng thử 2 ~ 4 và 6. Viết a, b và n tương ứng
với dung dịch có tính axit, bazơ hoặc trung tính, còn pH với phản ứng thử 5.
2. Dựa trên kết quả thử, hãy cho biết cấu tạo phù hợp của các hợp chất chưa

biết, suy từ các chất đã cho trong danh sách. Viết chất này vào ô thích hợp.
Các hợp chất chưa biết có thể là
18


COOH

O

HO

OH
HO

HO

NH2
(A)

HO

OCH3

OCH3
(E)

OH
NH2

HCl


OH

(F)

(G)

H
CH3
O

CH3
OH

COOH
H3C
(K)

CH3

N
(Q)

CHO

CH3
O

HO


HCl

H3CO

(M)

H
N

N

HO

OH
OCH3

HO
OCH3

(T)

O
(W)

(V)

Bài 6. Sắc kí trao đổi ion các aminoaxit
Trao dổi ion là một phương pháp phân tích và điều chế quan trọng cho phép
phân tách các chất mang điện. Sự tương tác giữa các nhóm ion của chất với các
gốc gắn trên nhựa là cơ sở của phương pháp này. Ở bài này, phải phân tách một

hỗn hợp các aminoaxit, tiếp theo thử định tính từng loại aminoaxit được tách ra
từ cột bằng phản ứng màu đặc trưng. Do thí sinh phải sắp hàng đo phổ nên
chúng tôi đề nghị bạn hãy bắt đầu với bài thực hành số 1.
O
N

O
OH

NH2

N
H

His

HS

NH2
OH

HN

O

NH

OH

NH2


Cys

NH2

Arg

Cho một hỗn hợp gồm ba aminoaxit: histidin, cystein và arginin (xem cấu trúc
trên). Polistyren liên kết chéo bởi gốc sunfat là nhựa trao đổi cation (xem sơ đồ

19


dưới đây). Trước khi thí nghiệm cột sắc kí trao đổi ion đã được nhồi sẵn và cân
bằng với Dung dịch rửa giải 1 (pH 4,9).
Qui trình tiến hành
Tiến hành sắc kí. Bước 1.
Đưa dung dịch các aminoaxit lên cột sắc kí.
Đầu tiên, mở khóa để cho dung môi trong cột chảy xuống bình tam giác
(Erlenmeyer) có ghi “Chất thải” sao cho dung môi vẫn còn nằm trên bề mặt
chất nhồi và tránh không để cho nó bị khô. Đóng khóa lại và thận trọng dùng
một syranh cho dung dịch phân tách lên cột. Mở khóa và để cho dung dịch này
ngấm vào chất nhồi (xả dung môi vào bình “Chất thải”). Đóng khóa cột và cẩn
thận mở (nhả) từ từ kẹp ống để cho chảy vào khoảng 1 mL Dung dịch rửa giải 1
(ứng với ~ 1 cm của chất lỏng trên cột). Dùng hai tay nối chặt đầu nối có nhám
trong (nhám cái) ở đầu cột vào đầu nối có nhám ngoài (nhám đực) ở đầu ống
dẫn dung dịch rửa giải 1 (xem kỹ việc nối chặt đầu thủy tinh với cột). Bỏ bình
“Chất thải” ra và thay vào các ống nghiệm trên giá. Mở từ từ kẹp ống và mở
khóa để dung dịch rửa giải chảy xuống qua cột. Bắt đầu quá trình rửa giải (luôn
mở khóa cột khi bắt đầu rửa giải và đóng khóa lại khi ngừng rửa).

Thu gom các phân đoạn vào ống nghiệm, lấy khoảng 2,5 mL (xem mũi tên ở sơ
đồ). Nếu thấy cần thì dùng bút dạ đánh dấu. Sau khi gom được từ 4 đến 8 ống,
ngừng rửa giải và sau đó phân tích định tính các mẫu (phân đoạn) thu được.

20


ống
kẹp ống
đầu nối nhám
ngoài

đầu nối
nhám trong

dung dịch rửa giải

lớp dung
môi
nhựa trao đổi
ion
Khóa cột

Định tính các mẫu thu được
Định tính các aminoaxit dựa trên phản ứng của nhóm α-amino với natri 2,4,6trinitrobenzen sunfonat (TNBS):

NH2
HOOC
R


+

+
O
Na
O S

O 2N

NO 2
HOOC

NH

NO 2

NO 2

R

O

+

NaHSO3

O 2N

NO 2


Định tính được thực hiện trong các lỗ của tấm nhựa polistyren, mỗi lỗ tương
ứng với mỗi ống nghiệm xác định. Trước khi thử, đầu tiên hãy trộn 1 mL dung
dịch TNBS với 10 mL dung dịch đệm cacbonat và sau đó cho 0,1 ml hỗn hợp
thu được vào một nửa các lỗ trên tấm nhựa (từ A1 đến H5). Tiếp theo, cho 0,1
mL của phân đoạn cần phân tích vào lỗ. Bắt đầu thử với A1, và tiếp tục với B1,
C1, v.v. (di chuyển từ trên xuống và từ trái sang phải). Nếu aminoaxit có mặt

21


trong phân đoạn phân tích thì màu vàng đậm sẽ xuất hiện trong lỗ trong khoảng
3 phút. Lấy màu trong lỗ đầu làm chuẩn để đối chiếu. Để đánh giá đúng màu,
bạn nên để tấm nhựa lên tờ giấy trắng.
Lưu ý: Dùng pipet máy để lấy tất cả các chất lỏng mà có thể tích 0,1 mL. Bạn
nên dùng một đầu hút nhựa cho tất cả các phân đoạn có một chất (đỉnh).
6.1a Đánh dấu mô tả sơ lược cường độ màu (định tính) trên tấm nhựa (có lỗ ) vào
Phiếu Trả lời. Dùng các kí hiệu sau: (-)- không màu, 1-màu yếu, 2- màu vừa phải
và 3- màu mạnh. Tiếp tục đánh dấu sự mô tả này trong quá trình sắc kí.
Tiếp tục rửa giải để thu các phân đoạn và phân tích chúng cho đến khi bạn nhận
được ít nhất 2 lỗ có màu như ở lỗ A1, điều này chỉ ra rằng aminoaxit thứ nhất
đã hoàn toàn ra hết khỏi cột (kết thúc đỉnh (peak) thứ nhất).
Tiến hành sắc kí. Bước 2.
Ngay sau khi kết thúc thu gom đỉnh (peak) thứ nhất, bạn phải thay Dung dịch
rửa giải thứ 2. Để làm điều này, hãy đóng khóa cột, đóng (vặn chặt) kẹp ống
dẫn (Quan trọng !), tháo ống dẫn đang nối với chai đựng Dung dịch rửa giải
thứ 1 và nối nó với chai đựng Dung dịch rửa giải thứ 2. Giữ chặt đầu nối nhám
ở đầu cột.
6.1b. Khi các Dung dịch rửa giải được thay đổi, hãy đánh dấu bằng cách vẽ
các đường thẳng nằm giữa các lỗ tương ứng ở tấm nhựa.
Tiếp tục rửa giải, thu các phân đoạn và phân tích định tính chúng như đã miêu

tả ở trên.
Tiến hành sắc kí. Bước 3.
Ngay sau khi kết thúc thu gom đỉnh (peak) thứ 2, bạn phải thay Dung dịch rửa
giải thứ 3 như đã miêu tả ở bước 2. Tiếp tục sắc kí cho đến khi aminoaxit thứ 3
hoàn toàn ra khỏi cột.
Dừng quá trình sắc kí bằng cách đóng khóa cột và vặn chặt kẹp ống.
Dựa vào kết quả phân tích định tính, hãy chọn những phân đoạn có chứa các
aminoaxit.

22


6.1.c Hãy điền vào Phiếu Trả lời nhãn ghi (số thứ tự) của các lỗ ứng với các
phân đoạn đã chọn ở trên.
6.2 Gộp lại các phân đoạn có cùng một đỉnh và dùng ống đong để đo thể tích
của từng phân đoạn gộp. Báo cáo thể tích của các phân đoạn đã gộp ngoại trừ
lượng đã dùng cho phân tích định tính. Ghi các kết quả thu được vào Phiếu
Trả lời.
Rót các phân đoạn gộp vào lọ thủy tinh nâu có ghi nhãn “Peak 1”, “Peak 2”
“Peak 3”. Chuẩn bị các mẫu để phân tích định lượng trên máy quang phổ như
mô tả dưới đây.
Khi kết thúc bài thi thực hành, hãy nút các lọ và để chúng trên bàn. Các
phân đoạn gom sau đó sẽ được nhân viên phòng thí nghiệm phân tích kiểm
tra lại.
Phân tích quang phổ
Đối với mỗi mẫu, bạn cần phải đưa 2 cuvet cho người đo mẫu. Chuẩn bị mẫu
như sau.
Quan trọng! Khi bảo quản, luôn để cuvet trong hộp! Tất cả các cuvet có 2
mặt hông và 2 mặt trơn nằm thẳng đứng dùng để đo. Khi dùng cuvet, không
được chạm vào mặt dùng để đo, nếu không bạn sẽ thu được giá trị mật độ

quang sai.
Phép thử số 1(đỉnh 1). Nồng độ cystein được xác định bằng phản ứng Ellman:
NO2

-

O
O

O

O

+
NH3

+
SH

-

-

O

O

S

S


OH

-

+

H3N

-H2O

O

S
-

O

NO2

23

O

O

O-

S-


S

O-

+
NO2

NO2


Ống nghiệm A1 (ống đối chiếu). Cho 0,1 mL Dung dịch rửa giải 1 lấy từ ống
nhựa nhỏ vào một ống nghiệm và cho thêm vào 2.9 mL tác nhân Ellmann.
Ống nghiệm B1 (ống mẫu phân tích). Cho 0,1 ml dung dịch phân tích vào một
ống nghiệm và cho thêm vào 2.9 mL tác nhân Ellmann.
Trộn đều các ống nghiệm và chuyển mỗi hỗn hợp sang các cuvet tương ứng có
ghi A1 (cho mẫu đối chiếu) và B1 (cho mẫu phân tích).
Mẫu thử số 2 (đỉnh 2). Xác định nồng độ histidin dựa trên khả năng của gốc
imidazol phản ứng với các hợp chất diazo (phản ứng Pauli).
Ống nghiệm A2 (ống đối chiếu). Cho 2,8 mL dung dịch đệm Tris-HCl vào một
ống nghiệm, cho thêm vào 0,1 mL Dung dịch rửa giải 2 lấy từ ống nhựa nhỏ và
0,1 mL tác nhân Pauli.
Ống nghiệm B2 (ống mẫu phân tích). Cho 2,8 mL dung dịch đệm Tris-HCl vào
một ống nghiệm, tiếp theo cho thêm 0,1 mL dung dịch cần phân tích và 0,1 mL
tác nhân Pauli.
Trộn đều các ống nghiệm và chuyển mỗi hỗn hợp sang các cuvet tương ứng có
ghi A2 (cho mẫu đối chiếu) và B2 (cho mẫu phân tích).
Mẫu thử số 3 (đỉnh 3). Xác định nồng độ của arginin dựa trên khả năng của
gốc guanidin phản ứng với một số phenol trong điều kiện kiềm và chất oxi hóa
(phản ứng Sakaguchi).
Ống nghiệm A3 (ống đối chiếu). Cho 0,1 mL Dung dịch rửa giải 3 vào một ống

nghiệm, tiếp theo cho thêm 1,5 mL dung dịch NaOH 10%, 1 mL dung dịch 8hydroxiquinolin và 0,5 mL dung dịch natri hypobromua.
Ống nghiệm B3 (ống mẫu phân tích). Cho 0,1 mL dung dịch phân tích vào một
ống nghiệm, tiếp theo cho thêm 1,5 mL dung dịch NaOH 10%, 1 mL dung dịch
8-hydroxiquinolin và 0,5 mL dung dịch natri hypobromua.
Lắc mạnh các ống nghiệm trong 2 phút (Quan trọng!) và quan sát sự tạo thành
màu vàng cam. Cho 0,2 mL dung dịch urê 8 M vào mỗi ống, trộn kỹ và lấy

24


×