Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

ĐẶC ĐIỂM ĐẤT NỀN CỦA KHU VỰC QUẬN 7 VÀ NHỮNG BIẾN ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ĐỊA CHẤT DO ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘNG ĐẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.78 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KỸ THUẬT ĐỊA CHẤT & DẦU KHÍ
BỘ MÔN ĐỊA MÔI TRƯỜNG

GEOPET

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẶC ĐIỂM ĐẤT NỀN CỦA KHU VỰC QUẬN 7 VÀ
NHỮNG BIẾN ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ĐỊA CHẤT DO
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘNG ĐẤT

CBHD: PGS.TS. Nguyễn Việt Kỳ
SVTH: Nguyễn Trung Nguyên

TP. Hồ Chí Minh, 12/2011
-1-


MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết, động đất thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng
cho con người và môi trường sống. Động đất có thể gây ra lở đất, nứt đất, sóng
thần, nước triều giả, đê vỡ và hỏa hoạn. Tuy nhiên, trong hầu hết các trận động đất,
sự chuyển động của mặt đất gây ra nhiều thiệt hại nhất.
Việt Nam được biết đến như một đất nước tiềm ẩn hiểm họa động đất khá
cao. Những trận động đất mạnh nhất với magnitude đạt tới 6,7÷6,8 độ richter và
tương đương đã được ghi nhận trong lịch sử, các trận động đất mạnh này thường
xảy ra ở miền Tây Bắc lãnh thổ. Còn ở ngoài khơi, trên vùng thềm lục địa Đông
Nam của đất nước, động đất ghi nhận được, cũng đạt tới magnitude 6,1 độ richter
(động đất Hòn Tro năm 1923).


Phần phía Nam của đất nước ta cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng của
động đất. Hai trận động đất xảy ra gần đây nhất là những minh chứng cụ thể nhất
cho nhận định này. Ngày 8 tháng 11, một trận động đất có độ lớn là 5,1 độ richter
đã xảy ra ở vùng biển gần Vũng Tàu. Cùng ngày, một trận động đất lớn hơn có độ
lớn là 5,5 độ richter lại xảy ra tại ngoài khơi Nam Trung Bộ. Hai trận động đất này
đều có độ lớn trung bình và chấn động mà chúng tác động tới các khu vực đô thị
chỉ lên tới cấp 5 tại Vũng Tàu và cấp 3 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Từ những ví dụ nêu trên, việc nghiên cứu và dự báo các trận động đất có thể
xảy ra, cùng với cấp độ của chúng là rất cần thiết và cấp bách, ngoài việc bảo vệ
tính mạng con người và tài sản còn góp phần phục vụ cho sự phát triền bền vững
cho thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Quận 7 nói riêng.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Thu thập, tổng hợp các tài liệu về Địa chất, Địa chất công trình, Địa chất
thủy văn để xác định rõ đặc điểm đất nền của khu vực Quận 7.
-2-


Tính toán, xử lý số liệu từ các giá trị SPT (theo Seed 1976) nhằm đánh giá
khả năng trượt lở và hóa lỏng nền trước khi có động đất xảy ra.
III. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT:
Nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân và dự báo những biến đổi môi trường địa
chất trước khi có động đất xảy ra.
IV. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
Nghiên cứu và làm sáng tỏ đặc điểm đất nền của khu vực Quận 7 và dự báo
những tai biến địa chất trước khi có động đất xảy ra.

-3-


CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI

1. Đặc điểm Tự nhiên:
1.1. Vị trí đia lý:
Được thành lập từ ngày 01/04/1997, Quận 7 ngày nay được trích từ phần đất phía Bắc
của huyện Nhà Bè, bao gồm thị trấn Nhà Bè và 5 xã lân cận, với diện tích là 3.574 ha. Quận 7
nằm phía Nam nội thành cách biển Đông khoảng 40km.
Quận 7 gồm có các phường như: Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Hưng, Tân
Kiểng, Tân Quy, Bình Thuận, Phú Mỹ, Tân Phong, Tân Phú, Phú Thuận.
▪ Phía Bắc giáp Quận 4 và Quận 2, ranh giới là kinh Tẻ và sông Sài Gòn.
▪ Phía Nam giáp huyện Nhà Bè, ranh giới là rạch Đĩa và sông Phú Xuân.
▪ Phía Đông giáp Quận 2 và tỉnh Đồng Nai, ranh giới là sông Sài Gòn, sông Nhà Bè.
▪ Phía Tây giáp Quận 8 và huyện Bình Chánh, ranh giới là rạch Ông Lớn.
Tọa độ địa lý: 10042 → 10046 vĩ tuyến Bắc.
106042 → 106046 vĩ tuyến Đông.

Hình 1.1: Bản đồ hành chính Quận 7.

-4-


1.2. Đặc điểm địa hình:
Quận 7 là đồng bằng tích tụ cửa sông, có bề mặt hơi trũng, bị mạng lưới kênh rạch
chia cắt mạnh mẽ. Độ cao tuyệt đối của đồng bằng dao động từ 0,5÷2m, trung bình
1÷1,5m. Thành phần trầm tích cấu tạo nên đồng bằng bao gồm cát bột, sét bột, đôi chỗ
lẫn mùn thực vật màu xám đen. Ngoài việc ảnh hưởng của các sông, đồng bằng còn chịu
ảnh hưởng đáng kể của thủy triều, đất bị phèn, mặn theo mùa.
1.3. Hệ thống sông suối:
Đặc trưng của Quận 7 là rất nhiều sông rạch trong đó có các sông rạch lớn bao
quanh như: sông Sài Gòn, sông Nhà Bè, sông Ông Lớn, sông Phú Xuân, kinh Tẻ, rạch
Rơi, rạch Cả Cấm và mạng lưới kênh rạch nhỏ. Diện tích mặt nước trong Quận có 1.019
ha, chiếm 28,5% diện tích tự nhiên của Quận, trong đó chủ yếu là mặt nước trên sông

Nhà Bè và sông Sài Gòn. Tất cả các sông, rạch đều chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật
triều và bị nhiễm mặn.
Sông Sài Gòn là con sông lớn thứ hai của vùng Đông Nam Bộ, bắt nguồn từ biên
giới Việt Nam – Campuchia, có tổng diện tích lưu vực khoảng 5.400km2 với chiều dài từ
thượng nguồn đến ngã ba sông Nhà Bè là 200km và tổng lượng nước bình quân là
270.000m3, với địa hình lưu vực khác bằng bằng, những nhánh sông hở ăn thông với hệ
thống kinh Cầu Sáng, An Hạ nên ít nhiều bị ảnh hưởng của vùng đất bị nhiễm phèn Đức
Hòa, Đức Huệ hay vùng đất trũng Tân Bình (Tp.HCM).
Dao động mực nước vùng cửa sông Sài Gòn chịu ảnh hưởng của thủy triều bán
nhật Biển Đông, hàng tháng có hai kỳ triều cường và hai kỳ triều kém. Vào kỳ triều
cường, hàng ngày dao động mực nước lên xuống hai lần, có hai đỉnh và hai chân. Vào kỳ
triều kém, hàng ngày dao động mực nước lên xuống một lần, có một đỉnh và một chân.
Vận tốc dòng chảy dao động bốn lần lên xuống hàng ngày, kể cả những ngày triều
kém, mực nước chỉ một lần lên một lần xuống, gồm hai lần lên xuống liền nhau có biên
độ lớn gần bằng nhau tương ứng với dao động xuống lên của mực nước lúc chân ròng
thấp và hai lần lên xuống liền nhau có biên độ thấp hơn tương ứng dao động xuống lên
lúc chân ròng cao. Vận tốc dòng chảy vào những ngày triều cường cũng cao hơn những

-5-


ngày triều kém. Vận tốc dòng chảy tại đỉnh triều hầu như bằng không, trong khi vận tốc
tại các chân triều không bằng không.
1.4. Đặc điểm khí tượng:
1.4.1. Nhiệt độ:
▪ Nhiệt độ trung bình năm là: 27,550C.
▪ Nhiệt độ trung bình cao nhất là: 28,900C.
▪ Nhiệt độ trung bình thấp nhất là: 25,700C.
Tháng
Nhiệt độ

0C

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

25,7

26,7


27,8

28,9

28,2

27,4

27

27

26,7

26,6

26,3

25,7

Bảng 1.1: Nhiệt độ trung bình theo tháng.
(Nguồn: Phân Viện Khí Tượng Thủy Văn & Môi Trường Phía Nam)

Hình 1.2. Biểu đồ Nhiệt độ trung bình trong năm.

1.4.2. Chế độ mưa và Độ bốc hơi:
Chế độ mưa:
Do sự chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên ở Tp.HCM có sự phân mùa rõ
rệt, trong năm có hai mùa tách biệt, mùa khô kéo dài đến tháng 4 và trong thời gian này
lượng mưa không đáng kể.


-6-


Thời gian bắt đầu mưa sớm nhất đến vùng có mưa muộn nhất (Cần Giờ) gần hai
tháng. Thời gian kết thúc mùa mưa có xu thế ngược với thời gian bắt đầu mưa. Nơi nào
có mưa sớm nhất lại kết thúc muộn và nơi bắt đầu muộn lại kết thúc sớm. Như vậy, vùng
Cần Giờ (Tp.HCM) có mùa mưa thấp nhất chỉ 150 ngày, vùng Quận 7 có thời gian vào
khoảng 180 ngày.
Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10


11

12

TB

Lượng mưa
mm/tháng

13,8

4,4

11,4

50,2

218,6

313,4

295,2

268,5

330,3

264,3


14,4

50,7

165,7

Bảng 1.2: Lượng mưa trung bình theo tháng tại trạm Tân Sơn Nhất.
(Nguồn: Phân Viện Khí Tượng Thủy Văn & Môi Trường Phía Nam)

Độ bốc hơi:
Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9


10

11

12

TB

Độ bốc hơi
mm

4,2

5,1

5,7

5,3

3,5

3,1

3,1

3,1

2,5

2,3


2,8

3,3

3,7

Bảng 1.3: Độ bốc hơi trung bình trong tháng tại trạm Tân Sơn Nhất.
(Nguồn: Phân Viện Khí Tượng Thủy Văn & Môi Trường Phía Nam)

Hình 1.3. Biểu đồ Lượng mưa – Độ bốc hơi theo tháng.

Nhìn vào biểu đồ, ta thấy ở các tháng 1, 2, 3, 4, 11 và 12 thì lượng mưa vào độ bốc
hơi xấp xỉ nhau, còn các tháng còn lại thì lượng mưa cao hơi độ bốc hơi rất nhiều.

-7-


1.4.3. Độ ẩm không khí:
Độ ẩm không khí trung bình trong năm là 77,50%.
Độ ẩm tương đối của khu vực dao động trong khoảng từ 75÷85%, cao nhất vào
mùa mưa khoảng từ 83÷87%, thấp nhất vào mùa khô từ 67÷69%. Các tháng có độ ẩm
cao nhất từ tháng 9 và tháng 10, các tháng thấp nhất từ tháng 2 và tháng 3.
Tháng

1

2

3


4

5

6

7

8

9

10

11

12

Độ ẩm
tương đối
%

73,8

71,1

71,0

73,7


80,7

83,7

84,2

84,5

86,0

85,1

81,7

77,8

Bảng 1.4: Độ ẩm tương đối tại trạm Tân Sơn Nhất.
(Nguồn: Phân Viện Khí Tượng Thủy Văn & Môi Trường Phía Nam)

Hình 1.4. Biểu đồ Độ ẩm tương đối theo tháng.

1.4.4. Bức xạ mặt trời:
Tổng số giờ nắng trung bình trong năm là 2.500 giờ.
Theo số liệu điều tra, thời gian có nắng trung bình hàng năm từ 2.000÷2.299 giờ,
hàng ngày có từ 10÷13 giờ có nắng (vào mùa khô) và cường độ chiếu sang vào giữa trưa
có thể tới 100.000 lux.
Cường độ bức xạ trực tiếp vào tháng 2 là 0,72÷0,79 cal/cm2phút, tháng 6 đến
tháng 12 có thể đạt tới 0,42÷0,46 cal/cm2phút vào giữa trưa.
Kết quả đo đạt và tính toán bức xạ tổng cộng trung bình ngày tại Tp.HCM được

đưa ra trong bảng sau:
-8-


Tháng

Bức xạ tổng cộng trung bình ngày
(cal/cm2ngày)

1

343,6

2

401,3

3

449,1

4

428,2

5

354,2

6


371,5

7

368,5

8

364,6

9

344,5

10

337,3

11

324,8

12

334,1

Trung bình năm

363,5


Bảng 1.5: Bức xạ tổng cộng trung bình tại trạm Tân Sơn Nhất.
(Nguồn: Phân Viện Khí Tượng Thủy Văn & Môi Trường Phía Nam)

1.4.5. Chế độ gió:
Trong khu vực nghiên cứu, hướng gió chủ đạo là hướng Tây Nam, từ tháng 5 đến
tháng 9, với tần suất 70%, tốc độ khoảng 1,2÷1,3 m/s. Từ tháng 11 đến tháng 2 (năm sau)
là hướng Đông Bắc có tần suất 60%, với tốc độ khoảng 1,18÷1,44 m/s. Từ tháng 2 đến
tháng 5 có gió Đông Nam, tốc độ gió khoảng 1,36 m/s.

-9-


Trạm
Tân Sơn
Nhất
Giá trị đo

Tần suất gió (%)
N

NE

E

SE

S

SW


W

NW

Lặng gió

6,3

20

7,8

4,5

4,4

16,8

13,0

15,1

11,3

Bảng 1.6: Tần suất gió tại trạm Tân Sơn Nhất.
(Nguồn: Phân Viện Khí Tượng Thủy Văn & Môi Trường Phía Nam)

1.5. Đặc điểm sinh thái:
Hệ thực vật chủ yếu là cây lúa và cây dừa nước sống rất thưa thớt. Hệ động vật rất

nghèo nàn, với các loài động vật nước lợ: tôm, cá… hầu như không có loài chim thú nào
cần bảo vệ.
2. Đặc điểm kinh tế:
Quận 7 được thành lập 01/04/1997 đến nay đã được 14 năm, phải đương đầu với
không ít nhưng khó khăn như cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn rất nhiều thiếu thốn và không
đồng bộ, trình độ dân trí thấp, đời sống vật chất và tinh thần của người dân phần lớn còn
nhiều khó khăn.
So với các quận mới thành lập, thì Quận 7 là quận nhỏ nhất nhưng tốc độ đô thị
hóa của Quận 7 có phần diễn ra mạnh và ồ ạt hơn, về phương diện đất đai, cơ cấu lao
động và mật độ dân số. Tuy nhiên, quá trình hội nhập của người dân trên địa bàn vào đô
thị hóa chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quận còn rất hạn chế do nhiều lý do chủ quan và
khách quan, đặc biệt là người dân không còn đất nông nghiệp do nhu cầu giải tỏa để quy
hoạch khu đô thị Nam Sài Gòn, khu chế xuất Tân Thuận.
■ Các chính sách đầu tư xây dựng Quận:
Quận đã tập trung đầu tư để xây dựng và trang bị cho các ngành giáo dục, y tế, văn
hóa, thể dục thể thao… và quá đó đã đáp ứng được nhu cầu học tập và hưởng thụ ngày
càng tăng của nhân dân địa phương về văn hóa – xã hội qua đó đã nâng trình độ dân trí
bình quân lên lớp 7, đã phổ cập trung học cơ sở 8/10 phường; xây dựng 209 ngôi nhà tình
thương và chống dột cho 249 căn; giải quyết việc làm cho hơn 44.500 lao động, 522 hộ
làm ăn có hiệu quả ra khỏi chương trình xóa đói giảm nghèo, đời sống từng bước được

- 10 -


cải thiện. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng chu đáo hơn. Hệ thống y
tế từ quận đến phường từng bước được hoàn được hoàn chỉnh, 10 trạm y tế phường đều
có bác sỹ.
Quận đã tập trung lãnh đạo và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch để
đảm bảo ổn định chính trị, đấu tranh có hiệu quả chống các loại tội phạm, từng bước giữ
vững trật tự xã hội, nâng cao kỷ cương pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy kinh

tế xã hội của quận phát triển.
Quận thu trên 220 tỷ tiền thuế, đầu tư 18,34 tỷ đồng để thực hiện 105 hạng mục
duy tu đường hẻm nhằm nâng cao điều kiện sống cho nhân dân. Được sự hỗ trợ của
Thành phố để tiến hành đầu tư nâng cấp các tuyến trọng điểm. Cuối năm 2001 đã đồng
loạt khởi công 05 tuyến đường trên địa bàn Quận với tổng vốn đầu tư là 104 tỷ đồng,
trong đó 02 tuyến Bình Thung – Phú Mỹ và Phú Thuận là nhằm phục vụ cho khu quy
hoạch công nghiệp Phú Mỹ đây là điều kiện hết sức cơ bản cho việc phát triển khu vực
này, bởi vì cùng với việc đầu tư nâng cấp đường hiện hữu và nối kết với khu vực hoàn
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng như: hệ thống cấp điện, cấp thoát nước; cầu Kênh Tẻ nối
Quận 4, Quận 1 với Quận 7 và Huyện Nhà Bè đã khởi công, công tác hiệp thương, đền
bù giải tỏa công trình đường Bắc Nam cũng đã được tiến hành hết sức khẩn trương nhằm
đẩy nhanh tiến độ xây dựng tuyến đường trọng yếu này. Để tiến hành đô thị hóa nhanh về
phía Nam các cầu phụ cận như Nhị Thiên Đường 2, Nguyễn Tri Phương, cầu Nguyễn
Văn Cừ… đang và sẽ thi công. Riêng cầu Tân Thuân 2 theo phương thức BOT, dự kiến
công trình sẽ khởi công trong năm 2002 để phục vụ cho cụm Cảng, khu công nghiệp Tân
Thuện; tránh ách tắc lưu thông trong nội thành. Đặc bịêt Thành phố đã có phương án xây
dựng Cầu Phú Mỹ, nối Quận 7 với bán đảo Thủ Thiêm, nối liền với đại lộ Nguyễn Văn
Linh sẽ trở thành con đường trọng yếu cho việc thông thương hành hóa từ đồng bằng
sông Cửu Long và các tỉnh phía Bắc.
Tình hình đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách trên địa bàn Quận cũng hết sức
sôi động. Ngoài Khu Chế xuất Tân Thuận, Quận đã thu hút 114 dự án, giải quyết việc
làm cho hơn 30.000 lao động; khu nhà ở cao cấp Phú Mỹ Hưng, là một điển hình cho
những công trình phát triển đô thị tầm cỡ đang được triển khai ở Châu Á và Đông Nam
- 11 -


Á; trong đó hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, hệ thống viễn thông và văn hóa, giáo
dục hoàn chỉnh với các trường học Nhật Bản, Dân lập Nam Sài Gòn, Hàn Quốc, Trường
Đài Bắc và trường hướng nghiệp Top Globis, bệnh viện Quốc Tế và khu Đại học
RMIT… các dự án đầu tư xây dựng các căn hộ cao cấp, các công trình phụ trợ trong khu

đô thi Nam Sài Gòn. Trong 5 năm, Quận đã thỏa thuận địa điểm đầu tư cho 95 dự án với
diện tích là 263,22 ha. Các dự án xây dựng khu dân cư quy mô lớn được cấp thẩm quyền
giao đất đã bắt đầu triển khai hiệp thương đền bù giải tỏa và đầu tư xây dựng; đối với các
đơn vị đầu tư sản xuất kinh doanh, bên cạnh một số đơn vị đã hoàn tất công tác đầu tư –
xây dựng và đi vào hoạt động mà điển hình là Công ty TNHH Khải Vy với gần 1.000 lao
động làm hàng xuất khẩu sang Mỹ, một số lớn các dự án đầu tư xây dựng nhà xưởng, kho
bãi được thỏa thuận địa điểm trong các năm trước cũng đã hoãn tất các thủ tục về đất đai
và chuẩn bị để triển khai đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động trong năm 2002.
Ủy ban nhân dân Quận cũng đã xúc tiến làm việc một bước với các nhà đầu tư để
kêu gọi đầu tư xây dựng một số nhà cao tầng kết hợp giữa hoạt động thương mại, siêu thị
và nhà ở cho người có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, trên địa bàn Quận còn một số các
công trình văn hóa–thể dục thể thao lớn như khu công viên Mũi đèn đỏ quy mô 60 ha,
khu thể dục thể thao tại Phường Bình Thuận quy mô 10 ha, sân vân động Quận quy mô
11 ha và các công trình thương mại, siêu thị, cơ sở giáo dục – văn hóa – TDTT trong các
khu dân cư mới hình thành đang cần sự đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trong vòng 5 năm, tình hình đầu tư trên địa bàn đã có những bước chuyển lớn. Bên cạnh
việc các chính sách về ưu đãi đầu tư của Nhà nước ngày càng nhiều và theo hướng tạo
điều kiện tốt nhất cho hoạt động của Doanh nghiêp; hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn Quận
được nâng cấp sẽ tạo cơ sở hết sức quan trọng cho việc thu hút và triển khai đầu tư trong
năm 2002 và những năm tiếp theo. Việc triển khai hàng loạt các dự án nhà ở vào những
tháng cuối năm 2001 và các dự án đầu tư vào cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ triển khai
trong năm 2002 là tiền đề cho việc thu hút dân cư, phát triển sản xuất–kinh doanh thương
mại.

- 12 -


■ Các ngành kinh tế của Quận:
Ngành thương mại – dịch vụ:
Ngành thương mại-dịch vụ là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế do

Quận quản lý chủ yếu là mặt hàng phân bón. Tuy nhiên, thời gian qua do tình hình kinh
tế thế giới và khu vực có nhiều biến động, bên cạnh đó chịu tác động bất lợi từ diễn biến
về thị trường và giá cả của một số mặt hàng chiến lược...
Từ năm 2000 số đơn vị đến đăng ký kinh doanh tăng nhanh, Doanh nghiệp hoạt
động thương mại-dịch vụ trên địa bàn đến năm 2004 có 187 đơn vị (tăng gấp 3 lần so với
năm 2003) với tổng vốn đăng ký kinh doanh 239.304 triệu đồng. Trong đó, doanh nghiệp
quốc doanh giảm 01 (Công ty thương mại - dịch vụ Quận 7 ngừng hoạt động vào năm
2000), hợp tác xã biến động liên tục đến năm 2004 có 3 HTX hoạt động (là Quỹ tín dụng
Tân Quy Đông, HTX thương mại - dịch vụ Tân Quy và HTX thương mại - dịch vụ Tân
Kiểng), các loại hình công ty tăng thêm 90 đơn vị (Công ty TNHH tăng 55 đơn vị, công
ty cổ phần tăng 02 đơn vị và doanh nghiệp tư nhân tăng 33 đơn vị, tập trung các lĩnh vực
kinh doanh: vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, máy móc thiết bị, vật tư nông nghiệp,
bách hóa, xăng dầu… Hộ kinh doanh cá thể ngành thương mại - dịch vụ năm 2004 là
3.388 hộ (chiếm gần 95% trên tổng số hộ mới trong năm) tăng 31,57% so với năm 2003,
gấp 4 lần so với năm 2000, bình quân tăng 42,23%/năm với tổng vốn đăng ký kinh doanh
61.423 triệu đồng tăng 81,53% so với năm 2003, gấp 7 lần so với năm 2000, chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực: thương mại,dịch vụ và ăn uống phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng
ngày của người dân. Trong đó, số hộ hoạt động thương mại là 1.749 hộ với tổng vốn
đăng ký kinh doanh là 31.884 triệu đồng; số hộ hoạt động dịch vụ là 950 hộ với tổng vốn
đăng ký là 24.696 triệu đồng; số hộ kinh doanh ăn uống là 689 hộ với tổng vốn đăng ký
kinh doanh là 4.843 triệu đồng.
Hoạt động xuất khẩu cũng không ngừng phát triển từ năm 2000 đền năm 2004 mà
đỉnh điểm là kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp do Quận quản lý năm 2004 đạt
22,479 triệu USD. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm trong thời gian tới,
ước đến cuối năm 2005 chỉ đạt 17,000 triệu USD (nguyên do tình hình xuất khẩu của các
đơn vị chủ lực mang lại kim ngạch cao của Quận gặp khó khăn). Tốc độ tăng trưởng bình
- 13 -


quân hàng năm tăng 16,40%. Ngành chế biến các sản phẩm từ gỗ có kim ngạch xuất khẩu

cao nhất (chủ lực là công ty TNHH Khải Vy) chiếm tỷ trọng 59,87%, kế đến là ngành
giày da (chủ lực là công ty TNHH Đức Thành) chiếm tỷ trọng 30,75% và ngành may mặc
chiếm tỷ trọng 7,08% trên tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn Quận. So với chỉ tiêu
của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần II là kim ngạch xuất khẩu đến năm 2005 đạt
10.000.000 USD thì chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu đến năm 2004 đã vượt và vượt khá cao.

Hình 1.5. Biểu đồ Kim ngạch xuất khẩu qua các năm.

Ngành Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp:
Mặc dù, chịu ảnh hưởng suy thoái kinh tế của khu vực và thế giới với những biến
động bất lợi về thị trường và giá cả nguyên liệu đầu vào của công nghiệp. Nhìn chung,
tình hình hoạt động ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp Quận thời gian qua dần dần
ổn định và phát triển khá tốt.
Năm 2004, tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp do Quận quản
lý đạt 505.583 triệu đồng tăng 17,69% so với năm 2003 và tăng hơn 1,7 lần so với năm
2000, bình quân tăng 20,46%/năm (so với chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận
lần 2 đề ra là ngành Sản xuất công nghiệp tăng 15%/năm thì chỉ tiêu này đến cuối năm
2004 đã đạt và vượt). Ước đến cuối năm 2005, giá trị sản xuất của ngành đạt 479.926
triệu đồng giảm 5,07% so với năm 2004. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp tạo môi
trường đầu tư thông thoáng nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, nhưng do những yếu
tố biến động về giá cả trên thị trường thế giới làm cho sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp có phần chựng lại, tốc độ phát triển năm 2001 tăng 20,44%, hai năm tiếp

- 14 -


theo tiếp tục tăng trưởng với tốc độ tương đối cao năm 2002 tăng 35,26%, năm 2003 tăng
39,36%.

Hình 1.6. Biểu đồ Giá trị sản xuất qua các năm.


Tổng lao động làm việc tại các đơn vị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
trên địa bàn do Quận quản lý đến đầu năm 2005 là 11.413 lao động tăng gần 2 lần so với
năm 2000. Hầu hết các thành phần kinh tế đều tăng thu hút lao động so với năm 2000;
trong đó thành phần doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH, hộ kinh
doanh cá thể, hợp tác xã đều tăng thu hút lao động, riêng thành phần doanh nghiệp Nhà
nước giảm thu hút lao động do thu hẹp hoạt động. Với mức độ tăng sử dụng khác nhau
giữa các thành phần kinh tế như trên làm cho cơ cấu lao động công nghiệp theo các thành
phần kinh tế năm 2005 thay đổi nhiều so với năm 2000, sự thay đổi này diễn ra theo
hướng các công ty TNHH sử dụng lao động tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn (chiếm
75,71%), các thành phần còn lại có tỷ trọng giảm, đặc biệt giảm nhiều nhất là thành phần
doanh nghiệp Nhà nước số lao động sử dụng từ 12,51% đến nay chỉ còn 4,71%.
Ngành Xây dựng:
Giai đoạn 2000 - 2005, quá trình đô thị hoá của Quận diễn ra rất nhanh, bên cạnh
nhiều công trình cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng Quận theo hướng phát triển về phía
Nam của Thành phố được triển khai như: dự án mở rộng đường Huỳnh Tấn Phát, công
trình cầu Tân Thuận 2,...
Với tốc độ phát triển giữa các khu vực khác nhau dẫn đến sự thay đổi tỷ trọng giữa
các ngành trong cơ cấu giá trị sản xuất xây dựng. Quá trình này diễn ra theo hướng tăng

- 15 -


dần tỷ trọng của khu vực dân doanh và giảm dần tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp Nhà
nước trong tổng giá trị sản xuất Xây dựng của Quận. Sự thay đổi diễn ra cụ thể giữa năm
2004 so với năm 2000 như sau: thành phần doanh nghiệp Nhà nước chiếm 31,02% vào
năm 2000 đến năm 2004 giảm xuống chỉ còn chiếm 5,66%; khi đó thành phần dân doanh
năm 2000 chiếm 68,98% thấp hơn tỷ trọng của thành phần doanh nghiệp Nhà nước, tỷ
trọng này tăng dần qua các năm trong cơ cấu giá trị sản xuất Xây dựng Quận đến năm
2004 chiếm 94,34%. Cơ cấu này vẫn được duy trì đến cuối năm 2005.


Hình 1.7. Biểu đồ Giá trị sản xuất Xây dựng qua các năm.

Ngành Vận tải – Bốc xếp:
Với lợi thế về hệ thống giao thông thủy và bộ cùng với hệ thống bến cảng, kho
tàng hoàn chỉnh trên địa bàn đã tạo điều kiện phát triển ngành dịch vụ vận tải - bốc xếp
hàng hóa giữa Quốc tế - Thành phố - các tỉnh lân cận và ngược lại.
Năm 2004, doanh thu ngành thực hiện đạt 406.667 triệu đồng tăng 34,11% so với
năm 2003, tăng gần 3,6 lần so với năm 2000, bình quân tăng 37,6%/năm. Trong những
năm qua tốc độ tăng trưởng doanh thu của ngành liên tục tăng nhưng sự tăng trưởng của
ngành chịu tác động rất lớn từ sự phát triển của các ngành khác (thương mại - dịch vụ,
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp) nên hoạt động kinh doanh của ngành chưa ổn định.
Tốc độ tăng trưởng doanh thu ngành các năm có sự dao động liên tục: năm 2001 tăng
24,70%, năm 2002 tiếp tục tăng 50,40% và năm 2003 tăng chậm lại 26,41%.

- 16 -


Hình 1.8. Biểu đồ thể hiện Doanh thu qua các năm.

Trong cơ cấu doanh thu ngành năm 2004, doanh thu vận tải thực hiện 292.367
triệu đồng, tăng 49,22% so với năm 2003, tăng gần 1,5 lần so với năm 2000, bình quân
tăng 25,69%/năm; doanh thu bốc xếp thực hiện 126.677 triệu đồng tăng 5,01% so với
năm 2003, tăng 10 lần so với năm 2000, bình quân tăng 79,97%/năm. Sự phát triển với
tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2000 - 2004 giữa hai lĩnh vực rất khác nhau làm cho tỷ
trọng của chúng trong cơ cấu doanh thu ngành thay đổi, theo hướng tăng dần tỷ trọng bốc
xếp và giảm dần tỷ trọng vận tải. Đến năm 2004, tỷ trọng vận tải chỉ còn 71,9% giảm so
với năm 2000 (chiếm 91,6%) và bốc xếp tăng lên 27,1% so với 8,4% vào năm 2000.
Hoạt động bốc xếp của Quận do thành phần dân doanh thực hiện, trong đó khu
vực công ty TNHH, công ty cổ phần chiếm tỷ trọng cao nhất 91,17%. Khu vực doanh

nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng7,04% trong cơ cấu doanh thu bốc xếp năm 2003. Riêng
thành phần hợp tác xã mới tham gia vào lĩnh vực này từ năm 2002 và chỉ chiếm tỷ trọng
rất nhỏ 1,79%. Trong lĩnh vực vận tải có sự thay đổi trong cơ cấu doanh thu,thành phần
doanh nghiệp Nhà nước liên tục giảm và đến năm 2002 không còn, nhường chỗ cho khu
vực các loại hình công ty và hợp tác xã hoạt động.
Ngành Nông nghiệp:
Thời gian qua, tốc độ đô thị hóa nhanh của Quận đã ảnh hưởng đến tình hình sản
xuất nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp từ 950 ha năm 1997 giảm xuống
còn 825,88 ha vào năm 2000, đến tháng 01 năm 2005 còn khoảng 340,92 ha chiếm
khoảng 9,55% tổng diện tích toàn Quận (3.569,1 ha).

- 17 -


Người nông dân đã nhận thức được việcđầu tư không hiệu quả nếu chỉ trồng độc
canh cây lúa, chăn nuôi các giống gia cầm, gia súc truyền thống với năng suất thấp không
mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời việc không còn phù hợp với một Quận đô thị.
Do đó, người dân rất đồng tình và hưởng ứng chủ trương chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây
trồng cho phù hợp với vùng đất phèn, mặn thiếu nước ngọt… với cùng diện tích như trên
sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa, bên cạnh đó nhiều người dân chuyển sang
lập vườn trồng các loại cây ăn trái. Ngành chăn nuôi có sự chuyển hướng rõ rệt từ chăn
nuôi gia cầm, heo lấy thịt sang việc sản xuất heo giống. Riêng ngành thuỷ sản giảm mạnh
do diện tích mặt nước bị san lấp thực hiện quy hoạch các dự án cơ sở hạ tầng và các khu
dân cư mở rộng.
Mặc dù, chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa nhưng tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp chỉ giảm nhẹ, năm 2004 tổng giá trịsản xuất nông nghiệp thực hiện đạt 4.663 triệu
đồng giảm 27,88% so với năm 2003 và chỉ bằng 69,62% so với năm 2000, bình quân
giảm 10,63%/năm. Ước giá trị sản xuất ngành nông nghiệp năm 2005 đạt 3.563 triệu
đồng.


Hình 1.9. Biểu đồ Giá trị sản xuất Nông nghiệp qua các năm.

Trong cơ cấu sản lượng nông nghiệp, nghành chăn nuôi vẫn phát triển nhưng với
tốc độ tương đối nhỏ trong khi toàn ngànhnông nghiệp suy giảm. Năm 2004, giá trị
sảnxuất chăn nuôi đạt 4.370,11 triệu đồng giảm 28% so với năm 2003 và giảm 24,88% so
với năm 2000 với tốc độ tăng trưởng bình quân giảm 6,90%/năm tỷ trọng của chăn nuôi
trong cơ cấu tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên từ 86,86% năm 2000 đạt 93,73%
vào năm 2004. Trong khi đó, phân ngành trồng trọt ngàycàng thu hẹp hoạt động với mức
- 18 -


tăng trưởng bình quân âm 24,08%, năm 2004 ước thựchiện đạt 292 triệu đồng giảm
26,16% so với năm 2003 và giảm 66,77% so với năm 2000, từ đó làm cho tỷ trọng sản
lượng trồng trọt thu hẹp và chỉ chiếm 6,27% vào năm 2004 (năm 2000 chiếm 13,14%).
Ước giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2005 đạt 3.563 triệu đồng, trong đó ngành chăn
nuôi ước đạt 3.416 triệu đồng và ngành trồng trọt ước đạt 147 triệu đồng.
3. Đặc điểm xã hôi:
3.1. Dân cư:
Kể từ khi được thành lập (04/1997) với dân số là 90.920 nhân khẩu, nhưng chỉ sau
gần 1 năm (12/1997) theo thống kê của quận, dân số đã tăng lên 97.806 người, tăng
7,57% và tính đến ngày 01/04/2001 dân số của quận đã lên đến 115.024 người, tốc độ
tăng dân số đã lên đến 8,38% so với năm 1997. Xét cơ cấu dân số theo độ tuổi, tỷ lệ dân
số trong độ tuổi từ 15÷34 tuổi chiếm 42,3% tổng dân số của quận. Tình trạng dân cư
đang xáo trộn rất mạnh và phân bố không đều, mật độ dân số bình quân là 3.220
ngưới/km2. Tỷ lệ dân số có hộ khẩu tại quận chiếm 72% số hộ và 74% số nhân khẩụ Tỷ
lệ số dân ở diện KT2, KT3, KT4 chiếm 34% số hộ và 33% số nhân khẩu.
Từ năm 2006, dân số của quận là 176.341 người với mật độ là 4.941 người/km2,
đến năm 2009, số dân của quận là 242.284 người, mật độ là 6.785 người/km² tăng 27,2%.
Nhìn chung, mật độ dân cư phân bố không đều, do tốc độ đô thị hóa nhanh tập
trung ở một số phường ở phía Bắc và phía Đông của quận, nơi cơ sở hạ tầng tương đối

đầy đủ.
3.2. Giáo dục – Văn hóa – Y tế:
Với chính sách đầu tư xây dựng và trang bị cho ngành giáo dục, từ năm 1998 toàn
Quận 7 chỉ có 2 trường PTTH, 3 trường THCS , 5 trường tiểu học và 4 trường mầm non
đến nay hệ thống trường lớp đã được củng cố và phát triển, nhiều trường đã được xây
mới, khang trang, với 14 trường mầm non, 13 trường mẫu giáo, 14 trường tiểu học, 6
trường THCS cùng với nhiều trường PTTH và đại học.
Trung tâm văn hóa Quận 7 là đơn vị hoạt động sự nghiệp trực thuộc UBND Quận
7. Với chức năng chính là tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động, văn hóa
văn nghệ gắn liền với nhiệm vụ phục vụ chính trị của địa phương. Hoạt động của Trung
- 19 -


tâm Văn hóa Quận 7 trong thời gian qua đã góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa
của người dân trên địa bàn. Với những nỗ lực trong công tác, trong nhiều năm liền Trung
tâm Văn hoá Quận 7 luôn được Sở Văn hóa Thông tin Tp.HCM đánh giá đạt loại A, được
UBND quận, Thành phố tặng nhiều giấy khen, bằng khen.
Trong năm 2005, Trung tâm Văn hóa Quận 7 đã thể hiện tốt vai trò tham mưu,
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, trọng tâm là hoạt động phục vụ các ngày
Đại hội Đảng bộ Quận 7 lần thứ III, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Ngoài ra trong từng lĩnh vực
công tác chuyên môn đơn vị luôn thể hiện tính chủ động, sáng tạo của mình. Các hình
thức tuyên truyền cổ động như: panô, băngrol, hệ thống truyền thanh, xe loa lưu động,
triển lãm, Bản tin… đã từng bước nâng cao chất lượng, đáp ứng được nhiệm vụ tuyên
truyền trên địa bàn quận.
Song song đó, thông qua các loại hình phục vụ văn hóa văn nghệ, giao lưu, hội thi,
hội diễn, liên hoan, triễn lãm… Trung tâm Văn hóa quận đã thực hiện được 159 xuất diễn
và trên 30 hội thi phục vụ trên 400.000 lượt người xem. Các chương trình phục vụ ngày
càng được đầu tư phong phú và đa dạng cả về nội dung và chất lượng, loại hình hoạt
động được tổ chức rộng khắp đã tạo được sân chơi lành mạnh cho nhân dân trên địa bàn
quận. Nỗi bật là Hội diễn Nghệ thuật quần chúng; sáng tác ca khúc-thi ảnh nghệ thuật

thời sự năm 2005 và phát hành đĩa CD “Quận 7 yêu thương”.
Các hoạt động tổ chức và tham gia Hội thi – hội diễn cấp quận, Thành phố luôn
được đơn vị quan tâm đầu tư và tổ chức phối hợp tốt. Trong đó Đội TTLĐ luôn phát huy
được sức mạnh, giữ vững thành tích là đội mạnh của Thành phố, là mũi nhọn trong công
tác tuyên truyền của quận.
Hiện ở Quận 7 có 10 trung tâm y tế ở các phường trên địa bạn, các trung tâm có
chức năng nhiệm vụ khám và điều trị tất cả các chuyên khoa cho nhân dân trên địa bàn
Quận 7 và các vùng lân cận. Thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
cộng đồng (tiêm chủng mở rộng, lao, tâm thần, da liễu, sinh đẻ có kế hoạch, phòng chống
suy dinh dưỡng, vệ sinh phòng dịch...)

- 20 -


3.3. Giao thông:
Tổng diện tích đường bộ trên địa bàn quận khoảng 38 ha, chiếm 1,86% diện tích
tự nhiên. Trong đó các cầu Tân Thuận 1, Tân Thuận 2, kinh Tẽ và rạch Ông kết nối giữa
quận 7 với nội thành, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của quận. Đại lộ Nam
Sài Gòn nối liền quận 7 với quốc lộ 1A. Trên địa bàn quận 7 có 3 cảng lớn là Cảng Bến
Nghé, Cảng Last Tân Thuận Động, Cảng Bông Sen và một số cảng chuyên dùng phục vụ
cho nội bộ như Cảng Rau quả, Cảng Dầu thực vật...
Trên địa bàn có khoảng 1.020 sông rạch, chiếm 28,38% diện tích tự nhiên trong
toàn quận. Thủy lộ quan trọng là Kênh Tẻ và sông Sài Gòn và hầu hết các kho hàng, bến
bạ được bố trí hai bên bờ thủy lộ này.
3.4. Mạng lưới cấp điện:
So với các quận khác của thành phố, nguồn cấp điện của Quận 7 khá thuận lơi.
Ngoài nguồn cung cấp điện chính là Chánh Hưng với công suất 60MVA được tiếp nhận
từ 110KVA Phú Định, quận còn có nguồn điện Hiệp Phước hòa vào mạng lưới điện quốc
gia phục vụ cho các khu công nghiệp.
Đường dây 15KV được xây dựng dọc theo tuyến đường chính phục vụ cho dân

dụng bằng lưới điện hạ thế 220V. Mạng lưới điện đã nâng cấp, sữa chữa. Tuy nhiên vẫn
còn một số khu vực chưa cải tạo, hiện đã quá tải. Có điều đáng lưu ý là việc sử dụng rất
tùy tiện của các hộ dân cư xây nhà bất hợp pháp đã gây thất thoát và không an toàn. Theo
thống kê của ngành, toàn quân có 22,8 km đường dây điện trung thế và 74,85 km đường
dây hạ thế cùng 84 trạm điện.

- 21 -


CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT – ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH –
ĐỊA CHẤT THỦY VĂN KHU VỰC
1. Lịch sử nghiên cứu Địa chất – Địa chất thủy văn – Địa chất công trình:
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Địa chất, Địa chất thủy văn và Địa chất
công trình trên địa bàn thành phố nói chung và Quận 7 nói riêng, dưới đây là một số công
trình nghiên cứu quan trọng trong những năm qua (trước năm 1975 và sau năm 1975).
■ Giai đoạn trước năm 1975:
Địa chất - Địa chất công trình:
Đầu thế kỷ XX, địa chất Nam Bộ đã được Pháp tiến hành nghiên cứu. Năm 1895,
trong báo cáo phác thảo những nét chung về địa chất Đông Dương “Ge’ologie de
I’Indochine” M. A. Petion đã đề cập đến địa chất Nam Bộ. Những năm sau đó là H.
Lantenois (1915), R. Bourrei (1924), J. Fromaget (1929 – 1941), C. Jacob (1932), A.
Lacroix (1933), E. Saurin (1935) đã có những công trình nghiên cứu về vùng này. Năm
1935 – 1937 khi lập bản đồ địa chất Đông Dương 1/500.000, E. Saurin đã đưa ra khái
niệm phù sa cổ, phù sa trẻ để phân chia trầm tích Kainozoi ở phía nam Đông Dương.
Năm 1957, E. Sarin công bố thêm kết quả nghiên cứu thành tạo trẻ dọc ven biển và phân
chia các bậc thềm. Năm 1958 – 1961, F. R. Moorman thành lập bản đồ thổ nhưỡng toàn
miền Nam tỷ lệ 1/1.000.000. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu có tính chất khu
vực chủ yếu là các bài báo của H. Fontain, Trần Kim Thạch, William Phạm và một số tác
giả khác về cấu tạo, kiến tạo, địa chất thềm lục địa… Các công trình ở giai đoạn này chủ
yếu là nghiên cứu khái quát, nhận định qua các cuộc khảo sát đơn lẻ mà chưa có những

đề án được thi công cụ thể với những thông số chi tiết.
Địa chất thủy văn:
Đầu thế kỷ XX, các công trình khai thác nước dưới đất được thi công và sử dụng
cấp nước cho sinh hoạt. Tại Sài Gòn năm 1907 đã có các công trình khai thác nước công
suất 4.600m3/ngày ở Tân Sơn Nhất và sau đó mở rộng lên Gò Vấp khai thác với công
suất là 10.200m3/ngày. Các lỗ khoan khai thác nước ở Cà Mau được khoan năm 1930 do
Pháp thực hiện, lỗ khoan sâu 170m, lấy nước trong tầng nước áp lực, lưu lượng

- 22 -


1.800m3/ngày. Năm 1932 -1933, các giếng khai thác ở Bạc Liêu (sâu 89m), Sóc Trăng
(133m), được đưa vào hoạt động. Từ năm 1960 trở đi, hầu hết các thị xã, khu dân cư, khu
quân sự đều được khoan thăm dò và khai thác như ở Vị Thanh, Rạch Giá, Kiên Lương,
Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh. Có những lỗ khoan sâu gặp nước mặn phải bỏ như ở Ba
Tri (sâu 350m), Bến Tre (sâu 355m), Gò Công (sâu 380m), Bình Chánh (sâu 180m)…
Thời gian này tại Sài Gòn có khoảng 40 giếng khoan hoạt động khai thác với tổng lưu
lượng 162.000m3/ngày, các công trình này tập trung khia thác chủ yếu ở tầng Pleistocen.
Với lưu lượng này do nước nhạt không đủ cấp, các tầng chứa có nguy cơ cạn kiệt, bị
nước mặn xâm thực nên người ta đã chuyển hướng sang sử dụng nước sông Đồng Nai,
xử lý qua nhà máy nước Thủ Đức (được xây dựng từ năm 1962 – 1967) có công suất thiết
kế 480.00m3/ngày.
Năm 1964, các nhà địa chất Mỹ có nhiều chuyến khảo sát ở Nam Bộ và tổng hợp
thành các báo cáo, công bố vào năm 1966. Năm 1969, H. R. Anderson đã tổng hợp và
viết nhiều báo cáo đánh giá tầng nước tự lưu ở vùng hạ lưu sông Mê Kông. Các tài liệu
của ông ghi chép thực tế và nhận định sâu sát việc thực hiện các công trình cấp nước ở
các vùng khác nhau trong vùng châu thổ.
Các nhà địa chất Việt Nam như Từ Quy, Nguyễn Văn Re, Victor Phạm cũng đã
phối hợp với các nhà địa chất nước ngoài đã đưa ra những thông tin về nguồn nước dưới
đất tại Bạc Liêu, Biên Hòa, Sài Gòn. Năm 1973, đoàn chuyên viên Nhật Bản khảo sát

vùng Hóc Môn do Muranatabe dẫn đầu đã thành lập đề án khai thác nước bổ sung cho
thành phố Sài Gòn, mục tiêu 200.000m3/ngày. Đề án đang thực hiện dở dang thì miền
Nam được giải phóng năm 1975.
■ Giai đoạn sau năm 1975:
Địa chất - Địa chất công trình:
Năm 1976 – 1980, Nguyễn Xuân Bao đã đo vẽ bản đồ địa chất phía Nam tỷ lệ
1/500.00, đồng thời Trần Đức Lương tổng hợp và hiệu đính phần phía Bắc. Trên cơ sở
đó, hai tác giả này thành lập bản đồ địa chất thống nhất Việt Nam tỷ lệ 1/500.000. Trên tờ
bản đồ này, lần đầu tiên vùng Nam Bộ được nghiên cứu một cách hệ thống. Các trầm
tích Kainozoi và trước Kainozoi đã được xác định trên cơ sở nghiên cứu các mặt cắt qua
- 23 -


các lỗ khoan có đầy đủ tài liệu. Vì vậy đây là tài liệu đặt cơ sở cho các nghiên cứu địa
chất sau này.
Các sơ đồ Địa chất, Địa chất thủy văn, Địa chất công trình đầu tiên của thành phố
đã được thành lập trong Công trình 7 sơ đồ Địa chất, Đệ Tứ, Khoáng sản, Địa mạo, Địa
chất thủy văn, Địa chất công trình TP.HCM do Đặng Hữu Ngọc và Bùi Phú Mỹ chủ biên,
thực hiện năm 1983. Công trình này đặt những nền tảng đầu tiên cho công tác lập bản đồ
Địa chất, Địa chất thủy văn và Địa chất công trình trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên vào
thời điểm đó, các công trình nghiên cứu không nhiều nên mức độ chính xác của 7 sơ đồ
không cao. Nguyên tắc phân chia phân chia các địa tầng Địa chất, các đơn vị Địa chất
thủy văn, các đơn vị Địa chất công trình rất khác với nguyên tắc phân chia hiện nay theo
qui chế lập bản đồ Địa chất, Địa chất thủy văn và Địa chất công trình do Bộ Công nghiệp
ban hành năm 2000 và không còn phù hợp nữa.
Năm 1983, PGS.TS. Đặng Hữu Diệp đã nêu lên những nét cơ bản về đặc điểm địa
chất công trình của Tp.HCM trên cơ đồ địa công trình tỉ lệ 1/50.000.
Bản đồ Địa chất chính qui đầu tiên của thành phố là các Bản đồ Địa chất - Khoáng
sản Tp.HCM do Hà Quang Hải và Ma Công Cọ chủ biên (1988) và vùng phụ cận là
nhóm tờ Đông Tp.HCM do Ma Công Cọ chủ biên (1994). Các bản đồ Địa chất này có ý

nghĩa rất lớn trong giai đoạn 1980 - 2000, phục vụ qui hoạch tài nguyên khoáng sản và
làm nền cơ sở cho các nghiên cứu Địa chất thủy văn, Địa chất công trình. Tuy nhiên cho
đến nay hạn chế của bản đồ này là nguyên tắc phân chia địa tầng Địa chất. Vào thời gian
đó việc phân chia các địa tầng dựa theo nguyên tắc thạch địa tầng, các đơn vị địa tầng
được phân chia là hệ tầng. Trong khi đó, hiện nay, để phục vụ cho công tác nghiên cứu
Địa chất thủy văn, Địa chất công trình và các mục đích khác, việc phân chia địa tầng trầm
tích Neogen - Đệ Tứ dựa trên nguyên tắc tuổi và nguồn gốc. Mặt khác, do mạng lưới
khoan lúc đó còn quá thưa, nhiều lỗ khoan chưa khoan đến móng đá gốc nên một số ranh
giới Địa chất giữa các lỗ khoan chỉ mới là dự đoán… Trong khi đó, từ năm 1988 đến nay
trên địa bàn Tp.HCM có khá nhiều lỗ khoan nhưng chưa được cập nhật.
Bản đồ Địa chất thủy văn và bản đồ Địa chất công trình chính qui đầu tiên đã được
thành lập trong thời gian từ năm 1983 đến 1988, do KS. Đoàn Văn Tín và tập thể tác giả
- 24 -


của Liên đoàn Địa chất thủy văn 8 thực hiện trong công trình “Báo cáo lập bản đồ Địa
chất thủy văn – Địa chất công trình, tỷ lệ 1/50.000 Tp.HCM”. Đây là các bản đồ Địa chất
thủy văn, Địa chất công trình đạt chuẩn quốc gia đầu tiên của thành phố. Những kết quả
rút ra từ các bản đồ này đã phát huy rất tích cực trong công tác đánh giá, tìm kiếm, thăm
dò và khai thác Nước dưới đất cũng như cung cấp những thông tin rất thiết thực về các
đặc điểm Địa chất công trình trên địa bàn thành phố trong thời gian từ 1990 đến năm
2000 để phục vụ qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố.
Vào năm 2000, Bộ Công nghiệp đã ban hành qui chế lập bản đồ Địa chất, Địa chất
thủy văn và Địa chất công trình, tỷ lệ 1/50.000 (1/25.000) thống nhất trên toàn quốc về
nguyên tắc phân chia các đơn vị Địa chất, Địa chất thủy văn và Địa chất công trình; thống
nhất về hình thức thể hiện các loại bản đồ bằng các chú giải chi tiết đi kèm với các qui
chế ban hành. Kế đến là Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng thống nhất qui định bắt buộc
trên toàn quốc phải sử dụng bản đồ địa hình VN2000 làm nền cho các bản đồ Địa chất,
Địa chất thủy văn và Địa chất công trình. Do nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, trong
khoảng thời gian từ đó đến nay đã có thêm rất nhiều công trình nghiên cứu mới về Địa

chất, Địa chất thủy văn và Địa chất công trình bổ sung rất nhiều thông tin có giá trị về
đặc điểm Địa chất, Địa chất thủy văn và Địa chất công trình trên địa bàn thành phố. Công
nghệ tin học cũng phát triển rất nhanh tạo điều kiện thực hiện, xuất bản và lưu trữ các bản
đồ, bản vẽ, phụ lục, báo cáo dưới dạng số hóa.
Báo cáo “Địa chất – Khoáng sản Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2002 của tác giả
Vũ Văn Vĩnh và nnk.
Địa chất thủy văn:
Sau ngày giải phóng, các công tác nghiên cứu điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên ở
đồng bằng Nam Bộ được triển khai ở nhiều cơ quan như Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Bộ Xây dựng, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, các ngành chuyên môn
của các tỉnh cùng phối hợp. Công ty Xây dựng cấp thoát nước số 2 (Bộ Xây dựng) là cơ
sở tiếp nhận tài liệu Địa chất thủy văn, khoan cấp nước ở các địa phương. Năm 1980,
Phan Đình Hiệp và Vương Văn Phổ Danh viết “Nước ngầm ở đồng bằng sông Cửu
Long” đánh giá hiện trạng khoan cấp nước ở đồng bằng. Với 252 lỗ khoan, các tác giả đã
- 25 -


×