Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ cơ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN KHẮC PHỤC án tồn ĐỌNG TRONG THI HÀNH án dân sự ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.16 KB, 119 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là một loại hoạt động của Nhà nước nhằm đưa bản
án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên
thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, những phán quyết của Tòa án nhân
danh Nhà nước về mặt dân sự, sẽ được thi hành, bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, góp phần giữ vững kỷ
cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, thi
hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng đã trở thành một nguyên tắc
hiến định. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Các bản án và quyết
định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành".
Sau hơn mười năm kể từ khi nhiệm vụ quản lý và tổ chức thi hành án
dân sự được chuyển từ Tòa án nhân dân sang Chính phủ (tháng 6 năm 1993),
hệ thống các cơ quan thi hành án đã được hình thành và phát triển trong cả
nước; thi hành án dân sự bước đầu đạt được những kết quả đáng ghi nhận,
làm giảm đáng kể số lượng án tồn đọng. Đáng chú ý, nhiều vụ việc phức tạp,
tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số án đặc biệt lớn,
tính chất hết sức phức tạp, có ảnh hưởng lớn về kinh tế, cũng như trật tự an
toàn xã hội cũng đã được Nhà nước quan tâm chỉ đạo như vụ Epco - Minh
Phụng, phải thi hành án 4.000 tỷ đồng, vụ Tân Trường Sanh phải thi hành án
trên 1.000 tỷ đồng... Kết quả đạt được nói trên phản ánh sự cố gắng, nỗ lực
của toàn ngành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ cán bộ thi hành án dân
sự nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền



2

địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong thi hành án
dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thi hành án dân sự còn bộc lộ
nhiều tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới, vẫn còn tình trạng các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng chưa được nghiêm chỉnh thi hành, làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tồn tại lớn nhất trong thi hành án dân
sự hiện nay là tình trạng án tồn đọng kéo dài, số lượng ngày càng tăng, nhưng
chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm.
Thực tiễn thi hành án dân sự cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc
đòi hỏi khoa học luật tố tụng dân sự phải nghiên cứu giải quyết như khái niệm
thi hành án dân sự, án tồn đọng trong thi hành án dân sự, sự phối hợp giữa các
cơ quan thi hành án với các ngành hữu quan trong việc giải quyết án tồn
đọng, vấn đề hợp tác quốc tế trong thi hành án dân sự nói chung, khắc phục
án tồn đọng nói riêng... Trong khi đó, xét về mặt lý luận, những vấn đề nói
trên chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng và còn nhiều ý kiến
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục
án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" mang tính cấp
thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi thực tiễn nhằm khắc phục án
tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thi hành án dân sự là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đã được một
số cơ quan, nhà luật học ở trong nước quan tâm nghiên cứu. Viện Nghiên cứu
Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí
Minh đã có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Những cơ sở lý luận và thực
tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT; Cục Quản lý Thi hành



3

án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:
"Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số: 96-98-027/ĐT; Bộ
Tư pháp chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: "Luận cứ khoa học
của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai
đoạn mới"; tác giả Nguyễn Công Long có công trình: "Các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2000); tác giả Nguyễn Thanh Thủy có công trình: "Hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự ", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2001); tác giả Lê Kim Dung có công trình: "Civil Execution in ViêtNam;
Reality Problems and Suggestion Towrds a WellFunctioning System" (Thi
hành án dân sự Việt Nam; thực trạng, vấn đề và những gợi ý hướng tới một
hệ thống hoàn thiện), (Luận văn thạc sĩ Luật học, 2002); tác giả Lê Xuân
Hồng có công trình: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự", (Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác giả Trần Anh
Tuấn có công trình: "Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam", (Luận văn
thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002); tác giả Nguyễn Quang
Thái có công trình: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt
Nam", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2003); tác giả Lê Anh Tuấn có công trình: "Đổi mới thủ tục thi hành án dân
sự Việt Nam", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2004). Ngoài ra, có một số bài viết liên quan đến thi hành án dân sự được
đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp
chí Luật học, Bản tin Thi hành án dân sự...
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về thi
hành án dân sự, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và có hệ thống về án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn



4

3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết án
tồn đọng trong thi hành án dân sự, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống
để khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự một cách khách quan, công
bằng, chính xác, góp phần ổn định trật tự xã hội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự; khái niệm, đặc
điểm, hậu quả án tồn đọng trong thi hành án dân sự; ý nghĩa của việc khắc
phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự.
- Đánh giá thực trạng án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay và làm rõ nguyên nhân của án tồn đọng; tình hình khắc phục án
tồn đọng trong thi hành án dân sự, những hạn chế của việc khắc phục án tồn
đọng trong thi hành án dân sự và nguyên nhân của chúng.
- Phân tích các quan điểm và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm
khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự là vấn đề rất rộng và
phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực. Trong khuôn khổ của một luận văn
thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu khắc phục án tồn đọng trong thi hành án
dân sự dưới gốc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, thông qua số liệu
của các cơ quan thi hành án từ năm 1993 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận



5

Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân,
về thi hành án dân sự nói chung, khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân
sự nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với
các phương pháp khác như so sánh, khảo sát thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ Luật, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong thi hành án
dân sự ở Việt Nam. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp
mới về khoa học của luận văn:
1- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về khắc phục án tồn đọng trong
thi hành án dân sự ở Việt Nam.
2- Đánh giá đúng thực trạng án tồn đọng trong thi hành án dân sự,
phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. Phân tích tình hình khắc
phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự, trong đó làm rõ những kết quả đạt
được, những hạn chế của việc khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự
và nguyên nhân của chúng.
3- Phân tích những quan điểm và các giải pháp có tính khả thi nhằm
khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận văn



6

Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với việc khắc phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam
hiện nay. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn
đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của kho tàng lý luận thi
hành án dân sự và tổng kết nghiên cứu thực tiễn khắc phục án tồn đọng trong
thi hành án dân sự. Với việc đề xuất các giải pháp khắc phục án tồn đọng
trong thi hành án dân sự, tác giả hy vọng sẽ góp phần vào công cuộc cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học thi hành án
dân sự nói riêng và cho các cán bộ làm công tác thi hành án dân sự.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục;
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẮC PHỤC ÁN TỒN ĐỌNG
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Để làm sáng tỏ khái niệm thi hành án dân sự, trước hết cần làm rõ khái
niệm thi hành án.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính

thức quyết định" [55, tr. 1559]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực
hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa
án được hiểu là là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại
phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước,
thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan
nhân danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục
các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại.
Hiện nay, xung quanh bản chất pháp lý của khái niệm thi hành án, còn
có nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất của TS. Phan Hữu Thư cho rằng, thi hành án là
một giai đoạn tố tụng: "Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu
chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện
trong bản án, quyết định của Tòa án, thì mới dừng lại ở việc làm rõ đúng hay
sai, phải hay trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế,
cần phải chờ ở hiệu quả của công tác thi hành án. Vì vậy, thi hành án là giai
đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp


8

dụng các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành hiện
thực trong đời sống thực tế" [54, tr. 8]. ThS. Nguyễn Công Bình cũng cho rằng,
thi hành án là một giai đoạn tố tụng, bởi lẽ:
Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, tiếp
theo quá trình xét xử. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật
khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản
lý. Thi hành án là nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa
án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi hành

có hiệu quả trên thực tế. Hoạt động thi hành án này gắn liền với quá
trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [54, tr. 8].
Quan điểm thứ hai của PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng, thi hành án
là một giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp:
Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố
tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý, xã
hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần đặt
trong vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Về bản chất, hoạt
động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau đây:
- Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá
trình thi hành án;
- Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
thi hành án;
- Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án (đây là
một vấn đề có thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan
hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ
khác mang tính hành chính - tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng,
các quan hệ mang tính hành chính tư pháp chủ yếu hơn.
Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên,
ở một số lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có thể xây dựng


9

hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là
điểm khác so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính
quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa [54, tr. 10-11].
Cùng quan điểm trên, TS. Đinh Trung Tụng cho rằng:
Thi hành án không mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều
tính chất của giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp. Ở đây có

nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện thi hành
án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi
không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang
nặng tính hành chính - tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án
kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của
thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải là hình phạt
tù...) [54, tr. 12].
Các quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý và đều dựa trên những
luận cứ khoa học nhất định, nhưng về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, thi
hành án là hoạt động tư pháp, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, trước hết cần khẳng định, thi hành án là giai đoạn tiếp theo
của giai đoạn xét xử, hoạt động xét xử là tiền đề của hoạt động thi hành án.
Hoạt động thi hành án lệ thuộc và chịu sự chi phối của hoạt động xét
xử, bởi lẽ thi hành án được tiến hành dựa trên bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án, nói cách khác, căn cứ pháp lý để thi hành án là bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Cơ quan thi hành án có
trách nhiệm ra quyết định thi hành án và thi hành đúng theo phán quyết của
Tòa án, không được suy diễn các phán quyết của Tòa án trong các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Ngoài sự lệ thuộc nói trên, việc thi hành chịu sự chi phối của hoạt
động xét xử còn được thể hiện ở chỗ: nếu bản án, quyết định của Tòa án chưa


10

rõ ràng, cơ quan thi hành án có thể đề xuất các cơ quan xét xử có thẩm quyền
giải thích bản án, quyết định đó. Trong quá trình đưa bản án, quyết định ra thi
hành, Tòa án có thẩm quyền tạm hoãn thi hành án theo luật định hoặc kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, mà hậu quả pháp lý của nó có
thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức thi hành án của cơ quan thi

hành án.
Thi hành án là giai đoạn diễn ra ngay sau giai đoạn xét xử và các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt
động thi hành án. Song không thể nói đây là cơ sở pháp lý duy nhất, mà mới
chỉ là điều kiện cần. Để tiến hành hoạt động thi hành án có hiệu quả, phải có
các điều kiện đủ là có cơ quan thi hành án, các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi
hành án được quy định cụ thể trong pháp luật thi hành án. Cho nên, hoạt động
thi hành án không chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng mà chịu sự điều
chỉnh của pháp luật thi hành án.
Thứ hai, mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối như trên, nhưng ở
giai đoạn thi hành án, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi lẽ khi bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chức năng xét xử đã hoàn thành,
chân lý đã được làm sáng tỏ, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã được phân xử
rõ ràng. Ở thời điểm này, quyền lực của Nhà nước mới chỉ được thể hiện trên
các bản án, quyết định công nhận các sự kiện pháp lý, các quan hệ pháp luật
hoặc buộc người thi hành án có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc không làm
một việc vì lợi ích của Nhà nước hoặc của người được thi hành án, chứ việc
công nhận này chưa được thể hiện trên thực tế. Để thực hiện nhiệm vụ đưa
các phán quyết của Tòa án trở thành hiện thực trên thực tế, cơ quan thi hành
án phải có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan, trong đó có Tòa
án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án, nhìn chung không
thuộc chức năng của cơ quan xét xử, điều này được thể hiện rõ nhất trong
hoạt động thi hành án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.


11

Thứ ba, thi hành án không mang tính chất hành chính, bởi hành chính
là hoạt động chấp hành, điều hành, các quyết định hành chính được đưa ra
trên cơ sở mệnh lệnh có tính bắt buộc thi hành của cấp trên đối với cấp dưới.

Hoạt động của cơ quan hành chính chủ yếu xoay quanh người đứng đầu là
Thủ trưởng cơ quan hành chính, trong khi đó thi hành án là hoạt động tư pháp
có những điểm khác cơ bản.
Trước hết, khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống
các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công
bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung tâm. Vì vậy, khi nói tới
Tòa án là nói tới biểu tượng điển hình của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, là nơi biểu hiện rực rỡ nhất bản chất của pháp luật.
Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động xét xử của
Tòa án, thông qua những thủ tục tố tụng nhất định, đối với những vụ việc vi
phạm pháp luật, tranh chấp của các chủ thể trong đời sống xã hội, nhằm bảo
vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Vì vậy, toàn bộ các
hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp (Giám định, Luật
sư, Công chứng, Hộ tịch, Tư vấn pháp luật...) đều nhằm phục vụ cho quá trình
làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, để
trên cơ sở đó, Tòa án đưa ra phán quyết theo qui định của pháp luật. Kết thúc
giai đoạn xét xử, Tòa án quyết định những vấn đề thuộc về nội dung vụ án,
xác định trách nhiệm pháp lý và chế tài thích hợp cho từng đối tượng cụ thể,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và của
công dân. Các bản án và quyết định xét xử của Tòa án không những nhân
danh Nhà nước mà còn thể hiện quyền lực tối cao của Nhà nước có hiệu lực
thi hành, chính vì vậy, Điều 136 của Hiến pháp 1992 đã nêu rõ: "Các bản án
và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân tôn trọng,


12

những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành". Tuy nhiên,

các bản án và quyết định của Tòa án muốn trở thành hiện thực trong cuộc
sống thì phải thông qua hoạt động thi hành án.
Là một trong các hoạt động tư pháp, với mục đích chung là: "Bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài
sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" (Điều 12 Hiến pháp 1992),
thi hành án có những đặc trưng cơ bản sau đây:
a) Thi hành án dựa trên cơ sở kết quả xét xử của Tòa án và quyết định
của trọng tài. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là căn cứ để
các cơ quan nhà nước, người phải thi hành án, người được thi hành án, người
có quyền và lợi ích liên quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng nội
dung bản án, quyết định của Tòa án. Chẳng hạn, đối với thi hành án hình sự,
Chánh án Tòa án ra quyết định thi hành án buộc bị cáo phải chấp hành hình
phạt tù, hoặc gửi bản án, quyết định của Tòa án cho Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn theo dõi, quản lý giáo dục đối với những trường hợp bị cáo
được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ... Đối với thi hành án dân sự, bản
án, quyết định của Tòa án là căn cứ để Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra
quyết định thi hành án, phân công chấp hành viên tổ chức thi hành đối với
những trường hợp phải chủ động ra quyết định thi hành án, hoặc là căn cứ để
người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền và lợi ích liên
quan làm đơn đề nghị thi hành án tới cơ quan thi hành án yêu cầu được thi
hành án, khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành.
b) Chủ thể thi hành án có rất nhiều loại, đó có thể là Tòa án, cơ quan
Công an, cơ quan thi hành án, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc các cơ sở
chuyên khoa y tế. Vai trò của từng loại chủ thể khi tham gia vào quá trình thi
hành án khác nhau, phụ thuộc vào từng loại việc thi hành án. Chẳng hạn như,


13


việc thi hành án tử hình, theo qui định của pháp luật, Hội đồng thi hành án tử
hình gồm có đại diện của Tòa án, cơ quan Công an, Viện kiểm sát; hoặc theo
Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2000 của Chính phủ qui
định đối với những trường hợp thi hành khoản tiền khấu trừ thu nhập của
người bị phạt cải tạo không giam giữ, thì cơ quan, tổ chức được giao quản lý
người phải thi hành án có trách nhiệm khấu trừ 5% đến 20% thu nhập của
người phải thi hành án để nộp cho cơ quan thi hành án.
c) Các chủ thể thi hành án phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ
về thi hành án. Những quy định rất chi tiết, cụ thể như: trình tự, thủ tục ra
quyết định thi hành án; cách thức tổ chức việc thi hành án; giải quyết khiếu
nại hoặc trả lời kháng nghị việc thi hành án... Những quy định này được thực
hiện một cách độc lập, do người có thẩm quyền tiến hành mà không phụ
thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử. Ví dụ, đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong thi
hành án dân sự, chấp hành viên chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế
được pháp luật qui định, đó là: khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy có
giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án;
phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức
tín dụng, kho bạc; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do
người thứ ba giữ; buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài
sản khác; cấm hoặc buộc người phải thi hành án không làm hoặc làm công
việc nhất định; chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau khi
người phải thi hành án đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án (trừ trường hợp
cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc
trốn tránh việc thi hành án); không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong
các ngày nghỉ theo qui định của pháp luật lao động và trong khoảng thời gian
từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau, mười lăm ngày trước và sau tết
Nguyên đán, các ngày lễ tết truyền thống đối với các đối tượng chính sách,
nếu họ là người phải thi hành án và các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tư



14

pháp qui định; việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án phải tương ứng
với nghĩa vụ của người phải thi hành án; chấp hành viên phải căn cứ vào nội
dung bản án, quyết định, tính chất, mức độ của nghĩa vụ thi hành án, điều kiện
của người phải thi hành án, đề nghị của đương sự và tình hình thực tế ở địa
phương để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
d) Thi hành án là hoạt động tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, tức là không
chỉ có việc xét xử của Tòa án, mà còn bao gồm cả các hoạt động thuộc lĩnh
vực bổ trợ tư pháp; trong nhiều trường hợp, trước hoặc trong khi Tòa án tiến
hành việc xét xử vụ án dân sự hoặc trước, trong khi trọng tài giải quyết các
việc tranh chấp kinh tế, thương mại, thì cơ quan thi hành án đã thi hành quyết
định của Tòa án như: quyết định khẩn cấp tạm thời, nhằm đảm bảo cho việc
xét xử, cũng như đảm bảo cho việc thi hành án sau này, mặc dù chưa có kết
quả xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau:
Thi hành án là hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền
tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết
định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được
thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, trước hết có thể hiểu thi hành án
dân sự là thực hiện các bản án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc các quyết
định khác do pháp luật quy định, trên thực tế. Đó là các bản án, quyết định
dân sự được quy định tại Điều 375 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, thông qua tại kỳ
họp thứ 5, ngày15 tháng 06 năm 2004 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Tố tụng dân

sự năm 2004):


15

1. Những bản án, quyết định dân sự của Tòa án được thi
hành là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao
gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm;
b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết
định của trọng tài nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
2. Những bản án, quyết định sau đây của cấp sơ thẩm được
thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận
người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo
hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn
thất tinh thần của công dân;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Những bản án, quyết định nói ở Điều 1 không chỉ bao gồm những bản
án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, mà còn bao
gồm quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, truy thu
tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về
hình sự, quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về
hành chính, bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của
trọng tài nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt

Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.


16

Căn cứ để đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án được quy
định tại Điều 376 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004:
Bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành khi có
các căn cứ sau đây:
1. Bản án, quyết định được thi hành quy định tại Điều 375 của
Bộ luật này.
2. Quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Như vậy, những bản án, quyết định được đưa ra thi hành bao gồm hai
loại, đó là:
Thứ nhất, những bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Đó là bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án,
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm của Tòa án; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết
định của trọng tài nước ngoài đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Thứ hai, những bản án, quyết định dân sự của Tòa án chưa có hiệu lực
pháp luật nhưng được thi hành ngay. Đó là bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm
việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Để đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành, phải thỏa mãn đồng
thời hai căn cứ: thứ nhất: bản án, quyết định đó phải thỏa mãn những điều
kiện được quy định tại khoản 1 Điều 375 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;

thứ hai, phải có quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án có thẩm quyền.


17

Dưới góc độ lý luận, xung quanh khái niệm "dân sự" trong thi hành án
dân sự hiện nay còn có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm "dân sự" trong thi hành án
dân sự được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và
nhân thân phi tài sản như bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với
các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có tính
chất dân sự. Luận cứ để bảo vệ quan điểm này là quy định tại Điều 1 Bộ luật
Dân sự năm 1995: quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và quan hệ
nhân thân phi tài sản trong giao lưu dân sự còn các quyết định về tài sản trong
vụ án hình sự, bản án, quyết định về lao động, hành chính, quyết định giải
quyết tranh chấp kinh tế hoặc thương mại của trọng tài được tiến hành theo
trình tự, thủ tục riêng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, khái niệm "dân sự" ở đây phải được hiểu
theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết
tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số
loại án khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án,
quyết định khác do pháp luật qui định.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ, từ khi Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 1993 được ban hành đến nay, Nhà nước đã ban hành một
loạt các văn bản pháp luật như: Bộ luật Dân sự, Luật Phá sản doanh nghiệp,
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết tranh chấp lao động, Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính,
Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, Pháp lệnh Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết
định của trọng tài nước ngoài. Do đó, phạm vi, nội dung của thi hành án dân

sự đã mở rộng hơn nhiều so với trước đây. Nhiều vụ việc có tính chất khác
nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi


18

hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như đã
nêu.
Vì vậy, phạm vi của thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm: bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và
gia đình; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịch
thu tài sản, án phí); quyết định về tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết
định hành chính; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định
của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở
Việt Nam. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia
trên thế giới: việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội
dung là luật tư (Luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động), được thực
hiện theo một thủ tục chung mà không có sự tách bạch căn bản việc thi hành
án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại hay lao động.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án dân sự như
sau: Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp do cơ quan thi hành án, chấp
hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản
án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của
pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Đặc điểm thi hành án dân sự
Sau khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án ra bản án, quyết định
công nhận các quan hệ pháp lý, các sự kiện có ý nghĩa pháp lý hoặc buộc
người phải thi hành án có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc không được làm

một việc vì lợi ích của người được thi hành án. Như vậy, quan hệ pháp luật về
thi hành án dân sự phát sinh ngay tại thời điểm bản án, quyết định dân sự của
Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc những bản án, quyết định dân sự của Tòa


19

án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay. Tuy nhiên, mức độ
tác động, tính chủ động của cơ quan thi hành án, chấp hành viên đối với từng
loại bản án, quyết định, từng giai đoạn thi hành án có khác nhau. Có loại bản
án, quyết định cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên phải chủ động ra
quyết định thi hành án, đôn đốc, chịu trách nhiệm đến cùng về kết quả thi
hành án như đối với các trường hợp bản án, quyết định về trả lại tài sản xã hội
chủ nghĩa; bản án, quyết định về phạt tiền; bản án, quyết định về tịch thu tài
sản; bản án quyết định về án phí; bản án quyết định về tiêu hủy tang vật; các
quyết định khẩn cấp tạm thời. Có loại bản án, quyết định, cơ quan thi hành án,
chấp hành viên chỉ tham gia vào quá trình thi hành án khi có yêu cầu của
người được thi hành án sau khi đã thụ lý thi hành án, có lúc chấp hành viên
chỉ giữ vai trò "chứng kiến", giải thích, hướng dẫn các bên (được thi hành án
và phải thi hành án) tự thi hành án. Nhưng khi người phải thi hành án bất chấp
kỷ cương, pháp luật, coi thường lợi ích của người được thi hành án, cố ý
không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì cơ quan thi hành án, chấp hành viên
phải tỏ rõ uy quyền được Nhà nước giao là huy động lực lượng, trấn áp, bắt
buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi mà Tòa án nhân
danh Nhà nước đã tuyên. Đó là giai đoạn cưỡng chế thi hành án. Như vậy,
cưỡng chế thi hành án là một chế định đặc thù của quá trình thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án, bản chất của nó là áp dụng các biện pháp cưỡng
chế theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định, nhằm buộc người phải thi
hành án phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thi hành án dân sự có những đặc tính chung phổ biến, đồng thời có

những đặc thù. Đặc tính chung, phổ biến của thi hành án dân sự là là được
phát sinh trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án, do pháp luật thi hành án
dân sự quy định; các chủ thể trong thi hành án dân sự như cơ quan thi hành
án, chấp hành viên, người được thi hành án, người phải thi hành án có những


20

quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy định. So với các loại
thi hành án khác, thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thi hành án dân sự chỉ phát sinh trên cơ sở bản án, quyết
định của Tòa án sau khi giải quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng, đó
là: bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình;
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịch thu tài
sản, án phí); quyết định về tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết định
hành chính; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của
trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt
Nam. Tuy nhiên, nếu như trong thi hành án hình sự, thi hành án hành chính,
hoạt động thi hành án hình sự, thi hành án hành chính chỉ phát sinh trên cơ sở
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thì hoạt động thi hành án dân sự
không những được phát sinh trên cơ sở bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực pháp luật, mà còn được phát sinh trên cơ sở những bản án, quyết định dân
sự của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, đó là bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận
người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã
hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của
công dân; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ hai, trong thi hành án dân sự luôn tồn tại ba chủ thể với địa vị
pháp lý khác nhau, đó là cơ quan thi hành án, chấp hành viên với người phải
thi hành án và người được thi hành án.

Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương
trong thi hành án dân sự là trách nhiệm của Nhà nước, không phải là việc
riêng của công dân. Cơ quan thi hành án, chấp hành viên tham gia quan hệ
pháp luật về thi hành án dân sự không phải vì lợi ích của chính mình, mà nhân
danh cơ quan nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện trên thực tế


21

những phán quyết về dân sự của Tòa án, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
Là chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự, chấp hành viên
nhân danh Nhà nước, thực thi quyền lực nhà nước thông qua hoạt động thi
hành án. Những phán quyết về dân sự của Tòa án nhân danh quyền lực nhà
nước được chấp hành viên bảo đảm thực thi trên thực tế, công lý xã hội được
thực hiện nhưng không phải vì lợi ích của chính bản thân mình, mà vì lợi ích
mà pháp luật bảo vệ, vì bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật phải được các đương sự nghiêm chỉnh chấp hành, các cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân tôn
trọng. Để chấp hành viên có cơ sở pháp lý hoạt động, pháp luật qui định cho
chấp hành viên những quyền hạn nhất định, như trong trường hợp bản án,
quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, hai bên đương sự tự
nguyện bàn bạc và thỏa thuận với nhau việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo
nội dung và quyết định của bản án, thì chấp hành viên đóng vai trò là người
"xác nhận" việc tự nguyện và thỏa thuận đó và làm các thủ tục theo qui định
của pháp luật thi hành án dân sự. Trường hợp một bên là chủ thể của quan hệ
pháp luật thi hành án dân sự cố ý không tôn trọng bản án, quyết định của Tòa
án, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình mà có biểu hiện chây ỳ, coi
thường pháp luật mặc dù đã được chấp hành viên cơ quan thi hành án phân

tích, giải thích, giáo dục, thì chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng
chế, buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ theo phán quyết mà
Tòa án đã tuyên. Trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án không
những thể hiện quyền lực nhà nước, mà còn thể hiện bản chất dân chủ của chế
độ xã hội chủ nghĩa cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.


22

Thứ ba, trong thi hành án dân sự, việc thi hành bản án, quyết định theo
yêu cầu của người được thi hành án là một đặc điểm của thi hành án dân sự,
xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng của các bên trong
giao lưu dân sự.
Pháp luật công nhận sự thỏa thuận, tự nguyện của người được thi
hành án và của người phải thi hành án về việc chấp hành bản án, quyết định
của Tòa án, nếu sự thỏa thuận đó không vi phạm lợi ích của Nhà nước, của
xã hội. Điều đó có nghĩa sau khi tranh chấp đã được phân xử, các bên vẫn có
quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình trong quá trình thi hành án. Đây là
điểm khác nhau cơ bản của thi hành án dân sự so với thi hành hình sự, thi
hành án hành chính.
Bên cạnh cơ chế thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án,
pháp luật thi hành án dân sự của nước ta còn quy định cơ chế chủ động thi
hành án, không phụ thuộc vào ý chí của người được thi hành án và người phải
thi hành án. Quy định này xuất phát từ yêu cầu bảo vệ tài sản xã hội chủ
nghĩa, tính nghiêm minh và tính kịp thời của thi hành án dân sự trong việc bảo
đảm lợi ích của đương sự, bảo đảm hiệu quả hoạt động của Tòa án và cơ quan
thi hành án.
Thứ tư, sự phát triển, diễn biến của hoạt động thi hành án dân sự
không phải là một quá trình tự phát mà theo một cơ chế chặt chẽ do pháp luật

về thi hành án dân sự qui định.
Trong quan hệ thi hành án dân sự, Nhà nước sử dụng quyền lực
công để đảm bảo thi hành án, nhưng Nhà nước cũng không cho phép Cơ
quan thi hành dân sự, chấp hành viên lạm dụng quyền lực. Nhà nước quy
định hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự một cách chi tiết, cụ
thể, khoa học, chặt chẽ bao gồm các nguyên tắc, trình tự thủ tục trong thi
hành án dân sự nhằm tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan thi hành án, chấp hành


23

viên thực hiện nhiệm vụ thực thi các bản án, quyết định của Tòa án trên
thực tế. Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự không được qui định hoặc qui
định không rõ ràng, không khoa học sẽ dẫn đến việc áp dụng không đúng
pháp luật, làm phức tạp quá trình thi hành án, gây tốn kém kinh phí, không
kịp thời hoặc không bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, dẫn đến khiếu kiện bức xúc, kéo dài. Mặt khác, do
cơ quan thi hành án là một bộ phận trong bộ máy nhà nước nên hoạt động
thi hành án trong một quá trình thi hành án đều phải tuân theo nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và điều đó chứng tỏ
sự diễn biến và phát triển của hoạt động thi hành án dân sự luôn chịu sự tác
động, điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về thi hành án dân sự và rộng hơn
là của cả hệ thống pháp luật.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁN TỒN ĐỌNG TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC KHẮC PHỤC ÁN TỒN ĐỌNG TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.2.1. Khái niệm án tồn đọng trong thi hành án dân sự
Thời kỳ trước năm 1986, do ảnh hưởng của cơ chế tập trung, bao cấp,
các tranh chấp kinh tế thường được giải quyết thông qua thủ tục trọng tài kinh

tế nhà nước, còn các tranh chấp dân sự có quy mô nhỏ, tính chất đơn giản thì
thường được giải quyết tại Tòa án nhân dân, cho nên việc thi hành án dân sự
ít phức tạp. Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được sự chuyển biến tích
cực trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, được bạn bè quốc tế
đánh giá cao. Bên cạnh đó, những khuyết tật của nền kinh tế thị trường cũng
đã bộc lộ ngày càng rõ, trong đó tình trạng vi phạm pháp luật, tranh chấp dân
sự, kinh tế, lao động ngày càng gia tăng, số lượng các vụ việc mà Tòa án các
cấp phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều, giá trị tiền, tài sản phải thi hành


24

ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp. Phạm vi thi hành án dân sự lúc
đầu chỉ giới hạn ở việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự,
hôn nhân và gia đình, phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự, sau đó
được mở rộng đối với các loại việc mới như thi hành các bản án, quyết định
về kinh tế, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động, hành chính,
các bản án, quyết định của Tòa án, trọng tài nước ngoài.
Tại thời điểm tháng 6 năm 1993, khi các Tòa án địa phương tiến hành
bàn giao công tác thi hành án sang các cơ quan thuộc Chính phủ, thuật ngữ
"án tồn đọng" đã chính chức xuất hiện: "Số lượng án tồn đọng được bàn giao
sang các cơ quan thi hành án để tiếp tục thi hành là 121.325 vụ, với tổng số
tiền phải thi hành gần 120 tỷ đồng; 1.300 USD, hàng trăm lượng vàng; hàng
nghìn tấn thóc và nhiều tài sản khác" [6, tr. 3]. Từ đó, trong các báo cáo,
thống kê về thi hành án dân sự của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thuật ngữ "án tồn đọng" được sử dụng khá
phổ biến. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, xung quanh khái niệm "án tồn
đọng", vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, "án tồn đọng được hiểu là những loại

việc dân sự chưa có điều kiện thi hành án" [16, tr. 60]. Đây là những loại việc
không thi hành án được do những nguyên nhân khách quan, chứ không phải
là nguyên nhân chủ quan từ phía cơ quan nhà nước, mà trước hết là cơ quan
thi hành án. Đây là quan điểm được thể hiện trong một số báo cáo của Cục
Quản lý thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp.
Quan điểm thứ hai cho rằng, "án tồn đọng" được hiểu là "tất cả các
quyết định thi hành án chưa thi hành tại một thời điểm nhất định (thông
thường là mốc thời gian để các cơ quan thi hành án báo cáo thống kê theo
định kỳ) phải chuyển sang kỳ sau thi hành" [16, tr. 60].
Quan điểm thứ nhất có hạt nhân hợp lý, nhưng chúng tôi đồng tình với
quan điểm thứ hai, bởi những lý do sau đây:


25

Thứ nhất, trước hết cần làm sáng tỏ bản chất pháp lý của những loại
việc dân sự có điều kiện thi hành án và những loại việc dân sự chưa có điều
kiện thi hành án.
Theo trình tự, thủ tục thi hành án được qui định tại Nghị định số
69/NĐ-CP ngày 18 tháng 10 năm 1993 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận
được bản sao bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan thi hành án chủ động ra
quyết định thi hành án đối với các loại bản án, quyết định của Tòa án (5 loại bản
án, quyết định được qui định tại Điều 20 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1993: bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã
hội chủ nghĩa; phạt tiền; tịch thu tài sản và án phí; các quyết định khẩn cấp tạm
thời để đảm bảo lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi
hành án của Tòa án và hai loại bản án, quyết định theo hướng dẫn của Cục Quản
lý thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp là bản án, quyết định về trả lại tài sản cho
cá nhân, hoặc trả lại tài sản cho cơ quan, tổ chức mà tài sản cơ quan, tổ chức

được trả lại không phải là tài sản xã hội chủ nghĩa; quyết định về tiêu hủy
tang vật). Đối với loại việc thi hành án theo đơn yêu cầu, trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án, kèm theo bản sao bản án,
quyết định của Tòa án, cơ quan thi hành án phải ra quyết định thi hành án.
Sau khi ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải
kịp thời phân công cán bộ vào sổ thụ lý thi hành án và phân công chấp hành viên
tổ chức thi hành; chấp hành viên được phân công tổ chức việc thi hành án phải
nhanh chóng kịp thời xác minh điều kiện thi hành án và phân loại chính xác các
việc thi hành án có hay chưa có điều kiện thi hành án để làm cơ sở cho việc đề
ra biện pháp giải quyết việc thi hành án. Nội dung xác minh điều kiện thi
hành án phải thể hiện rõ: nghề nghiệp của đương sự, số lượng các thành viên
trong gia đình, thái độ các thành viên trong gia đình của người phải thi hành
án, uy tín và khả năng của người phải thi hành án trong việc lôi kéo những


×