Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN gây hứng thú học môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.62 KB, 13 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

LỜI NÓI ĐẦU
Có một thực tế đáng buồn cho những giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay là :
học sinh chán học văn. Tìm tòi, suy nghó để có được một giải pháp khả thi nhằm gây
hứng thú cho học sinh là điều bản thân hằng trăn trở. Mà nói đến hứng thú trong
giờ học văn lại không thể không nhắc đến phương pháp tạo hứng thú của người dạy.
Một tiết dạy Ngữ văn cũng như một buổi trình diễn nghệ thuật vậy. Thành
hay bại là xét cả quá trình tiết dạy diễn ra. Tuy nhiên, bản thân cứ mỗi lần vào
bài cho một tiết dạy thấy hứng khởi thì tiết dạy đó thực sự như ý. Từ đó nghó rằng
phải có cách để vào bài thật hấp dẫn chứ! Thế là ý tưởng “kể chuyện vào bài”
được manh nha, ấp ủ.
Nói cho nho nhã, ông bà ta có câu “Vạn sự khởi đầu nan”, hay dân dã hơn
: “Đầu xuôi đuôi lọt”! Vì thế, người viết đề tài này chỉ xin được nói đến công
đoạn vài phút đầu tiên của một tiết dạy Ngữ văn mà thôi. Tất nhiên để dẫn dắt
vào bài học mới, mỗi thầy cô giáo đều có một phương pháp thường dùng. Nhưng
nói rằng vào bài lôi cuốân, hấp dẫn sự tập trung cho học sinh ngay từ đầu tiết dạy
thì thật không đơn giản.
Thi só Xuân Diệu từng viết: “Lí thuyết chỉ là màu xám… và cây đời thì
mãi mãi xanh tươi”. Thực tế giảng dạy là cả một quá trình tự hoàn thiện chức
năng người thầy. Sau một thời gian thực nghiệm ở cả những lớp các biệt yếu kém,
bản thân nhận thấy có thể chia sẻ chút ít kinh nghiệm của mình về vấn đề này nên
mạnh dạn trình bày như một sáng kiến kinh nghiệm trong phạm vi hẹp với nhan đề:
“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI - MỘT BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ
CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN.”

Do khả năng trình bày có hạn,đề tài tuy chẳng phải mới mẻ nhưng bản chất


lại thiên về một cách nghó, cách làm của cá nhân, nên gặp phải một số hạn chế là
điều khó tránh. Chỉ mong sao, với đề tài này, người viết có thể chung tay cùng
các thầy cô giáo Trường Cấp 2-3 Đa kia - nhất là những giáo viên dạy Ngữ văn
- trong quá trình đưa học sinh trở lại với văn chương, giúp các em có được hứng
thú trong những giờ dạy văn mà thầy cô hằng lao tâm khổ tứ.
Được như thế đã là hạnh phúc lớn lao cho người viết lắm vậy!
Rất mong nhận được sự góp ý chân tình của quý thầy cô trong Trường cũng
như tất cả các bạn đồng nghiệp gần xa để đề tài có thể phát triển ở phạm vi rộng
hơn...
Tác giả
Nguyễn Văn Sinh

Nguyễn Văn Sinh

1

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1) Lý do chọn đề tài:
Bản thân người viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm này cảm thấy có một
ngoại lực thơi thúc tìm kiếm một phương án ngõ hầu lơi cuốn được học sinh
trong giờ học Ngữ văn, trước hết, sự thơi thúc ấy xuất phát từ thực trạng dạy

và học văn hiện nay.
Ngữ văn trong nhà trường phổ thơng thường được xác định là một mơn
học cơng cụ. Nếu căn cứ vào quy chế xếp loại học lực HS, Ngữ văn còn được
xem là mơn chính (cùng với mơn Tốn). Quy định là thế, hiểu với nhau là thế,
nhưng cái vai trò “chính” của bộ mơn – trong thực thế dạy-học hiện nay- chưa
mấy được thể hiện và phát huy một cách tương xứng.
Thầy cơ giáo (từ đây được hiểu là giáo viên THPT) hiện đang trực tiếp
giảng dạy Ngữ văn có thể chia làm 3 thế hệ: trước năm 1990, từ 1990 đến năm
2005 và từ 2005 đến nay. Tất cả đều được đào tạo từ các trường ĐHSP cơng
lập với nhiều hệ khác nhau. Sự thống nhất về quan điểm đối với Ngữ văn và
việc giảng dạy Ngữ văn trong nhà trường phổ thơng được thể hiện rất rõ ở tầm
vĩ mơ. Nhưng ở góc độ vi mơ, ba thế hệ giáo viên song song tồn tại ba dòng
kiến thức, ba cách tiếp cận tác phẩm và có thề nói là cả ba cách truyền thụ khác
nhau. Những buổi tập huấn chung, mang tính “cưỡi ngưa xem hoa” về phương
pháp chỉ dừng ở mức độ định hướng, còn thực dạy thì mỗi người một vẻ.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng ca ngợi “Nghề giáo là một nghề
cao q nhất trong tất cả những nghề cao q!” Nhưng trước đó, tự thân “kỹ
sư tâm hồn” đã là một nghề có tính đặc thù cao, đặc thù cả trong đào tạo, trong
sản phẩm làm ra, trong mơi trường hoạt động, trong tương quan xã hội…Riêng
đối với GV dạy văn, đặc thù còn bởi nó vừa mang tính khoa học, vừa mang
tính nghệ thuật. Yếu tố nghệ thuật trong GD Ngữ văn ngay từ khi bước vào
Trường ĐHSP đã bị xem nhẹ. Giáo sinh ra trường, nhiều người khơng thể dạy
Văn được-bởi trong ngơn ngữ giao tiếp của họ khơng thấy có chất văn, mặc dù
viết lách rất tuyệt vời và kiến thức có thể rất un bác! Đây là một mâu thuẫn
nội tại và cũng là một thực tế đáng buồn: có kiến thức, có phương pháp mà
khơng thể trở thành thầy giỏi-họ đã đứng nhầm bục giảng một cách oan uổng!
Đối với bản thân người giáo viên dạy Ngữ văn, khả năng thích nghi với
những biến động - mà nhiều nhà giáo dục tâm huyết gọi là những cải cách
chóng mặt trong hơn hai thập niên qua về chương trình, nội dung Ngữ văn
trong nhà trường phổ thơng - là chưa cao. Thế hệ thứ nhất cảm thấy khó khăn

khi phải giảng những bài văn trừu tượng, siêu thực, phải làm quen với những
thuật ngữ văn chương vừa thay đổi ngoại diên. Thế hệ thứ hai thì tiến thối
lưỡng nan trước những văn phẩm sử thi - anh hùng ca, với nội dung đề cao ý
thức bản ngã. Còn thế hệ thứ ba thì rất khó truyền thụ cho học sinh hiểu về hào
khí của cha ơng trong văn học trung đại hoặc chất lãng mạn của thơ mới…
Thêm vào đó, việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào giảng dạy Ngữ
văn (đối với các mơn tự nhiên thì rất sơi nổi), thì chẳng mấy giáo viên mặn mà.
Tinh hoa của cơng nghệ thơng tin đang bị nhiều thầy cơ giáo dạy Ngữ văn cho
đứng ngồi cuộc.
Nguyễn Văn Sinh

2

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

Tất cả những tác động trên đây đang từng ngày từng giờ nhằm vào mơn
Ngữ văn. Cho dù là khách quan hay chủ quan, đều gây những hiệu ứng xấu.
Mà xấu nhất chính là kết quả này: HỌC SINH CHÁN HỌC NGỮ VĂN.
Thầy là thế, còn trò thì sao?
Trong thời đại bùng nổ thơng tin như hiện nay, các em có đủ điều kiện
để tiếp cận với thế giới bên ngồi nhất là trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, giải
trí…một cách nhanh chóng và hiệu quả. Ngày nay, thật hiếm thấy có em học
sinh đọc ngấu nghiến một tập tiểu thuyết dày vài trăm trang - dù đó là những

ấn phẩm siêu hạng, đang bán chạy nhất trên thị trường sách. Kiến thức cơ bản
về ngữ văn nhiều em bị hổng - rất nhiều em khơng viết nổi một lá đơn xin
phép nghỉ học cho đủ nội dung và đúng bài bản. Ngơn ngữ nói thì cộc lốc,
khơng đầu khơng đi. Trong giờ học văn thì ngáp ngắn ngáp dài. Thầy u
cầu trả bài thì đọc thuộc như vẹt. Khi kiểm tra, thi cử thì đạo văn người khác;
đánh trắc nghiệm thì “chằm chày may rủi”…
Các em khơng được trang bị một cách đầy đủ phương pháp tiếp cận một
tác phẩm. Học theo ý thầy giảng là đã q lắm rồi (!). Trong trường phổ thơng
hiện nay, hiếm khi thấy có một học sinh nêu lên chính kiến của mình về một
nhân vật, một hình ảnh thơ, một cách diễn đạt… Các em ngày càng thụ động,
xa rời bản chất của người học văn.
Cũng phải nói thêm rằng, trong xã hội thị trường hóa nhiều lĩnh vực như
hiện nay, học giỏi Văn khơng bằng giỏi Tốn-Lý-Hóa-Ngoại ngữ…, cơ hội
việc làm, thu nhập cao vẫn là mồi nhử hấp dẫn khiến các em xa dần mơn Văn.
Nhiều học sinh có khả năng cảm thụ tốt, hành văn trơi chảy nhưng phụ huynh
vẫn khơng mặn mà lắm khi định hướng cho con em mình học chun văn
chẳng hạn. Học văn chỉ mong sao đừng dưới trung bình còn đầu tư mạnh vào
các mơn tự nhiên…
Lý do thứ hai thơi thúc bản thân là bởi năm học 2008-2009 được BGD
chọn là năm học hưởng ứng thiết thực cuộc vận động xây dựng “Trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. Mà muốn có sự tích cực từ phía học sinh, nhất
thiết phải có sự kích hoạt của người thầy. Vậy sự kích hoạt ấy là gì?
Có nhiều cách kích hoạt, nhiều giải pháp nhằm khắc phục thực trạng học
sinh thụ động và chán học Văn như đã nêu trên. Bản thân, trong hơn mười lăm
năm trực tiếp giảng dạy Ngữ văn trung học phổ thơng, tự thấy mình vẫn chưa
làm tròn trách nhiệm. “Sản phẩm” tạo ra vẫn còn nhiều tì vết, chưa được như
mong muốn. Rồi thì cố gắng suy nghĩ, mày mò tìm hiểu hầu mong tìm ra một
giải pháp nào đó để đưa các em về với văn chương. Có những lúc bước vào lớp
học, cả lớp hơn 40 học sinh đồng loạt vỗ tay, lòng thật dạt dào vui sướng. Các
em đã đặt hết niềm tin và hy vọng vào Thầy. Vậy còn Thầy?

Sau 3 học kì ấp ủ, hình thành ý tưởng, nghiên cứu tài liệu và so sánh đối
chiếu qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp, nay bản thân mong muốn
được thể hiện tất cả những điều tâm đắc mà những trải nghiệm cá nhân đã qua,
đã thực hành và thấy có hiệu quả nhất định. Đó là vấn đề làm thế nào để gây
hứng thú cho HS trong giờ học Ngữ văn?
Nguyễn Văn Sinh

3

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

Đây là một vấn đề lớn, trong phạm vi của một đề tài sáng kiến kinh
nghiệm, bản thân người viết chỉ có một mong muốn nho nhỏ là qua 6 tiết dạy ở
cả 3 phân mơn, chứng minh rằng: tiết dạy nào người thầy gây được hứng thú
cho HS ngay từ lúc vào bài, tiết dạy đó có xác suất thành cơng cao! Kể chuyện
vào bài để gây hứng thú trong giờ học đối với HS là một cách tạo tâm thế hứng
khởi ngay từ đầu tiết học, tiết dạy thành cơng ấy.
Vì những lẽ trên, đề tài xin được gọi tên khá dài nhưng đầy đủ:
“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI-MỘT BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ
CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN”.
2) Phạm vi tìm hiểu và ứng dụng của đề tài:
Trong nội dung chương trình hiện nay, mơn Ngữ văn THPT (gồm đọc
văn; tiếng Việt và làm văn) đã thống nhất và được phân phối đan xen một cách

khoa học theo hướng tích hợp cao, nhưng vẫn có sự phân biệt nên có thể gọi là
3 phân mơn.
Bước đầu, bản thân thử áp dụng cho mỗi phân mơn 2 tiết (tức 6 tiết
dạy cụ thể-tương ứng với 6 câu chuyện chọn lọc được lồng ghép kể vào đầu
giờ dạy)
a) Đối với phân mơn đọc văn: Kể hai chuyện:
+ Chuyện “Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần”: dành vào bài cho
tiết “Tác gia Nguyễn Trãi”- Lớp 10 (cơ bản);
+ Chuyện “Ngọn đèn chúc ngược, xe khơng kéo mà chạy”: dành
vào bài “Xin lập khoa luật) (trích “Tế cấp bát điều” của Nguyễn Trường Tộ)Lớp 11(cơ bản).
b) Đối với phân mơn Làm văn: Kể hai chuyện:
+ Chuyện “ Giai thoại về đồng chí Lê Đức Thọ và Tiến sĩ Kit-singiơ”: dành vào bài tiết : Thao tác lập luận so sánh – Lớp 11(cơ bản).
+ Chuyện “Tin vịt” : dành vào bài tiết : “Bản tin”- Lớp 11(cơ bản).
c) Đối với phân mơn Tiếng Việt: Kể hai chuyện:
+ Chuyện “Lời dặn trên nhãn chai rượu thuốc”: dành vào bài cho
tiết tự chọn “Một số lỗi thường gặp-Lỗi về ngữ pháp”-Lớp 10(cơ bản).
+ Chuyện “Mất”: dành cho vào bài tiết : “Ngữ cảnh”- Lớp 11(cơ
bản).
B. NỘI DUNG:
I. Cơ sở khoa học (lý luận) :
Dạy học là một hoạt động nghề nghiệp vừa có tính khoa học vừa có tính
nghệ thuật rất cao. Khoa học(yếu tố ĐÚNG-ĐỦ)vì nó u cầu người dạy phải
truyền đạt chính xác và đầy đủ nội dung các đơn vị kiến thức cần đạt cho học
sinh thơng qua một phương pháp nhất định với một sự chuẩn bị càng cơng phu
càng tốt. Còn nghệ thuật(yếu tố HAY) vì nó đòi hỏi người thầy phải thực sự có
khả năng truyền được mạch cảm xúc của mình đến với học sinh bằng một
chiêu thức có thể nói là rất cá tính, nhưng trên một nền tảng kiến văn rộng và
một năng lực diễn đạt tuyệt vời. Người dạy Ngữ văn - vì thế, khơng chỉ có dạy
Nguyễn Văn Sinh


4

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

ĐÚNG-ĐỦ mà còn dạy phải dạy HAY mới mong đem lại hứng thú học văn cho
học sinh.
Bản thân cho rằng, trong giờ Ngữ văn, người thầy vừa là biên kịch, đạo
diễn, vừa là diễn viên; còn học sinh tích cực thì phải vừa là khán giả vừa là
diễn viên. Xu hướng đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay cho phép chúng
ta làm được điều đó trong tầm tay. Quan hệ thầy-trò do vậy có tính hơ-ứng
cao.
Bên cạnh đó, bài dạy là một tác phẩm khoa học-nghệ thuật, nó phải
được cơng diễn thì mới tồn tại giá trị. Mà đã cơng diễn thì thành cơng hay thất
bại phụ thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến vai trò hàng đầu của đạo
diễn(tức người thầy).
Đề tài này chú trọng đến yếu tố nghệ thuật (một tiêu chí lẽ ra cần phải
có đối với mọi người thầy); còn yếu tố khoa học người viết khơng có điều
kiện đề cập. Hơn nữa, đấy đã là tiêu chí bắt buộc có đối với người thầy khi rời
ghế trường Sư phạm.
II. Nội dung cụ thể:
1)Vai trò của những phút đầu tiên trong một tiết học-thời điểm vào
bài mới:
Trước tiên, đó là những phút tiền đề quyết định cho khơng khí lớp học:

sơi nổi hay trầm lắng, tích cực hay khơng tích cực.
Thực tế trường lớp của chúng ta hiện nay, khơng phải lớp học nào cũng
tồn học sinh ngoan, chăm chỉ và tập trung. Vì thế, như một cỗ máy đầu giờ
vận hành, các em cần được kích hoạt một cách đồng bộ về mặt tâm lý. Ngay cả
đối với một lớp chỉ có vài em yếu kém, lười học, việc kích hoạt cho cả lớp vẫn
là điều rất cần thiết. Làm được điều này, các em sẽ chăm chú lắng nghe, cùng
nhau tư duy, và khi câu chuyện bất ngờ kết thúc là lúc khởi đầu cho những
kiến thức quan trọng của bài giảng mà các em sắp được lĩnh hội. Cái tâm thế
tuyệt vời ấy của học sinh ảnh hưởng rất lớn đến tâm thế của người thầy suốt
thời gian còn lại của tiết dạy.
Và như một hệ quả tất yếu, khi thầy truyền được hứng thú cho trò ngay
từ đầu giờ học thì những phút tiếp theo của tiết dạy, như một bộ truyền động
được bơi trơn: trò thích thú lắng nghe, tư duy và xây dựng bài học một cách sơi
nổi, tính tích cực trong các em như được khuyến khích và khi ấy, nhu cầu tự
bộc lộ đến với các em ; thầy say sưa với mạch giảng vốn đã được chuẩn bị rất
chu đáo của mình. Thế rồi tiếng trống kết thúc tiết dạy vang lên trong sự tiếc rẻ
của các em.
Có thể nói một cách chắc chắn rằng khả năng thành cơng của tiết dạy như
thế là rất lớn.
Mọi người đều biết rằng dạy Ngữ văn là dạy khoa học về văn chương.
Khoa học văn chương lại gắn liền với phong cách ngơn ngữ nghệ thuật. Đưa
được những mẩu chuyện kể vào bài dạy một cách khéo léo, phù hợp với trọng
tâm tiết dạy là cả một nghệ thuật, một thủ pháp “đắc nhân tâm”, có khả năng
truyền cảm mạnh mẽ - nhất là trong mơi trường sư phạm.
Nguyễn Văn Sinh

5

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA



Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

Tục ngữ có câu : “Vạn sự khởi đầu nan”. Khởi đầu của một tiết dạy vẫn
còn khó khăn đối với khơng ít giáo viên, nhất là trong những tiết thao giảng
hoặc có nhiều đồng nghiệp dự giờ. Một số giáo viên do chuẩn bị bài giảng
chưa tốt nên phần này nhiều người loay hoay cả 10 phút mà vẫn khơng dẫn dắt
được học sinh vào bài học mới một cách như mong muốn. Bản thân cũng đã
từng gặp rắc rối như thế trong một vài tiết dạy.
Đơng đảo nhà giáo chúng ta cũng đã từng nghe những mẩu chuyện vui,
châm biếm cách vào bài của một số đồng nghiệp. Đó là những lời vào bài khơ
khan, “mất lửa”, đơi khi tréo ngoe một cách buồn cười, chẳng ăn nhập gì với
bài giảng.
Đối diện với thực tế trên, bản thân nhiều lần trăn trở với suy nghĩ làm sao
để tiết dạy Ngữ văn của mình phải thực sự sn sẻ ngay từ những giây phút
đầu tiên. Cuối cùng quyết định nghiên cứu, biên tập các mẩu chuyện, cố gắng
thể nghiệm trong một số tiết dạy của mình. Bước đầu thấy có hiệu quả nên đã
mạnh dạn đăng kí đề tài sáng kiến kinh nghiệm này, những mong góp một âm
thanh nho nhỏ vào trong tiếng vang chung của bài ca sư phạm mà các thầy cơ
giáo đang ngày đêm hòa tấu trong sự nghiệp trồng người cao cả của mình.
2) Kể chuyện để dẫn dắt vào bài học:(Trọng tâm)
Trong ba học kì vừa qua, bản thân được BGH phân cơng giảng dạy mơn
ngữ văn ở cả hai khối lớp 10&11, trong đó, đặc biệt có 2 lớp cá biệt yếu. Hầu
hết học sinh ở 2 lớp này(10A2-NH 07-08; 10A1-NH 08-09) có học lực yếu kém,
lưu ban hoặc thi lại mơn ngữ văn ở lớp 9 rồi được xét tuyển lớp 10.Đa số giáo
viên bộ mơn khi vào dạy lớp này đầu có chung một lời than thờ là các em

khơng hề có hứng thú học tập. Tất nhiên ngun nhân dẫn đến thực trạng này
thì có nhiều, nhưng bản thân nghĩ rằng, suy cho cùng thì người thầy là đối
tượng cần phải nhìn lại mình trước đã.
Từ chỗ nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá lại khả năng sư phạm của mình,
bản thân chọn lọc một số tiết dạy để thử nghiệm ý tưởng phục hồi hứng thú
học tập cho các em qua cơng đoạn vào bài của tiết dạy.
Kế hoạch thử nghiệm cụ thể như sau:
a) Đối với phân mơn Đọc văn: Kể hai chuyện:
+ Chuyện “Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần”: dành vào bài cho
tiết đầu, phần“Tác gia Nguyễn Trãi” trong bài dạy “Đại cáo bình Ngơ”- Lớp
10 (cơ bản).
Lời vào bài như sau:
“Buổi đầu đầy khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến chống qn
Minh, nhân dân chưa hưởng ứng vì chưa biết Lê Lợi là ai. Có một người hiền
tài đã hiến kế cho chủ tướng Lê Lợi nhằm thu phục lòng dân như sau:
Cho qn sĩ vào rừng lấy mật ong bí mật viết lên mặt lá cây tám chữ:
“LÊ LỢI VI VƯƠNG, NGUYỄN TRÃI VI THẦN”(tức “Lê Lợi là vua, Nguyễn
Trãi là tơi”).Lũ kiến gặm vào vết mật ong trên lá cây, làm hiện lên mặt lá rất
rõ tám chữ này. Những người tiều phu vào rừng đốn củi trơng thấy rất nhiều
lá cây xuất hiện “ý trời”. Một đồn mười, mười đồn trăm, nhân dân khắp vùng
kéo nhau đến đầu qn theo Lê lợi kháng chiến ngày càng đơng.
Nguyễn Văn Sinh

6

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm


“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

Các em biết người hiền tài đã hiến kế “đắc nhân tâm” ấy là ai khơng?
Đấy chính là Nguyễn Trãi-tác giả bài cáo có một khơng hai trong lịch sử văn
học Việt Nam mà các em sẽ được tìm hiểu ngay sau đây.”
+ Chuyện “Ngọn đèn chúc ngược, xe khơng k mà chạy”: dành vào
bài “Xin lập khoa luật” (trích “Tế cấp bát điều” của Nguyễn Trường Tộ)Lớp 11(cơ bản).
Lời vào bài như sau:
“Vào giữa TK XIX, có một trí thức Việt hết sức đặc biệt, từng được du
học các nước phương Tây, được vua Tự Đức cử sang Pháp mua sắm máy
móc… Giai thoại kể rằng ơng đã từng tấu lên vua về những điều mắt thấy tai
nghe ở phương Tây như: xe khơng kéo mà chạy(ơ tơ); đèn khơng dầu, chúc
ngược mà vẫn sáng(đèn điện)…và có nhiều văn bản khác đề nghị triều đình
cải cách. Nhưng thật đáng tiếc, vua và quần thần lại cho đó là những lời sàm
tấu, khơng thể tin(!). Nếu khơng thì có lẽ đất nước ta giờ đã tiến xa về khoa
học-kĩ thuật.
Người trí thức đặc biệt ấy chính là Nguyễn Trường Tộ-tác giả của bản
điều trần “Tế cấp bát điều”, trong đó có văn bản đề nghị với vua và triều đình
xin lập khoa luật mà các em sẽ được tìm hiểu trong tiết đọc văn hơm nay.”
b) Đối với phân mơn Làm văn: Kể hai chuyện:
+ Chuyện “ Giai thoại về đồng chí Lê Đức Thọ và Tiến sĩ Kit-singiơ”: dành vào bài tiết : Thao tác lập luận so sánh – Lớp 11(cơ bản).
Lời vào bài:
“Trong kháng chiến chống Mĩ, vào khoảng thời gian diễn ra Hội nghị
Pa-ri bàn về chiến tranh Việt Nam, phía ta cử đồng chí Lê Đức Thọ làm
trưởng đồn đàm phán, phía Mĩ cử đại diện là ngoại trưởng, tiến sĩ Kit-singiơ. Kit-sin-giơ người to cao còn Bác Thọ thì vóc người nhỏ nhắn.
Một lần cùng đi vào Hội trường, Kit-sin-giơ nói:
- Dù sao thì ngài vẫn thấp hơn tơi một cái đầu! (hàm ý chê bác Thọ ít
học hơn ơng ta).

Xong buổi họp, khi vào buồng nghỉ ở khách sạn, lúc cả hai đã nằm nghỉ
lưng trên giường, Bác Thọ nói với Kit-sin-giơ:
- Thực ra, ngài chỉ dài hơn tơi một cái đầu mà thơi! (Ý nói Kit-sin-giơ
chỉ to xác mà thơi chứ trí tuệ thì chưa chắc ai hơn ai).
Cả hai nhân vật nổi tiếng trên đều sử dụng một phương pháp lập luận
rất phổ biến trong đời sống ngơn ngữ của con người-đó là lập luận so sánh
với nhiều tầng ngữ nghĩa hết sức thâm thúy.
Vậy bản chất của thao tác lập luận này ra sao? Thầy sẽ hướng dẫn các
em tìm hiểu trong tiết học làm văn hơm nay.”
+ Chuyện “Tin vịt” : dành vào bài tiết : “Bản tin”- Lớp 11(cơ bản).
Lời vào bài:
“Xưa có người đi câu gặp may, câu được cả chục con vịt trời. Về đến
nhà, chòm xóm đến chia vui và hỏi thăm kinh nghiệm. Anh ta liền kể một
mạch:
Nguyễn Văn Sinh

7

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

- Có gì đâu! Các bác biết khơng, tơi câu cả chục con vịt mà chỉ tốn đúng
một miếng mồi thơi đấy!
Mọi người trố mắt ngạc nhiên. Anh ta kể tiếp:

- Thế này nhé, tơi dùng một cục thịt mỡ tròn tròn móc vào lưỡi câu. Con
vịt thứ nhất đớp mồi và ngay lập tức trơn tuột ra sau hậu mơn. Con vịt thứ hai
lại đớp rồi tuột, đớp…tuột…Cứ thế, cả mười con xâu gọn vào dây câu của tơi.
Biết là gặp kẻ khốc lác, mọi người lảng ra về. Từ đó, người ta gọi
những thơng tin kiểu như thế là “Tin vịt”!
Ngày nay, một bản tin trên báo chí cần phải chính xác, khách quan.
Người đọc khơng thể chấp nhận loại “Tin vịt” như trên.
Tiết học làm văn hơm nay sẽ giúp các em nắm được đặc trưng cũng như
cách viết một bản tin theo đúng u cầu của một văn bản báo chí.”
c) Đối với phân mơn Tiếng Việt: Kể hai chuyện:
+ Chuyện “Lời dặn trên nhãn chai rượu thuốc”: dành vào bài cho
tiết tự chọn “Một số lỗi thường gặp-Lỗi về ngữ pháp”-Lớp 10(cơ bản)
Lời vào bài:
* GV nêu tình huống:
Trên nhãn của một chai rượu thuốc có ghi lời dặn của nhà sản xuất như
sau: “Khi ăn cơm khơng được uống thứ rượu này”(khơng dùng dấu câu).
Nếu em là người mua chai rượu trên, em chọn cách uống nào?
* HS sẽ trả lời(1, 2 hoặc 3 cách uống) như sau:
- “Khi ăn cơm, khơng được uống thứ rượu này”(uống trước
hoặc sau khi ăn)
- “Khi ăn cơm khơng, được uống thứ rượu này”(uống khi chỉ ăn
cơm khơng-khơng có thức ăn hoặc khơng độn ngơ, khoai…)
- “Khi ăn cơm khơng được, uống thứ rượu này”.(uống khi biếng
ăn). (!)
* Lời dặn trên đây của nhà sản xuất mắc lỗi gì trong cách diễn đạt? Tại
sao một thơng tin lại có đến ba cách hiểu khác nhau như thế?...có lẽ các em đã
rõ.
Để giúp các em tránh được những lỗi tương tự khi phát ngơn, tiết tự
chọn về tiếng Việt hơm nay, thầy trò chúng ta cùng tìm hiểu “Một số lỗi
thường gặp-Lỗi về ngữ pháp”.

+ Chuyện “Mất”: dành cho vào bài tiết : “Ngữ cảnh”- Lớp 11(cơ
bản).
Lời vào bài:
“Có một người cha rất cẩn thận, trước lúc đi vắng, dặn đứa con trai
nhỏ tuổi hễ thấy ai đến kiếm ba thì đưa ngay cho người ấy mảnh giấy này.
Đứa con vâng lời và nhét mảnh giấy vào túi.
Vài giờ sau, lúc đang mải chơi thì có người khách lạ đến hỏi:
- Bố có nhà khơng hả cháu?
Thằng bé giật mình lục ngay túi áo, mặt biến sắc, trả lời:
- Mất rồi bác ạ! (mất mảnh giấy)
Đến phiên người khách biến sắc, hỏi dồn:
Nguyễn Văn Sinh

8

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

- Ối giời ơi! Khổ chưa! Thế mất lúc nào?(tưởng bạn chết đột ngột)
- Dạ mới mất!...
Các em thấy, qua đoạn hội thoại trên, hai nhân vật có hiểu nhau khơng? Vì
sao? Bài học tiếng Việt về Ngữ cảnh sau đây sẽ giúp các em thấy rõ bản chất
của những vấn đề ngơn ngữ tương tự câu chuyện trên.”
3) Thực tiễn ứng dụng và hiệu quả:

Những mẩu chuyện trên được biên tập từ nhiều nguồn khác nhau, đều
ngắn gọn, súc tích và giáo viên phải tự biên tập để trình bày một cách phù hợp
với phần vào bài của một tiết dạy. Hiệu quả càng cao khi giáo viên có giọng kể
truyền cảm, lơi cuốn; ngữ điệu khi nghiêm trang, khi hóm hĩnh một cách linh
hoạt.
Nội dung câu chuyện có tác dụng lơi cuốn sự tập trung của học sinh gần
như ngay lập tức bởi kịch tính cao. Có thể trong lớp đã có em từng nghe qua
câu chuyện của thầy, nhưng khơng vì thế mà bớt đi sự hào hứng. Hiệu ứng im
lặng xảy ra. Trong lớp chỉ còn giọng kể lúc trầm lúc bổng của thầy, cho đến
khi nút kịch cuối cùng của câu chuyện được mở ra. Một tiếng “Ồ!” đồng thanh
hoặc một chuỗi cười tự nhiên bật ra rồi ngay lập tức cả lớp lại n lặng. Tiết
học bắt đầu đi vào quỹ đạo tốt đẹp của nó.
Bản thân người viết đã liên tục sử dụng biện pháp này trong rất nhiều
tiết dạy, qua nhiều năm học và với nhiều lớp học sinh khác nhau. Tất cả đều
thành cơng, khơng có ngoại lệ.
Cũng xin được nói thêm, về lí thuyết, tất cả các tiết dạy, kể cả tiết trả bài
viết, mọi giáo viên Ngữ văn đều có thể vào bài một cách lơi cuốn bằng cách kể
chuyện, miễn là nắm được mấu chốt của vấn đề.
Vấn đề mấu chốt để đảm bảo chắc chắn việc kể chuyện vào bài có hiệu
quả gây hứng thú cho HS, đó là:
a) Cần xác định tiêu chí cho mẩu chuyện:
Nội dung câu chuyện phải liên quan mật thiết với u cầu của bài học;
ngắn gọn, súc tích và kịch tính cao; có ý nghĩa giáo dục nhất định…
b) Giáo viên phải sưu tầm, tự biên tập và tự kể sao cho phù hợp, linh
hoạt;
c) Giọng kể phải rõ ràng, có ngữ điệu, truyền cảm và hấp dẫn (kể cả khi
dạy với sự hỗ trợ của máy chiếu).
C. KẾT LUẬN:
1)Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm đối với việc giáo dục, dạy học:
Chương trình Ngữ văn 10, 11 hiện nay với trọng tâm là văn học trung

đại-một thời kì văn học mà rất nhiều giáo viên bộ mơn cho là khó truyền thụ
đối với thầy và khó lĩnh hội đối với trò. Nhưng bù lại, lịch sử trung đại có vơ
số chuyện kể, giai thoại về con người cũng như văn chương. Nếu đầu tư cơng
sức để thiết kế tốt bài giảng - mà trước tiên là phần vào bài sn sẻ, mạch lạctâm thế của cả thầy và trò sẽ rất thoải mái và đầy tự tin để đi nốt các phần
Nguyễn Văn Sinh

9

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

trọng tâm của tiết dạy mà khơng còn cảm giác lo lắng về nhưng bài giảng
thuộc thời kì văn học xa xưa này.
Một số giáo viên rất ngại khi phải thao giảng tiết Làm văn bởi bản chất
khơ khan của nó. Thực ra, nếu thực sự nắm bắt được nghệ thuật giảng dạy, tiết
làm văn cũng có thể ướt át, hấp dẫn khơng kém. Qua nội dung các mẩu chuyện
kể, học sinh dần hình thành nếp học tập trung khi thấy thầy vào lớp-một kết
quả đáng giá khi thực tế việc làm ồn trong lớp vẫn thường xun gây bận tâm
cho các thầy cơ giáo.
Lẽ tất nhiên hiệu quả của đề tài này khơng thể là tồn bích được. Nếu chỉ
vào bài sn sẻ còn sau đó thì tẻ nhạt, lúng túng, thiếu chính xác, khơng đầy
đủ…thì sao có tiết giảng thành cơng được! Ý nghĩa của đề tài này chỉ gói gọnxin nhấn mạnh- chỉ gói gọn trong những phút đầu khi giáo viên vào bài mới
mà thơi! Nó chỉ là một tiền đề, một món ẩm thực khai vị trong bữa đại tiệc là
tiết dạy ngữ văn (nếu có thể ví được như thế).

2) Những nhận định chung về việc áp dụng và khả năng vận dụng:
Để ứng dụng tốt đề tài này, u cầu giáo viên bộ mơn khi thiết kế bài dạy,
trước hết phải tìm được mối liên hệ giữa bài dạy với nội dung một số mẩu
chuyện, giai thoại…. sau đó chọn (sưu tầm hoặc tự sáng tác) một chuyện phù
hợp nhất để đưa vào phần vào bài. Bước tiếp theo là biên tập câu chuyện.
Khơng phải cứ lấy ngay một chuyện cười, ngụ ngơn dân gian rồi bê vào giáo
án là được. Phải tinh lọc lời văn, cốt truyện sao cho khơng thừa, khơng thiếu
thì lời vào bài mới đắc dụng.
Tất cả những u cầu trên, bất cứ giáo viên ngữ văn nào cũng có thể làm
được, chỉ cần giáo viên có thêm một giọng kể kha khá, dễ truyền cảm là “món
khai vị” do giáo viên dày cơng chế biến sẽ được học sinh hấp thụ một cách dễ
dàng và vơ cùng bổ ích, nó sẽ tác động trực tiếp giúp các em tiếp tục lĩnh hội
một cách nhanh chóng những “món” tiếp theo của thầy.
3) Những ý kiến đề xuất để thực hiện, áp dụng:
Khơng thể lấy một phương pháp nào đó để áp đặt cho mọi trường hợp.
Tuy nhiên, nếu đây là đề tài mà các thầy cơ giáo quan tâm và có thể tham khảo
ứng dụng trong giảng dạy thì bản thân tác giả cũng mạnh dạn đưa ra những đề
xuất sau đây:
+ Mỗi giáo viên dạy Ngữ văn cần có cho mình một số vốn về chuyện kể,
giai thoại văn học, xã hội…Nguồn vơ tận mà mọi người có thể khai thác đó là
trong sách vở, trên mạng In-tơ-net, trong văn học dân gian, thậm chí trong cả
những câu chuyện lúc trà dư tửu hậu…
+ Tổ Ngữ văn cần có những hội thảo nhỏ về những vần đề giảng dạy thiết
thực, gần gũi và dễ thực hiện đối với mọi người. Trong đánh giá, xếp loại tiết
dạy của giáo viên cũng nên coi trọng tính nghệ thuật của người thầy, góp phần
giảm dần sự xơ cứng trong q trình dạy ngữ văn.
+ Nhà trường nên tổ chức định kỳ hoặc đột xuất sát hạch kỹ năng giảng
dạy của giáo viên thơng qua ý kiến phản hồi từ phía học sinh. Tất nhiên chỉ để
cho Ban giám hiệu tham khảo và có kết luận cuối cùng đối với thực tế giảng
Nguyễn Văn Sinh


10

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”

dạy của một giáo viên, đồng thời nhắc nhở, động viên các thầy cơ đứng lớp
phát huy tối đa khả năng sư phạm của mình hoặc kịp thời uốn nắn những sai
sót trong khi lên lớp./.


Nguyễn Văn Sinh

11

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”


Mục lục
LỜI NĨI ĐẦU

TR. 01

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:

TR. 02

1) Lý do chọn đề tài:
2) Phạm vi tìm hiểu và ứng dụng của đề tài:
B. NỘI DUNG:

TR. 04

I. Cơ sở khoa học (lý luận) :
II. Nội dung cụ thể:
1)Vai trò của những phút đầu tiên trong một tiết họcthời điểm vào bài mới:

TR. 05

2) Kể chuyện để dẫn dắt vào bài học:(Trọng tâm)

TR. 06

3) Thực tiễn ứng dụng và hiệu quả:

TR. 09

C. KẾT LUẬN:


TR. 09

1)Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm đối với việc giáo dục, dạy học:
2) Những nhận định chung về việc áp dụng và khả năng vận dụng:
3) Những ý kiến đề xuất để thực hiện, áp dụng:


Tài liệu tham khảo:
1) Tâm lí học tun truyền
(Na-đi-ra-svi-li)
2) Bài báo
(Hồ Ngọc Đại)
3) Tun truyền miệng-lý luận, tổ chức, phương pháp (Tập thể tác giả Nga)
4) Danh nhân đất Việt ( Văn Lang-Quỳnh Cư-Nguyễn Anh)
5) Truyện cười dân gian Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi)
6) Tìm hiểu chương trình SGK…(Đỗ Ngọc Thống)

Nguyễn Văn Sinh

12

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA


Sáng kiến kinh nghiệm

“KỂ CHUYỆN VÀO BÀI… BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO

HS ...”


NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GIÁO DỤC

Nguyễn Văn Sinh

13

TRƯỜNG PT CẤP 2-3 ĐA-KIA



×