Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lê nin về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.29 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương pháp khoa
học trí tuệ là tinh hoa văn hoá mà nhân loại đã sáng tạo ra.
Quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội là quy luật về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này
sang hình thái kinh tế-xã hội khác không phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua
cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Từ đó, Mác-Ăngghen và Lênin đã trực tiếp
nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự
diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu
thông qua cuộc cách mạng xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ
con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột. Lực lượng cách mạng thực
hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội không ai khác mà chính là giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là chân lý trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trên thế giới và là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho Đảng cộng
sản Việt Namtrong công cuộc thực hiện cách mạng Việt Nam.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn nữa về việc áp dụng nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và quá trình cách mạng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói riêng, nhóm 2 lựa chọn đề tài “Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, căn cứ vào một số quan điểm trong đường lối của Đảng
trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Do điều kiện về thời gian, về tài liệu cũng như trình độ hiểu biết còn hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ
cô và các bạn để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn.
Nhóm xin chân thành cảm ơn.



PHẦN A: NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I .Khái niệm cách mạng Xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất
là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai
cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị được kết
thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền,
thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của giai cấp công nhân và quần
chúng nhân dân lao động.
Theo nghĩa rộng:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, theo nghĩa
rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với quần
chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc cách
mạng này mới kết thúc.
II. Nguyên nhân của sự ra đời cách mạng XHCN
Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng trong xã hội là do mâu thuẫn gay gắt
giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã
trở nên lỗi thời.
Chủ nghĩa Mác – Lenin cho rằng, nguyên nhân xâu xa của cuộc cách mạng Xã hội Chủ
nghĩa là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển sẽ mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó và tất yếu phải thay thế quan hệ sản
xuất lỗi thời bằng quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. Do vậy, dưới Chủ nghĩa Tư bản,
nhất là khi máy hơi nước ra đời làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, ngày

càng mang tính chất xã hội hóa cao; dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính
chất Tư bản Chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.


Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
dẫn tới khủng hoảng thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Trong xã hội
này, giai cấp công nhân sống bằng việc bán sức lao động cho nhà tư bản, do vậy khi sản
xuất đình trệ, công nhân không có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp
tư sản. Để khắc phục tình trạng trên, giai cấp tư sảnđã tổ chức ra các cácten, xanhđica,
tơrớt côngxoócxiom; nhà nước tư sảnngày càng can thiệp sâu vào kinh tế bằng việc quốc
hữu hóa một số ngành khi gặp khó khăn, tư hữu hóa khi thuận lợi... Tuy nhiên, mọi biện
pháp đó đều không thể giải quyết được căn bản vấn để khủng hoảng trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không tự diễn ra mà phải là kết quả giác ngộ của giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Giai cấp công nhân trên cơ sở tiếp nhận
lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, tự mình tổ chức ra chính đảng cách mạng, tiến hành
tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân đứng lên thực hiện lật đổ chế độ xã hội cũ,
chế độ áp bức bóc lột để xây dựng xã hội mới.
Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư
bản ngày càng gay gắt, nhưng Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa không diễn ra một cách tự
phát mà thông qua hoạt động của con người và những điều kiện khách quan, chủ quan
nhất định.
III. Điều kiện
Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa muốn nổ ra và giành thắng lợi, phải có những điều
kiện khách quan và chủ quan.
Điều kiện khách quan của Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa:
Phải có những mâu thuẫn về kinh tế- xã hội diễn ra gay gắt trong lòng xã hội Tư
bản Chủ nghĩa.
Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, quyết định nhất của

cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Mâu thuẫn kinh tế này đã dẫn đến mâu thuẫn về xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Dưới chế độ TBCN, nền đại công nghiệp phát triển cao dựa trên cơ sơ sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học – kỹ thuật đã hình thành những thành phố lớn, những khu công nghiệp
tập trung, làm cho lực lượng sản xu ất đạt đến trình độ xã hội hóa cao. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất đã tạo ra một đội ngũ công nhân ngày càng đông về số lượng và cao về
chất lượng. Họ gắng bó hữu cơ với nền sản xu ất hiện đại và giữ vai trò quyết định trong


việc tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, nhưng của cải đó lại bị giai cấp
Tư sảnchiếm đoạt. Điều đó giúp cho công nhân dễ dàng nhận thấy sự bạo tàn của giai cấp
Tư sảnvà họ trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản; làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.
Giai cấp tư sản không chỉ áp bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong
các nước, mà với lòng tham vô hạn, với khát vọng quền lực, giai cấp tư sản đã tiến hành
những cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biến những nước này thành thuộc địa
của chúng. Điều đó làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nước thuộc địa
ngày càng trở nên gay gắt.
Những mâu thuẫn trên dẫn tới nguy cơ tạo thành cách mạng Xã hội và nó đòi hỏi phải
giải quyết bằng cuộc cách mạng Xã hội, nhằm xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư
ản, thiết lập một chế độ xã hội mới – Xã hội Chủ nghĩa.
Điều kiện chủ quan của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa
Có điều kiện khách quan mà thiếu điều kiện chủ quan thì cách mạng xã hội chủ nghĩa
cũng không thể nổ ra, nếu nó nổ ra thì cũng không thể thắng lợi.
Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp
công nhân, đặc biệt là khi nó đã có đảng tiên phong của mình.
Nếu không có điều kiện chủ quan này thì Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa không nổ ra.
Bằng chứng là ở các nước Tư bản Chủ nghĩa hiện nay như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp… Mâu
thuẫn kinh tế - xã hội đã có, nhưng giai cấp công nhân và Đảng Cộng Sản ở những nước
đó chưa muốn phát động cuộc Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Mặt khác, sự khống chế của

giai cấp Tư sảnở những nước đó quá chặt chẽ nên cách mạng Xã hội Chủ nghĩa chưa thể
nổ ra được.
Điều kiện chủ quan thứ hai là sự liên minh công - nông và tầng lớp lao động khác
để tạo nên lực lượng khổng lồ, sức mạnh to lớn để đảm bảo cho cách mạng thắng lợi.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, không chỉ có giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột mà cả
những giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác như: thợ thủ công, nông dân, những
người buôn bán nhỏ và kể cả đa số trí thức... cũng bị bóc lột. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai
cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp nông dân, tầng
lớp trí thức, những người thợ thủ công... Điều đó đã tạo ra những điều kiện cho giai cấp
này có khả năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản.


Thực tế cuộc đấu tranh thử thách giai cấp công nhân, với sự soi sáng lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, giúp giai cấp này nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng cho mình một
chính đảng thực sự cách mạng, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân lao động, thực
hiện việc giác ngộ quần chúng nhân dân, huy động họ đi vào cuộc đấu tranh, tổ chức cuộc
đấu tranh, thì giai cấp công nhân mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình là xoá bỏ
chủ nghĩa tư bản, xây dựng được một chế độ xã hội mới. V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Khi những
đại biểu tiên tiến của giai cấp đã thấm nhuần được những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội
khoa học, tư tưởng về vai trò lịch sử của công nhân Nga, khi các tư tưởng đó đã được phổ
biến rộng rãi và khi mà trong hàng ngũ công nhân đã lập ra được các tổ chức vững chắc
có thể biến cuộc chiến tranh kinh tế phân tán hiện nay của công nhân thành một cuộc đấu
tranh giai cấp tự giác, thì lúc đó người công nhân Nga, đứng đầu tất cả các phần tử dân
chủ, sẽ đạp đổ được chế độ chuyên chế và đưa giai cấp vô sản Nga (sát cánh với giai cấp
vô sản trong tất cả các nước), thông qua con đường trực tiếp đấu tranh chính trị công
khai, tiến tới cách mạng cộng sản chủ nghĩa thắng lợi"
Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải rèn luyện giai cấp công nhân có bản lĩnh
chính trị, phải tự gột rửa những ảnh hưởng tư tưởng tư sản, phong kiến, khắc phục tính vị
kỷ cá nhân, tư tưởng cục bộ, địa phương, bản vị mới có khả năng tập hợp quần chúng

nhân dân, có khả năng đập tan những âm mưu thâm độc và sự chống phá quyết liệt của kẻ
thù.
IV. Tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tiến trình bao gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: là giai đoạn giành chính quyền và trở thành giai cấp thống trị,
là giai đoạn giành lấy dân chủ. V.I. Lênin đã chỉ rõ: giành chính quyền là vấn đề cơ bản
-

của mọi cuộc cách mạng:
Đập tan nhà nước của giai cấp tư sản thống trị.
Thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạnh (Lênin).
Muốn thực hiện được điều đó thì phải có tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng:
Tình thế cách mạng xuất hiện khi mà giai cấp thống trị không thể thống trị như
trước được nữa, những người bị áp bức không thể tiếp tục cuộc sống như trước, giai cấp
lãnh đạo cách mạng đã đủ năng lực lãnh đạo, phát động được cuộc đấu tranh cách mạng
của giai cấp những người lao động chống lại giai cấp tư sản.
Thời cơ cách mạng là lúc giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cực độ, xâu xé lẫn
nhau do sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, phong trào đấu tranh của quần chúng


nhân dân lao động. Lực lượng lãnh đạo cách mạng đã sẵn sàng hành động cho cuộc quyết
chiến để giành chính quyền
Ở trong nước: giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cực độ, nội bộ mâu thuẩn, xấu xé lẫn
nhau, phong trào cách mạng lớn mạnh và lực lượng cách mạng đã sẳn sàng hành động.
Ở bên ngoài: là sự ủng hộ phong trào công nhân quốc tế, tạo điều kiện cho cách mạng
bùng nổ và giành thắng lợi. “Bạo lực cách mạng luôn là bà đỡ cho mọi cuộc cách mạng”.
Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn tiến hành cuộc cách mạng trên tất cả lĩnh vực của
đời sống xã hội, giai cấp công nhân đã nắm chính quyền, sử dụng chính quyền đó, dưới
sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động, thực hiện cải tạo

xã hội cũ, tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
Quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi
hỏi giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động phải biết xoá bỏ những cái gì là
bảo thủ lạc hậu, là phản nhân văn, đồng thời phải biết tiếp thu những cái gì là tiến bộ, là
nhân văn mà nhân loại đã tạo ra và phải biết quí trọng, kế thừa những giá trị truyền thống
của dân tộc mình.
Quá trình tổ chức xây dựng xã hội mới là một nhiệm vụ rất mới mẻ, do đó rất phức tạp,
lâu dài và gian khổ. Một mặt, cần phải khắc phục những tàn dư, những thói quen, tập tục
lạc hậu đã ăn sâu vào trong hàng triệu quần chúng nhân dân lao động, mặt khác, phải tiến
hành cuộc đấu tranh chống lại những âm mưu phá hoại vừa thâm độc, vừa nham hiểm của
những thế lực phản động, hiếu chiến.
V. Mục tiêu, động lực và nội dung của cách mạng Xã hội chủ nghĩa
1. Mục tiêu của cách mạng Xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu của CM XHCN là giải phóng XH, giải phóng con người, đó là mục tiêu cao cả
mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Việc thực hiện mục tiêu đó gắn liền với từng giai
đoạn của CM XHCN:
Mục tiêu trong giai đoạn thứ nhất của CM XHCN là giành chính quyền về tay giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
Mục tiêu trong giai đoạn thứ hai của CM XHCN là xóa bỏ chế độ người bóc lột
người, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đưa lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho
toàn dân; và một khi xóa bỏ được tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ.
2. Động lực của cách mạng chủ nghĩa xã hội:


Cách mạng chủ nghĩa xã hội với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ra khỏi tình trạng áp bức, bóc lột. Do vậy, nó thu hút sự tham gia của đông đảo giai
cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động, tạo ra những động lực to lớn của CM.
Trước hết, giai cấp công nhân: ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng, là
động lực cơ bản và chủ yếu giữ vai trò lãnh đạo đối với cách mạng.

Thứ hai, giai cấp nông dân: lợi ích cơ bản thống nhất với công nhân, là lực lượng
quan trọng của cách mạng và khối liên minh giai cấp.
Thứ ba, đối với tầng lớp trí thức: trí thức đóng vai trò quan trọng trong CM
XHCN, là lực lượng có vị trí quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đấu
tranh giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội
3. Nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Trên lĩnh vực chính trị: đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm
thuê, bị bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội.
Muốn thực hiện được nội dung đó, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản phải dùng bạo lực CM đập tan bộ máy nhà nước của giai
cấp Tư sản, như C.Mác – Ăng ghen nói: “Giai cấp VS mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”
Bước tiếp theo là giai cấp công nhân phải xây dựng một nền dân chủ rộng rãi cho nhân
dân, đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về chính trị, tham
gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là của dân,
do dân và vì dân.
Trên lĩnh vực kinh tế: nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi
của CM XHCN phải là phát triển kinh tế; nâng cao năng suất lao động và cả thiện đời
sống nhân dân.
Thay đổi vị trí người lao động đối với tư liệu sản xuất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân
tư TBCN về TLSX, xác lập chế độ sở hữu XHCN về TLSX dưới những hình thức thích
hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với TLSX.
Phát triển sản xuất, năng cao năng xuất lao động, cải tạo nền SX cũ, lạc hậu thành nền
SX lớn XHCN có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến
để nâng cao năng suất lao động, nhằm từng bước cải thiện đời sống nhân dân và tạo ra
những cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH.
Phân phối theo lao động, trên cơ sỡ đó CNXH thực hiện theo nguyên tắc “làm theo năng
lực, hưởng theo lao động”.



Trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng: Xóa bỏ văn hóa và các thàn tích tư tưỡng cũ và
xây dựng nền văn hóa mới XHCN.
VI. Liên minh giữa giai cấp công nhânvới giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
1. Tính tất yếu:
Qua thực tiễn cách mạng châu Âu, đặc biệt cách mạng Pháp, C.Mác rút ra kết luận, cuộc
đấu tranh giành chính quyền của giai cấp công nhân sẽ không giành được thắng lợi nếu
nó không được sự ủng hộ của giai cấp nông dân. Công xã Pari (1871) là cuộc cách mạng
vô sản, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên, nhưng nhà nước đó chỉ tồn
tại trong 72 ngày. Khi phân tích nguyên nhân thất bại của công xã, C.Mác và Ph.Ăngghen
chỉ rõ, do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân nên không tạo
ra được cơ sở chính trị-xã hội rộng lớn và vững chắc để bảo vệ chính quyền của giai cấp
công nhân. V.I.Lênin làm rõ hơn ý nghĩa chiến lược của vấn đề khi cho rằng, nhân tố cho
sự thắng lợi không chỉ ở chỗ giai cấp công nhân đã có tổ chức và chiếm đa số trong dân
cư, mà còn ở chỗ giai cấp công nhân có được sự ủng hộ của nông dân hay không. Ông
đặc biệt nhấn mạnh tính tất yếu của liên minh công nông trong giai đoạn cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, xây dựng khối liên minh công nôngvà các tầng lớp lao động khác là tất yếu
trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, cả trong giai đoạn giành, giữ và sử dụng
chính quyền để xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
2. Cơ sở khách quan
Thứ nhất, trong xã hội TBCN, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng như
nhiều tầng lớp lao động khác đều là những người lao đông, đều bị áp bức bóc lột.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế quốc dân là một
thể thống nhất của nhiều ngành, nghề.... nhưng trong đó công nghiệp và nông nghiệp là
hai ngành sản xuất chính trong xã hội. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ giữa công
nhân và nông dân thì hai ngành kinh tế này cũng như các ngành, nghề khác không thể
phát triển được. Công nghệ tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và các
ngành nghề khác. Nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho toàn xã hội, tạo
ra nông sản phục vụ cho công nghiệp. V.I.Lênin khẳng định: "Công xưởng xã hội hóa sẽ

cung ấp sản phẩm của mình cho nông dân và nông dân sẽ cung cấp lại lúa mì. Đó là hình
thức tồn tại duy nhất có thể được của xã hội xã hội chủ nghĩa, là hình thức duy nhất để
vây dựng chủ nghĩa xã hội".


Thứ ba, xét về mặt chính trị - xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác là lượng chính trị to 1ớn trong xây dựng, bảo vệ chính quvền nhà
nước, trone xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Do vậy, giai cấp nông dân và nhiều tầng lớp
lao động khác trở thành những người bạn "tự nhiên”, tất yếu của giai cấp công nhân.
3. Nguyên tắc
Muốn xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải
bảo đảm những nguyên tắc sau đây:
Phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
V.I.Lênin cho rằng, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này mà phải đi theo đường lối
của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ,
cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, chỉ có đi theo hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin khẳng
định: "... chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có thế giải phóng quần chúng tiểu
nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội".
Phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện.
V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản ở Nga là phải bằng những việc
làm cụ thể để cho giai cấp nông dân thấy rằng, đi với giai cấp vô sản có lợi hơn đi với giai
cấp tư sản, từ đó họ tự nguyện đi với giai cấp công nhân. Có thực hiện trên tinh thần tự
nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới có thể bền
vững, lâu dài.
Kết hợp đúng đắn các lợi ích
Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có những lợi ích cơ bản là thống nhất, bởi vì họ
đểu là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ nghĩa tư bản. Sự thống nhất lợi ích

này tạo điều kiện thực hiện sự liên minh giữa họ. Song, giữa giai cấp công nhân và giai
cấp nông dân là những chủ thể kinh tế khác nhau. Giai cấp công nhân đại diện cho
phương thức sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp nông dân gắn với chế độ tư hữu
nhỏ. Mà chế độ tư hữu nhỏ thì mâu thuẫn với phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là
xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn
này, phải thường xuyên phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh và giải quyết kịp thời, phải
chú ý tới những lợi ích thiết thực của nông dân. Sau nội chiến ở Nga, V.I.Lênin đã áp
dụng Chính sách kinh tế mới (NEP), thay chính sách trưng thu lương thực thừa bằng
chính sách thuế lương thực. Nhà nước quy định nghĩa vụ đóng thuế lương thực cho nông
dân. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế, người nông dân có thế tự do trao đổi phần lương


thực thừa. Điều đó đã phát huy được tính tích cực của ngừơi nông dân, đã nhanh chóng
đưa nước Nga thoát khỏi những khó khăn sau thời kỳ nội chiến.
4. Nội dung cơ bản của sự liên minh
Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa gồm:
Liên minh về chính trị: giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành lấy chính
quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trở thành cơ sở vững chắc
cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành nòng cốt trong mặt trận dân tộc thống nhất, thực
hiện khối liên minh rộng rãi với các tầng lớp lao động khác.Tuy nhiên, liên minh về chính
trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác không
phải là sự dung hòa lập trường tư tưởng giữa công nhân với nông dân và các tầng lớp lao
động khác, mà phải trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân.
Liên minh về kinh tế: giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác là một nội dung đặc biệt quan trọng.
Thực hiện liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải kết hợp đúng đắn lợi ích giữa hai giai cấp. Hoạt

động kinh tế phải vừa bảo đảm lợi ích của nhà nước, của xã hội, đồng thời phải thường
xuyên quan tâm tới lợi ích của giai cấp nông dân.V.I.Lênin cũng cho rằng, thông qua sự
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân về kinh tế, từng bước đưa nông
dân đi theo con đường xã hội chủ nghĩa bằng cách từng bước đưa họ vào con đường xã
hội với những bước đi phù hợp.
Nội dung tư tưởng - văn hóa: Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên một nền sản
xuất công nghiệp hiện đại. Những người mù chữ, những người có trình độ tư tưởng-văn
hóa thấp không thể tạo ra được một xã hội như vậy. Vì vậy công nhân, nông dân và
những người lao động khác phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ tư tưởng-văn
hóa.
PHẦN B: VẤN ĐỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VÀ LIÊN
MINH CÔNG NHÂN- NÔNG DÂN-TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM
I. Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Sự ra đời của cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam


Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX, sự áp bức của thực
dân, đế quốc, phong kiến với quần chúng nhân dân lao động vô cùng tàn bạo, những
phong trào đấu tranh theo xu hướng phong kiến, tư sản đều bị thất bại, đã là mảnh đất tốt
để tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được tính tất yếu
lịch sử: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức", do vậy,
Người đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, đưa đến việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự khủng
hoảng về đường lối chính trị.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã
kết hợp sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức và Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc hai
nhiệm vụ đó để đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp
những người lao động. Đi theo ngọn cờ của Đảng, nhân dân.

2. Các giai đoạn của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, với truyền thống yêu nước, nhân dân ta
đã kiên cường đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp giành lại độc lập cho dân tộc.
Các nhà yêu nước dưới ngọn cờ “Cần Vương” mong giành lại độc lập cho dân tộc, khôi
phục chế độ phong kiến, đã bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Những người nông dân
với lòng câm thù giặc sâu sắc, cầm gươm giáo đứng lên khởi nghĩa chống Pháp cuối cùng
cũng thất bại.
Với ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản thế giới nhiều nhà cách mạng Việt Nam như:
Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học…Muốn giành độc lập cho dân tộc,
đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa, noi gương các nước Phương Tây cuối
cùng cũng thất bại. Sở dĩ các phong trào đấu tranh trên đều bị thất bại là do cách mạng
lúc đó thiếu đường lối đúng đắn, các phong trào không đáp ứng được những yêu cầu dân
chủ của thời đại mới, tư tưởng phong kiến, tư sản đã trở nên lạc hậu với thời đại. Tuy
những phong trào cách mạng đó đã thất bại nhưng đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu
tranh cách mạng của nhân dân, góp phần nâng cao chí khí, khai thông dân trí cho dân tộc.
Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành qua các cuộc khai thác thuộc địa cuả thực
dân Pháp, tuy số lượng không đông nhưng đã sớm tiếp thu được tinh thần yêu nước của


dân tộc, lại bị ba tầng áp bức là đế quốc, địa chủ và tư sản, nên đã tỏ ra là một lực lượng
kiên cường trong các cuộc đấu tranh.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, sự áp bức của thực
dân, đế quốc, phong kiến với quần chúng nhân dân lao động vô cùng tàn bạo, những
phong trào đầu tranh theo xu hướng phong kiến, tư sảnđều bị thất bại, đã là mảnh đất tốt
để tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Sự tàn bạo
của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi- Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc la
gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi.”
Chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng XHCN.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thực dân Pháp lại trở lại xâm lược nước

ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam vừa phải kháng chiến, vừa phải kiến quốc với phương
châm dựa vào sức mình là chính, phải dựa vào dân, huy động sức dân mà kháng chiến.
Muốn kháng chiến thắng lợi chúng ta phải xây dựng chính quyền của nhân dân, làm cho
nhân dân là chủ thực sử của đất nước. Quyền hành, lực lượng đều ở nhân dân, một khi:
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm
cũng không nên”.
Để thực hiện được điều đó Nhà nước dân chủ nhân dân phải từng bước xóa bỏ sở hữu địa
chủ phong kiến, đưa lại ruộng đất cho nhân dân, phải tạo điều kiện cho công nhân làm
chủ xí nghiệp. Ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội đã quy tụ sức mạnh của nhân dân lao động,
giúp chúng ta thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được giải phóng và
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tính tất yếu của sự chuyển từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là đường lối và mục tiêu của cách mạng Việt Nam là nhất quán, dù có
phân chia hai giai đoạn, nhung đều do một Đảng duy nhất là Đảng Công Sản Việt Nam
lãnh đạo. Không lý gì một Đảng một giai cấp đang lãnh đạo thắng lợi đối với một dân tộc
lại rời bỏ vai tro của mình cho đảng khác, giai cấp khác (điều này trái với quy luật của
nhân loại, từ khi có giai cấp và Đảng chính trị). Hơn nữa, những kết quả, thắng lợi của
giai đoạn cách mạng do Đảng ta lãnh đạo cũng đồng thời là điều kiện, mở đầu cho giao
doạn cách mạng mới cũng do Đảng ta lanh đạo trên phạm vi cả nước. Cả dân tộc ta có đủ
những điều kiện và vật liệu thực tiễn lịch sử để hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta, dân tộc ta.
3. Nội dung cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam


Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản”
Xác định những nhiệm vụ cụ thể các cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội
công nông.

Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho chính
phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày
nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật
ngày làm tám giờ.
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông
giáo dục theo hướng công nông hóa.
Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất; lôi kéo tiêu tư sản, tri thức, trung nông… di vao phe vô sản giai cấp; đối với
phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng (như
Đảng Lập Hiến) thì phải đánh đổ.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản. “ Đảng là tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.”
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, “ liên kết với những dân tộc
bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp.
II. Vấn đề liên minh công nhân – nông dân – trí thức ở Việt Nam
1. Đặc điểm của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức Việt Nam

a. Công nhân

Là giai cấp tiên phong,có tinh thần cách mạng triệt để. Có ý thức kỷ luật cao. Có bản
chất quốc tế.
Ngoài ra:
Giai cấp công nhân VN dù ra đời muộn chiếm lượng nhỏ dân số, tuy nhiên đã kế thừa
được truyền thống đấu tranh trung dung, kiên cường của dân tộc thêm vào đó dưới sự
lãnh đạo tài tình nhất quán của Đảng ta mà giai cấp công nhân nước ta luôn tỏ rõ là một


giai cấp tiên phong,đoàn kết một lòng,kiên cường giữ vững ý chí cũng như giữ vững vai

trò lãnh đạo của mình.
Giai cấp công nhân VN đa số xuất thân từ nông dân, có mối liên hệ máu thịt với nông
dân. Đây là điều kiện cũng như tiền đề quan trọng để thực hiện sự liên minh giai cấp.
Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, sẽ có nhiều người
nông dân làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở chính ngay quê
hương mình…
Tuy nhiên số lượng công nhân nước ta còn ít, trình độ văn hóa, tay nghề, khoa học kỹ
thuật còn thấp. Do vậy để đảm đương được sứ mệnh lịch sử của mình, một trong những
điều kiện quan trọng là giai cấp công nhân VN phải liên minh được với giai cấp nông
dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân khác.
b. Nông dân

Giai cấp nông dân là giai cấp tập trung chủ yếu lĩnh vực sản xuất nông nghiệp bao gồm:
trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp…
Giai cấp nông dân có nhiều ưu điểm như: lao động rất cần cù, chịu khó, tạo ra lương thực
thực phẩm nuôi sống con người, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và hàng xuất
khẩu là lực lượng chiếm số đông trong xã hội, và gắn bó lâu đời với cội nguồn của dân
tộc nên có nhiều công lao đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong xã hội cũ, nông dân bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất nên họ có tinh thần phản kháng
chống áp bức, bóc lột, bất công.
Ở Việt Nam, từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, nông dân là lực lượng cách mạng đông
đảo nhất, có tinh thần cách mạng quật khởi. Đấu tranh bất khuất và có nhiều đóng góp lớn
lao trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc vì độ lập tự do của tổ quốc.
Về hạn chế: giai cấp nông dân là những người tư hưũ nhỏ, tuy nhiên tư hữu nông dân
không đồng nhất với tư hữu của giai cấp bóc lột. Do phương thức sản xuất phân tán nên
nông dân không có sự liên kết chặt chẽ về kinh tế, tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân
không có hệ tư tưởng độc lập mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị xã hội.Muốn được giải phóng, nông dân phải tham gia vào khối liên minh và
chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
c. Trí thức

Trí thức là một tầng lớp lao động trí óc phức tạp và sáng tạo. Sản phẩm lao động trực tiếp
của họ là những trí thức khoa học, những giá trị về tinh thần, được tạo ra trong quá trình


nghên cứu, phát minh,, giảng dạy, quản lý có tác dụng định hướng cho nhận thức và hành
động thực tiễn trên mọi lĩnh vực.
Ở Việt Nam, quá trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, trí thức vẫn luôn là đại
diện cho trí tuệ của dân tộc. Lịch sử nước ta ghi nhận những tấm gương lớn của nhiều
nhà trí thức như : Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thuợng Hiền…
Ngày nay, trong thời đại mới, một đội ngũ tri thức mới của nước ta đã trưởng thành cùng
phong trào cách mạng. Họ là những người đã trãi qua thử thách, tôi luyện trong đấu tranh
lâu dài dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
d. Liên minh công nhân- nông dân- trí thức:

Nội dung liên minh công nhân , nông dân, trí thức ở nước ta
Liên minh công nông
Xây dựng và củng cố liên minh công nông thực chất là xác lập và củng cố vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chính khối liên minh công nông là lực lượng hùng hậu của
cách mạng, đồng thời liên minh với các tầng lớp lao động khoa học khác là nhằm tăng
cường sức mạnh và trí tuệ đảm bảo cho giai cấp vô sản giành và giữ được chính quyền.
Ở nước ta, qua thực tiễn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận đúng đắn
rằng chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên
quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và cũng cố chính quyền
của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ và
tiến lên CNXH”
Ngày nay, liên minh công nông không còn là lý thuyết, mà nó trở thành thực tiễn sinh
động. Nó được thử thách và tôi luyện ngày càng vững chảy trong bảo táp cách mạng.
Cũng như theo định hướng xây dựng XHCN, và là một nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng.


- Về Chính trị
Xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa 2 giai cấp trở thành lực lượng cách
mạng chủ yếu nhất để bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được, bảo vệ sự lãnh đạo của
Đảng, xây dựng và bảo vệ nhà nước XHCN. Đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức, tổ chức và
phương thức hoạt động hệ thống chính trị ở nông thôn vì hiện nay các cấp bộ Đảng, nhà
nước, các tổ chức xã hội ở nông thôn, bên cạnh những thành tựu, còn có nhiều mặt yếu


kém : những biểu hiện tiêu cực, vi phạm quyền là chủ trong Đảng và nhà nước, quyền
dân chủ của nông dân.
- Về kinh tế
Đây là nội dung cơ bản và quyết định nhất, làm cơ sở kinh tế vững chắc cho
liên minh trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, đó là cốt lỏi của liên minh công
nông là xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp. Trong nội dung
liên minh kinh tế, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và nông dân.
Trong quan hệ với nhà nước-nông dân đặc biệt chú ý đến chính sách ruộng đất nhằm bảo
vệ quyền lợi, khuyến khích nông dân yên tâm sản xuất.
- Về xã hội
Nước ta vừa trải qua chiến tranh lâu dài, ác liệt. Trong đó nông dân đã có
những đóng góp to lớn. Vì vậy, Đảng và nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho nông dân. Đặc biệt là các gia đình thuộc diện chính sách. Giải quyết việc là cho
lao động nông thôn, thực hiện xoá đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ phát triển dân số ở nông
thôn. Đây là hình thức giải quyết vấn đề đô thị hoá ở nông thôn. Chống nạn mù chữ, nâng
cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần cho nông dân, đấu tranh loại trừ các tệ nạn quan
liêu, tham nhũng, mất dân chủ và các hủ tục ở nông thôn. Đảng và nhà nước xây dựng và
quản lý chặt chẽ, hợp lý quy hoạch phát triển đô thị với quy hoạch phát triển nông thôn,
tạo điều kiện cho nông nghiệp và công nghiệp, thành thị và nông thôn hỗ trợ và gắn bó
chặt chẽ với nhau.
Liên minh công nhân trí thức :

Cùng với liên minh công nông, liên minh với tầng lớp trí thức cũng là một yêu cầu khoa
học khách quan đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Nếu giai cấp công
nhân và Đảng lãnh đạo được trí thức, phát huy tài năng trí tuệ của họ vào mọi công việc
của cách mạng thì cách mạng mới có thể phát triển nhanh chóng, đỡ phải tổn thất do thiếu
tri thức khoa học. Đảng chủ trương : sử dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa
học và công nghệ của đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa nâng cao dân trí. Những
nhiệm vụ nỗi bật để thực hiện tốt việc liên minh của trí thức nước ta hiện nay là : Phải có
chính sách vừa tạo điều kiện, động viên khuyến khích đội ngũ cán bộ tri thức phát huy tài
năng, vừa đổi mới cơ chế kinh tế lãnh đạo để hướng tri thức vào mục tiêu chung của cách
mạng. Đề ra chính sách sử dụng, bồi dưỡng và đãi ngộ thỏa đáng đối với trí thức vì trí
thức là lực lượng chủ yếu và trực tiếp góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài xây


dựng nền khoa học tiên tiến của đất nước. Đào tạo đội ngũ trí thức mới đáp ứng những
yêu cầu cần thiết của sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại trong những năm tới.
Đồng thời có chính sách sử dụng hợp lý lực lượng trí thức cũ sẵn có đễ cùng phát triển
đất nước.
2. Những thuận lợi và khó khăn của liên minh công nhân – nông dân – trí thức
a. Thuận lợi

Liên minh giai cấp công nhân - nông dân - trí thứ 1c ở nước ta có rất nhiều thuận lợi
đem đến tiền đề cho sự phát triển.
Giai cấp công nhân ra đời muộn nhưng sớm nắm được đường lối cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ tầng lớp nông dân nên có sự gắn kết chặt
chẽ với tầng lớp nông dân. Trong khi đó, nông dân chiếm phần lớn ở một nước phong
kiến như nước ta.
b. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, liên minh công - nông - trí thức còn gặp phải rất nhiều

khó khăn.
Do sự du nhập tư bản phương Tây nên có sự phân tầng về trình độ văn hóa, chuyên
môn, giác ngộ chính trị giữa các giai cấp.
Nông dân tuy đông nhưng tồn tại nhiều tàn tích nặng nề của tư tưởng phong kiến,
sản xuất nhỏ lẻ. Công nhân xuất thân từ nông dân nên còn nhiều hạn chế tác phong lao
động.
Tầng lớp trí thức Việt Nam lại có tư tưởng “quan văn - phò chính thống” tức là
thích được chính quyền sử dụng. Sự chênh lệch lớn giữa ba giai cấp do kinh tế chưa phát
triển là một khó khăn lớn đối với liên minh.
3. Một số phương hướng và giải pháp nhằm củng cố, tăng cường khối Liên minh công

– nông – trí ở nước ta hiện nay.
-

Để tăng cường liên minh công nhân– nông dân –trí thức cần:
Trước hết, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, liên kết chặt chẽ và có hiệu quả trong sản

-

xuất. Phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến, nâng cao giá trị nông sản.
Hai là, thu hút lao động nông nghiệp dôi dư vào sản xuất công nghiệp khi ứng dụng máy
móc, công nghệ vào nông nghiệp; Giải quyết việc làm lâu dài, bền vững cho nông dân khi
thu hồi đất nông nghiệp; Tích cực thu mua sản phẩm nông nghiệp thông qua hợp đồng

-

kinh tế; Hỗ trợ vốn cho nông dân mở rộng gia trại, trang trại.
Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ, chế tạo máy móc, giống cây con cho
năng suất cao để chuyển giao cho nông nghiệp, nông dân sản xuất. Cụ thể là:
1



Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển cây công nghiệp, cây ăn
quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá. Hiện nay,
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra còn chậm, chưa đồng đều giữa các
vùng và chưa rộng khắp. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng
khoa học công nghệ tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Bồi dưỡng cho
nông dân kiến thức khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất luợng
sản phẩm nông nghiệp, giá thành hạ, dảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp với
yêu cầu thị trường, đạt hiệu quả kinh tế cao. Tập trung nghiên cứu các vấn đề khoa học
công nghệ đưa vào sản xuất, ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại, tạo các giống cây
trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài
nước. Thực hiện các biện pháp như vậy,liên minh công nhân- nông dân - trí thức sẽ bền
chặt.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, sự
nghiệp xây dựng nông thôn mới hiện nay, việc phát huy vai trò liên minh công-nông-trí là
vấn đề chiến lược nhằm khai thác mọi tiềm năng và thế mạnh của ba lực lượng trên ba
lĩnh vực, thực hiện thắng lợi mô hình nông thôn mới ở mỗi địa phương.
Bốn là nên nhấn mạnh xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc bởi vì không còn
rõ nét lắm sự liên minh công - nông - trí. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị
mà trong đó thành phần gồm những tinh hoa trong xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam là
đảng của giai cấp công nhân đồng thời là đảng của nhân dân lao động và toàn dân tộc, đại
diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.Trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam, có vai trò rất to lớn của các tổ chức
chính trị - xã hội, những tổ chức mang tính chất vừa chính trị vừa xã hội
Liên minh công - nông - trí vẫn còn là vấn đề mở. Thực tế đang vận động, lý luận chính
trị chỉ có vai trò tích cực, dẫn đường, soi sáng cho hành động của các tổ chức chính trị, xã
hội và cá nhân khi lý luận đó được đúc rút từ quy luật của cuộc sống. Chính cuộc sống là
cái phôi của những vấn đề lý luận chính trị, và chính thực tế cuộc sống là thầy dạy của
các tổ chức chính trị và các nhà lý luận chính trị.

Trong giai đoạn hiện nay đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020 về cơ bản
nước ta có nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, sớm đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng kém phát triển thì liên minh công-nông-trí của V.I.Lênin là động lực của cách
mạng xã hội chủ nghĩa là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, là sức mạnh của toàn dân tộc.



LỜI KẾT LUẬN+ Tổng hợp : Hảo
Cách mạng XHCN nổ ra là tất yếu nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó Mâu
thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức với giai cấp tư bản Cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra là do nguyên nhân sau xa từ mâu thuẫn gay gắt giữa lực
lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa vê tư liệu sản
xuất dưới chủ nghĩa tư bản, cho nên chừng nào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn
được duy trì thì nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, do đó
cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn là một tất yếu khách quan của tiến trình phát triển lịch sử
nhân loại. Cách mạng XHCN không thể diễn ra một cách tự phát mà là kết quả của quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chủ động
tạo ra tình thế chớp lấy thời cơ cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi. Hiện nay nhờ có
cách mạng khoa học và công nghệ phát triển, CNTB ứng dụng những thành tựu mới vào
nền sản xuất nên đã tọa ra những bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế. Điều đó góp
phần giúp CNTB tồn tại trong giới hạn của nó. Tuy nhiên cũng chính sự phát triển ở mức
độ cao đó, CNTB đồng thời cũng tạo ra những tiền đề vật chất quan trọng, ngày càng chín
muồi cho cách mạng XHCN. Nó bộc lộ những mâu thuẫn vốn có, nội tại của nó ngày
càng sâu sắc hơn
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, đồng thời xuất phát từ điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng sáng tạo học
thuyết cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của Việt Nam. Trong đó, vấn
đề cơ bản nhất, xuyên suốt nhất là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội''. Đó là
sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,

đáp ứng khát vọng thiêng liêng của toàn thể nhân dân Việt Nam, giải quyết triệt để những
mâu thuẫn nội tại của cách mạng Việt Nam
Powerpoint + chỉnh sửa tiểu luận: cả nhóm 
Thuyết trình: chị Khánh,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

CHUYÊN ĐỀ 5 GIÁO TRÌNH ĐANG HỌC
GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XH KHOA HỌC
VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG (TỪ ĐẠI HỘI 6-12)
MÔN HỌC ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
WEB SITE CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.



×