Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cương lĩnh dân tộc của Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.84 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................3
NỘI DUNG.................................................................................................................................4
1. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin ............................................................................4
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc; dựa vào sự tổng kết
kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu
sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của
chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã khái
quát lại thành "Cương lĩnh dân tộc" của Đảng cộng sản. Trong tác phẩm Về quyền dân tộc
tự quyết, Người nêu rõ: "Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự
quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại". .................................................................4
1.1Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.......................................................................................4
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc
hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc) không
phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không
một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác, thể
hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế. .......................................................4
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp
luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó việc phấn đấu
khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa
cơ bản. ....................................................................................................................................4
Trên phạm vi giữa các quốc gia - dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc
trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,
chủ nghĩa sôvanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới;
chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về
kinh tế. ....................................................................................................................................4
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết
và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc. ..............................................4
1.2. Các dân tộc được quyền tự quyết ....................................................................................4
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân tộc mình,


quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành lập một quốc gia
dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc (chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một
nhóm người nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ
sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ
vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia dân tộc.....................................................................................................................................5
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp với lợi ích chính
đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết”
để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động dân tộc chủ
nghĩa (sôvanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ
nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản. ...................................................................................5
1.3. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc ...........................................................................5
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của
các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự
thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó bảo đảm cho
phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. .........................................................5
11


Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối,
phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc.
Đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức
chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. .....................5
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân
dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng
vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công

nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành
sức mạnh cực kỳ to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên
tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau. ...........................................................6
Cương lĩnh dân tộc của đảng cộng sản là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và
nhà nước xã hội chủ nghĩa......................................................................................................6
2. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay..................................6
2.1.Tình hình dân tộc ở Việt Nam hiện nay............................................................................6
2.2. Sự vận dụng cương lĩnh dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay..........................7
2.3. Những bất cập trong chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay....................................9

2.4. Một số đề xuất để nâng cao hiệu quả các chính sách dân tộc của ……...8
Đảng và Nhà nước ta.
KẾT LUẬN

10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11


MỞ ĐẦU
Ngày nay, tình hình dân tộc trên thế giới diễn biến rất phức tạp, đa dạng và
gay gắt, giải quyết vấn đề này ở từng lúc, từng nơi lại khác nhau có khi phải
giải quyết bằng vũ trang quân sự. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những
vấn đề quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một
quốc gia dân tộc. Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là vận
dụng Cương lĩnh dân tộc của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải

phóng dân tộc, xuất phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã xem
vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng hàng
đầu, là một trong những mục tiêu chiến lược trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc. Để tìm hiểu rõ hơn về sự vận dụng cương lĩnh này của Đảng, Nhà nước ta
hiện nay, em xin chọn đề số 5 : “Cương lĩnh dân tộc của Lênin và sự vận dụng
cương lĩnh này của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.” làm nội dung cho bài tập lớn
của mình.

11


NỘI DUNG
1. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc;
dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới
và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào
dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã
bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã khái quát lại thành
"Cương lĩnh dân tộc" của Đảng cộng sản. Trong tác phẩm Về quyền dân tộc
tự quyết, Người nêu rõ: "Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được
quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại".
1.1 Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân
tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay nhỏ (kể
cả bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp đều
có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc
quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong luật
pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc

phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia - dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa
các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh; gắn liền với cuộc đấu tranh xây
dựng một trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các nước tư
bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền
dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
1.2. Các dân tộc được quyền tự quyết

11


Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận
mệnh dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con
đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc
lập về chính trị tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của
các dân tộc (chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào)
và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên
ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến
bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
đế quốc và phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động dân tộc chủ

nghĩa (sôvanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào
quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
1.3. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương
lĩnh dân tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong
trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp. Nó bảo đảm cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để
giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới; quy
định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết,
quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai
cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

11


Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết
các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy,
nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung
của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc
là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay đã trở thành
sức mạnh cực kỳ to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần quốc tế chân
chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau.
Cương lĩnh dân tộc của đảng cộng sản là một bộ phận trong cương lĩnh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường
lối, chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa

2. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay.
2.1.Tình hình dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất với 54 dân tộc anh em. Trong
đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 87% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân
số, phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân dưới 1 triệu đến
100 ngàn người là : Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai,
Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ
dưới 10 ngàn đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người (Cống,
Sila, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu).
Trình độ phát triển về văn hóa xã hội giữa các dân tộc có sự chênh lệch
nhau. Đời sống kinh tế từng vùng khác nhau rất xa, từ đó dẫn đến đời sống văn
hóa, xã hội, chính trị … có sự cách biệt. Tuy nhiên do đặc thù về địa lý, nên các
tộc người Việt Nam đã sớm đoàn kết lại, hợp thành sức mạnh để chống đỡ, khắc
phục thiên nhiên và chống ngoại xâm. Từ đó đồng bào các dân tộc Việt Nam
luôn có truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc, yêu nước, yêu CNXH, có
ý chí khắc phục khó khăn, tự vươn lên để khẳng định mình. Đây là đặc điểm bao
trùm, nổi bật của dân tộc Việt Nam.

11


Tính xen kẻ đan xen giữa các tộc người khác nhau đã tạo nên nét văn hóa đa
dạng, phong phú trong lối sống, phong tục tập quán. Mỗi dân tộc có một ngôn
ngữ riêng, một số dân tộc thiểu số có cả chữ viết riêng, nhưng đều lấy tiếng Việt
làm phương tiện ngôn ngữ giao tiếp thống nhất chung.
Do những đặc điểm trên, nên các dân tộc Việt Nam có sự hợp tác, gắn bó
nhau trong một cộng đồng dân tộc, trong một Tổ quốc Việt Nam thống nhất.
Song từ xưa đến nay, vấn đề dân tộc luôn là vấn đề rộng lớn, phức tạp và lâu
dài, cần phải xem xét nó như là vấn đề chính trị, xã hội rộng lớn, toàn diện gắn
liền với mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.

2.2. Sự vận dụng cương lĩnh dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Xuất phát từ nhiệm vụ đổi mới hiện nay, đặc biệt là từ sau Đại hội VI của
Đảng, Đảng ta đã xác định : “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ
tầng KT-XH, phát triển SX hàng hóa. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần,
xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản sắc văn
hóavà thống nhất tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công bằng xã hội giữa các
dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm đến vùng gặp nhiều khó
khăn, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu
tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên phát huy
vai trò của người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ
thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực
đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta
cũng nêu rõ : “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các
dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh,
tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của các cộng đồng dân tộc Việt
Nam”.
Từ những quan điểm trên, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tạo ra một
quan hệ mới giữa các dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa song
11


song với việc phát huy tiềm lực kinh tế ở các vùng đồng bào dân tộc ít người và
bảo tồn vốn văn hóa quý báu, đặc thù của các dân tộc và phát huy truyền thống
đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam. Phát triển mọi mặt về kinh tế, xã hội, văn
hóa, tư tưởng, từng bước khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng đồng bằng,
trung du, miền núi, để xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng,
giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở tôn trọng lợi ích, truyền thống lịch sử , văn hóa,

ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc.
Đảng và Nhà nước ta luôn xem vấn đề dân tộc là vấn đề quan trọng có tính
chiến lược, là yếu tố phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác mọi tiềm năng của
các thành phần dân tộc trong sự nghiệp cách mạng XHCN, nhất là trong thời kỳ
đổi mới hiện nay trên tinh thần “đại đoàn kết dân tộc”.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tập trung một số nội
dung, nhiệm vụ chủ yếu như:
+ Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhằm khắc phục tình trạng kinh
tế tự cung tự cấp, mở rộng giao lưu hàng hoá, ổn định và từng bước cải thiện đời
sống đồng bào các dân tộc ít người. Cụ thể là các chương trình 135, chương
trình Xóa đói giảm nghèo; các chương trình điện, đường, trường, trạm để phát
triển giao thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thuận lợi hơn, đưa
điện lưới quốc gia về tận các vùng đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho
con em và đồng bào dân tộc được khám chữa bệnh và đến trường… Chính phủ
đặt sự phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số trong quan hệ hữu cơ với các
vùng trong cả nước và trong quan hệ phân công lao động quốc tế là nhu cầu đòi
hỏi khách quan. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng
XHCN phù hợp với điều kiện, trình độ sản xuất nhằm khai thác tiểm năng thế
mạnh của từng vùng dân tộc, đặc biệt các vùng dân tộc ít người. Đổi mới chính
sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển và xây dựng nông thôn
mới; thực hiện vững chắc công tác định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc
miền núi; sắp xếp bố trí lao động dân cư trên quy mô cả nước.
+ Chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, tư tưởng và đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc. Đặc biệt trong đó là Nghị quyết 30a của
11


Chính phủ về việc đưa tri thức trẻ về nông thôn đã và đang phát huy được những
hiệu quả nhất định, làm thay đổi bộ mặt các huyện nghèo, vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

+ Tôn trọng phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền thống và bản sắc văn
hóa các dân tộc.Thực hiện chính sách đại đòan kết dân tộc, xây dựng cơ cấu xã
hội giai cấp mới, cùng với quá trình phát triển KT-XH miền núi, làm tăng thên
chất lượng mới trong quan hệ giữa các dân tộc. Thực hiện dân chủ hoá xã hội
giữa các vùng dân tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một cách
quan liêu mệnh lệnh làm mất khả năng sáng tạo của quần chúng các dân tộc.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước còn có chính sách đối ngoại về vấn đề dân
tộc. Với nội dung tư tưởng là: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước
trên thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực,
cả song phương, đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng
độc lập chủ quyền và cùng có lợi. Đặc biệt, Việt Nam tăng cường mở rộng quan
hệ hợp tác với các nước trong khu vực trên tinh thần láng giềng thân thiện, cởi
mở. Tham gia tích cực vào tổ chức ASEAN, tôn trọng chủ quyền, không can
thiệp vào nội bộï của nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Đối với các quốc
gia có những tộc người có quan hệ với các tộc người ở Việt Nam thì thái độ của
Việt Nam đúng mực, tôn trọng phong tục, tập quán, thói quen, tín ngưỡng của
các tộc người đó, nhưng phải tuân thủ theo quy định của Pháp luật VN (như
đồng bào Khmer ở Nam Bộ, đồng bào Chăm, HMông ở Tây Nguyên…)
2.3. Những bất cập trong chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù đã dành nhiều ưu tiên cho miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, nhưng trên thực tế việc xây dựng và triển khai các chương trình này còn gặp
nhiều bất cập:
- Sự bình quân, cào bằng trong các chính sách. Khi ban hành một số chính
sách, các nhà hoạch định đã không tính tới sự khác biệt về địa bàn cư trú, đặc
điểm văn hóa cuả từng vùng miền. Các chính sách mang nặng tình bình quân,
cào bằng, chưa có quy định riêng đối với các nhóm dân tộc cụ thể, không phân
biệt trình độ phát triển giữa các dân tộc. Các dân tộc có mặt bằng phát triển cao
11



hơn như Tày, Thái, Mường,… cũng được hưởng lợi ích như các dân tộc ít người
khác hay các chính sách cũng chưa tính đến các đối tượng yếu thế trong cộng
đồng như phụ nữ, trẻ em , người già và người khuyết tật.
- Một số chính sách ban hành đã lâu không còn phù hợp với những biến
động về giá cả trên thị trường, cần được sử đổi.
- Trong chính sách xóa đói giảm nghèo còn có những quy định bất hợp lý,
chưa khuyến khích được người dân thoát nghèo. Không ít họ vì muốn tiếp tục
hưởng các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước nên không muốn thoát nghèo. Bên
cạnh đó, tiêu chí để xác định hộ nghèo còn nhiều bất cập.
- Việc huy động sự tham gia đóng góp trí tuệ của đồng bào dân tộc thiểu
số còn hạn chế. Cán bộ người dân tộc ít có cơ hội được tham vấn, tham dự vào
quá trình soạn thảo các chính sách có liên quan đến cuộc sống của chính họ.
- Việc phối hợp giữa các bộ, ngành , giữa trung ương và địa phương trong
việc thực hiện các chính sách còn chưa đồng bộ, các chính sách có nội dung
chồng chéo, điều này dẫn đến hiệu quả không cao và gây lãng phí lớn.
2.4. Một số đề xuất để nâng cao hiệu quả các chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta.
Để cho đồng bào dân tộc ít người có thể nhanh chóng tiến kịp miền xuôi,
từng bước thu hẹp chênh lệch về sự phát triển giữa các dân tộc, thiết nghĩ Đảng
và Nhà nước cần tích cực đầu tư hơn nữa cho khu vực này.
Thứ nhất, nghiên cứu và điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với từng
vùng, miền khác nhau để nâng cao hiệu quả của các chính sách tập trung vào
những vùng đặc biệt khó khăn trước và những đối tượng dễ bị tổn thương nhất
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái.
Thứ hai, tăng cường phân cấp rõ ràng và chặt chẽ trong việc thực hiện các
chính sách, tránh việc chồng chéo các chính sách, gây khó khăn cho người dân.
Thứ ba, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho vùng đồng bào dân
tộc và miền núi, nhất là những công trình trọng điểm phục vụ cho đời sống và
sản xuất của người dân. Bên cạnh việc ổn định cuộc sống của người dân, cần
tăng cường kiểm soát tình trạng di dân tự do.

11


Thứ tư, huy động sự tham gia của đồng bào các dân tộc thiểu số vào việc
hoạch định các chính sách có liên quan đến cuộc sống của họ, khi đó mức độ
ủng hộ và hợp tác của người dân sẽ cao hơn.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính toàn diện,
tổng hợp, quán xuyến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi
dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cả cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh
tế – xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các dân tộc. Do đó, chính sách dân tộc còn mang tính cách
mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân đạo, bởi vì, nó không bỏ sót bất
cứ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ dân
tộc; nó tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các
dân tộc. Mặt khác, nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự
giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả nước. Nhận thức đúng đắn
bản chất, nội dung, tính chất của chính sách dân tộc có ý nghĩa quyết định tới
việc định hướng và đổi mới các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, làm cho
chính sách dân tộc đi vào cuộc sống.

11


KẾT LUẬN
Trong hơn 85 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng với sự
vận dụng đúng đắn bản chất, nội dung, tính chất Cương lĩnh dân tộc của Lênin
mà 54 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn kề vai, sát
cánh, đoàn kết, yêu thương, chống giặc ngoại xâm và đang cùng nhau ra sức xây
dựng CNXH ở Việt Nam, bất chấp âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật

đổ” chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Từ đó càng
khẳng định cho chân lý sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam
là một, dân tộc Việt Nam là một, đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt,
là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng liêng
của các dân tộc”.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa Mác Lênin, 2015
2. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học,
2005.
3. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hỏi – Đáp môn những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, 2011.
4. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hỏi – Đáp môn chủ nghĩa xã hội
khoa học, 2005.
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
truy cập ngày
10/6/2016.
6. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
/>distribution=3525&print=true, truy cập ngày 10/6/2016.
7. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,
tác giả : TS. Nguyễn
Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội và PGS, TS. Lê Ngọc
Thắng, Tổng Biên tập Tạp chí Dân tộc và Thời đại, truy cập ngày 11/6/2016.
8.

Chính


sách

dân

tộc

của

Đảng

trong

thời



đổi

mới,

tác giả : PGS.TS Lâm
Bá Nam, truy cập ngày 11/6/2016.
9. Mấy suy nghĩ về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trong
xây

dựng




bảo

vệ

Tổ

Quốc

hiện

nay,

tác

giả

Hải

Đăng,

truy cập
ngày 11/6/2016

11



×