Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tài liệu thuyết minh du lich sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.52 KB, 14 trang )

Tài liệu thuyết minh: Du lịch Sóc Trăng
by Nhật Đông
Sóc Trăng là tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam.
Vị trí
Sóc Trăng có phần đất liền nằm từ 9°14′-9°56′ vĩ độ bắc và 105°34′-106°18′ kinh độ
đông, phía bắc và tây bắc giáp Hậu Giang, phía nam và tây nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía
đông bắc giáp Trà Vinh, phía đông và đông nam giáp biển 72 km.
Tỉnh lỵ của Sóc Trăng hiện nay là thành phố Sóc Trăng, cách Thành phố Hồ Chí Minh 231
km.
Đất đai
* Tổng diện tích: 322.330 ha
* Đất ở: 4.725 ha
* Đất nông nghiệp: 263.831 ha
* Đất lâm nghiệp: 9.287 ha
* Đất chuyên dùng: 19.611 ha
* Đất chưa sử dụng: 24.876 ha
Sóc Trăng là vùng đất trẻ, được hình thành qua nhiều năm lấn biển nên địa hình bao gồm
phần đất bằng, xen kẽ là những vùng trũng và các giồng cát với cao trình phổ biến ở mức
0,5-1,0 m so với mặt biển, nghiêng từ tây bắc xuống đông nam và có hai tiểu vùng địa
hình chính: vùng ven sông Hậu với độ cao 1,0-1,2 m, bao gồm vùng đất bằng và những
giồng cát hình cánh cung tiếp nối nhau chạy sâu vào giữa tỉnh; vùng trũng phía nam tỉnh
với độ cao 0-0,5 m, thường bị ngập úng dài ngày trong mùa lũ.
Ngoài ra, Sóc Trăng còn có những khu vực nằm giữa các giồng cát, không hình thành
vùng tập trung với độ cao trung bình 0,5-1,0 m.
Sông
Trên địa bàn Sóc Trăng có hai sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh, đổ ra biển qua
cửa Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh.
Hành chính
Tỉnh Sóc Trăng trong thời Pháp thuộc là một phần của tỉnh Bạc Liêu. Năm 1956, dưới thời
Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, Sóc Trăng được lập thành tỉnh riêng lấy tên là tỉnh Ba
Xuyên, còn tỉnh lỵ có tên là Khánh Hưng.


Tháng 2/1976, tỉnh mới Hậu Giang được thành lập từ hai tỉnh Sóc Trăng và Cần Thơ cũ
(có tên gọi là Ba Xuyên và Phong Dinh theo chính quyền Việt Nam Cộng hòa).
Từ 26/12/1991, tỉnh Sóc Trăng được tái lập từ tỉnh Hậu Giang.
Sóc Trăng có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm:
* thành phố Sóc Trăng
* Long Phú
* Cù Lao Dung
* Mỹ Tú
* Thạnh Trị


* Vĩnh Châu
* Ngã Năm
* Kế Sách
* Mỹ Xuyên
Các thành phố và huyện lại được chia làm 105 xã, phường và thị trấn.
Dân cư
Sóc Trăng có diện tích tự nhiên 3.223,3 km². Trên địa bàn tỉnh có 26 dân tộc, chủ yếu là
người Kinh, người Khmer và người Hoa. Sóc Trăng có 350.000 người Khmer, đông nhất
trong số các địa phương có người Khmer sinh sống, chiếm 28,9% dân số toàn tỉnh và
chiếm 32,1% tổng số người Khmer của cả nước.
Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh’leang của tiếng Khmer mà ra. Srok tức là “xứ”, “cõi”,
Kh’leang là “kho”, “vựa”, “chỗ chứa bạc”. Srok Kh’leang là xứ có kho chứa bạc của nhà
vua. Tiếng Việt phiên âm ra là “Sốc-Kha-Lang” rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều
Minh Mạng, Sóc Trăng bị đổi là Nguyệt Giang tỉnh (chữ Sóc biến thành chữ Sông, Trăng
thành Nguyệt nên Sóc Trăng biến thành Sông Trăng rồi bị đổi thành Nguyệt Giang).
Văn hóa
* Có nền văn hóa ba dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer với nhiều màu sắc hấp dẫn.
———————————

LỊCH SỬ SÓC TRĂNG
Thời các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn.
Cho mãi đến trước 1757, vùng đất Sóc Trăng vẫn còn thuộc về sự cai quản lỏng lẻo của
quốc vương Chân Lạp. Người Khmer khi ấy gọi miền đất này bằng tên gọi Srok Khleang
(có nghĩa là xứ lẫm, xứ kho). Srok Khléang là một phần quan trọng của đất Bassac (hay
còn gọi là Bathắc). Đất Bassac khi ấy về cơ bản tương ứng với địa phận hai tỉnh Sóc
Trăng và Bạc Liêu hiện nay. Tuy có tên gọi và địa phận rõ ràng như vậy, song trên thực
tế, vùng Bassac vẫn cònt rong tình trạng hoang vu, là nơin gự trị của đầm lầy và thú dữ.
Rải rác đây đó vài cụm dân cư thưa thớt.
Năm 1757, do nhu cầu củng cố quyền lực, vua Chân Lạp lúc bấy giờ là Préah Outey II
quyết định cắt đất Bassac dâng tặng chúa Nguyễn. Đất Sóc Trăng tứ đó chính thức trở
thành một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam và được chúa Nguyễn phiên vào châu Đình
Viễn, dinh Long Hồ, phủ Gia Định.
Đến thời vua Gia Long, vào năm 1802, châu Định Viễn trở thành phủ, nhận lãnh bốn
huyện là: huyện Vĩnh Bình, huyện Vĩnh An, huyện Vĩnh Định và huyện Tân An. Sóc Trăng
lúc này thuộc về huyen Vĩnh Định (phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh). Theo Trịnh Hoài
Đức, huyện Vĩnh Định có diện tích khá lớn: phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Cao Miên,
phía Nam giáp Hà Tiên, phía Bắc giáp huyện Vĩnh An và huyện Vĩnh Bình, thế nhưng, dân
số lại rất thưa thớt, nên chưa chia ra tổng được. Toàn huyện mới chỉ có 37 thôn, đếm,
trong đó có 7 thôn (thôn Mỹ Phước, thôn Đại Hữu, thôn An Lạc, thôn An Thanh Nhứt,
thôn An Thanh Nhì, thôn Đại Hòa và thôn An Hòa) là thuộc về Sóc Trăng.
Vào năm 1832, vua Minh mạng chia đất Gia Định thành sáu tỉnh trực thuộc vào thành Gia
Định. Theo sự chia đặt mới này, Sóc Trăng thuộc về địa phận tỉnh An Giang.


Sang năm 1835, nhận thấy dân cư đã phần nào đông đúc, đất đai khai phá cũng kha
khá, các quan lại địa phương đã thỉnh cầu với vua Minh Mạng xin được lập phủ Ba Xuyên.
Vua Minh Mạng phê chuẩn. Phủ Ba Xuyên vào năm 1835 bao gồm toàn bộ đất Bassac
trước đây.
“Khi đầu đặt An Phủ Sứ, đến năm thứ 20 (1839) cho chức An Phủ sứ mà lãnh việc tri

phủ. Lại trích địa phận huyện Vĩnh Định ra làm ba huyện: Phong Nhiêu, Phong Thạnh,
Vĩnh Định. Sau đến Phong Nhiêu làm phủ, kiêm lý hai huyện Phong Thạnh và Vĩnh Định.”
(Đại Nam Nhất Thống Chí). Như vậy, tình An Giang từ năm 1835 gồm có ba phủ: phủ
Tuy Biên (Châu Đốc), phủ Tân Thành (Sa Đéc) và phủ Ba Xuyên (Sóc Trăng).
Năm Tự Đức thứ 3 (1850), triều đình giảm bớt quan lại, hai huyện: huyện Phong Thạnh
và huyện Vĩnh Định được giao cho “quan phủ kiêm nhiếp”. Phủ Ba Xuyên như vậy vẫn
trực thuộc tỉnh An Giang, lãnh 3 huyện, 10 tổng và 83 xã bang (Đại Nam Nhất Thống
Chí).
Thời Pháp thuộc (1867 – 1945).
Theo mô tả của Annuaire de la Cochinchine en 1868, trong những năm đầu khi Pháp mới
xâm lược, các đơn vị hành chính ở Sóc Trăng hầu như không thay đổi. Nghị định ngày 15
tháng 7 năm 1867 của Thống đốc Nam kỳ chỉ gây nên hai xáo trộn nhỏ tại Sóc Trăng:
- Phủ Ba Xuyên được đổi thành hạt tham biện (Inspection).
- Trụ sở của hạt được dời từ Đại Ngãi (Vàm Tấn) về Khánh Hưng (thị xã Sóc Trăng).
Phải đợi đến năm 1876, khi về cơ bản đã bình định xong đất Nam kỳ, chính quyền thực
dân mới tiến hành cải cách hành chính tai đây. Theo Nghị định ngày 5 tháng 1năm 1876,
Pháp bỏ hẳn hệ thống Nam Kỳ lục tỉnh và chia Nam Kỳ thành bốn khu vực lớn là: Sài
Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bassac.
Hạt Sóc Trăng thời kỳ này có diện tích canh tác vào khoảng 7.618,43 hecta, dân số
55.935 người. Hệ thống hành chính gồm 11 tổng và 144 thôn. Trụ sở của hạt đặt ở
Khánh Hưng, nơi có Toà bố, nhà điện tín, nhà bưu điện và một trường tiểu học.
Vào năm 1899, theo Nghị định 20 tháng 12 năm 1899, chính quyền thực dân bãi bỏ các
danh xưng địa hạt hay tòa tham biện, đổi thành tỉnh. Tỉnh Sóc Trăng từ năm 1900 đến
năm 1945 tồn tại với cơ cấu hành chính địa phương như sau:
- Từ năm 1900 đến 1916: theo các Nghị định ngày 10 tháng 10 năm 1906 và Nghị định
ngày 16 tháng 2 năm 1909 của Thống đốc Nam Kỳ, tỉnh Sóc Trăng được phân chia làm
ba quận: quận Phú Lộc, quận Kế Sách và quận Ban Long với 11 tổng.
- Từ năm 1916 đến 1929: theo Nghị định ngày 30 tháng 8 năm 1916 của Thống đốc Nam
Kỳ, lập thêm quận Châu Thành, thuộc tỉnh Sóc Trăng. Như vậy trong thời gian này tỉnh
Sóc Trăng gồm bốn quận, với 11 tổng và 81 làng, diện tích canh tác khoảng 212.908

hecta và dân số khoảng 188.458 người. Cũng trong thời kỳ này, theo quyết định của
Thống đốc Nam Kỳ, quận Ban Long được đổi tên thành quận Thạnh Trị (quyết định ngày
1 tháng 3 năm 1926).
- Từ năm 1929 đến năm 1945: quyết nghị ngày 19 tháng 11 năm 1929 đã chính thức
chia lại hành chính các quan ở Sóc Trăng. Từ sau khi quyết nghị này có hiệu lực, nhiều
làng nhỏ được sát nhập vào với nhau, Sóc Trăng từ bốn quận trở thành ba quận là: quận


Châu Thành, quận Kế Sách và quận Long Phú. Các quận này tồn tại cho hết thời Pháp
thuộc.
Thời kỳ chính quyền Việt Nam Cộng hòa
Năm 1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Sóc Trăng thành tỉnh Ba Xuyên.
Tỉnh Ba Xuyên có diện tích 2.833 km², dân số vào năm 1970 là 401.379 người và được
chia làm tám quận với 50 xã. Tám quận gồm:
- Quận Hòa Tù: diện tích 193,5 km², dân số 10.218 người.
- Quận Lịch Hội Thượng: diện tích 235 km², dân số 33.372 người.
- Quận Long Phú: diện tích 526,7 km², dân số 58.737 người.
- Quận Mỹ Xuyên: diện tích 376,6 km², dân số 115.896 người.
- Quận Ngã Năm: diện tích 334 km², dân số 27.244 người.
- Quận Kế sách: diện tích 406 km², dân số 71.947 người.
- Quận Thạnh Trị: diện tích 329 km², dân số 43.718 người.
- Quận Thuận Hoà: diện tích 432,2 km², dân số 40.247 người.
Thời kỳ từ sau ngày giải phóng năm 1975 đến nay.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, theo yêu cầu mới của việc
quản lý đất nước, nhà nước ta đã quyết định sáp nhập hai tỉnh: tỉnh Sóc Trăng và tỉnh
Cần Thơ thành tỉnh mới lấy tên là tỉnh Hậu Giang (kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975).
Trụ sở của tỉnh được đặt tại thành phố Cần Thơ. Tỉnh lỵ Sóc Trăng trước đây thành thị xã
trực thuộc tỉnh.
Bước sang thời kỳ đổi mới, nhằm phát huy mọi tiềm năng và thế mạnh của các địa
phương trong cả nước, theo Quyết định ngày 2 tháng 12 năm 1991 của Chính phủ, tỉnh

Hậu Giang được tách ra thành hai tỉnh mới là tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Cần Thơ. Tiếp theo
đó, Quyết định ngày 19 tháng 6 năm 1993 đã ổn định bộ máy hành chính của Sóc Trăng
với 1 thị xã, 6 huyện với tổng số 94 xã, phường, thị trấn. Đó là:
- Thị xã Sóc Trăng: 6 phường.
- Huyện Kế sách: 12 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Mỹ Tú: 15 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Mỹ Xuyên: 15 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Thạnh Trị: 12 xã và 2 thị trấn.
- Huyện Long Phú: 18 xã và 1 thị trấn.
- Huyện Vĩnh Châu: 9 xã và 1 thị trấn.
Hiện tại, Sóc Trăng đang là một trong những tỉnh sản xuất lương thực trọng điểm ở đồng
bằng sông Cửu Long và cũng là một trong những tỉnh dẫn đầu sản xuất lúa gạo trong cả
nước. Với sự ổn định như hiện nay, trong tương lai, chắc chắn Sóc Trăng sẽ càng phát
triển hơn nữa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
ĐỊA LÝ SÓC TRĂNG
Diện tích: 3.312,3 km2.
Dân số (2006): 1.276.200 người.
Tỉnh lỵ: thành phố Sóc Trăng.
Các huyện: huyện Kế Sách, huyện Mỹ Tú, huyện Mỹ Xuyên, huyện Thạnh Trị, huyện Long


Phú, huyện Vĩnh Châu, huyện Cù Lao Dung và huyện Ngã Năm.
Dân tộc: Việt (Kinh), Khmer, Hoa, Chăm…
Thành phố Sóc Trăng cách thành phố Hồ Chí Minh 231 km, cách thành phố Cần Thơ 60
km, Sóc Trăng nằm ở cuối lưu vực sông Mê Kông, giáp với các tỉnh: tỉnh Trà Vinh, tỉnh
Vĩnh Long, tỉnh Hậu Giang, tỉnh Bạc Liêu và biển Đông. Sóc Trăng có 72 km bờ biển,
30.000 hecta bãi bồi, khí hậu mang tính chất khí hậu đại dương hai mùa: mùa mưa từ
giữa tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 năm sau. Nhiệt độ trung
bình năm từ 260C đến 280C.
Sóc Trăng là tỉnh nông nghiệp chủ yếu trồng lúa (chiếm hơn 90% diện tích đất canh tác).

Du khách đến đây sẽ thấy một vùng đất xanh tươi với trái xum xuê trĩu quả như vườn
nhãn ven biển Vĩnh Châu, vườn chôm chôm, sầu riêng, cam, quýt…trên cù lao Dung, cồn
Mỹ Phước.
———————————
BÁNH PÍA SÓC TRĂNG
Không những có các công trình kiến trúc Khmer nổi tiếng, Sóc Trăng còn được biết đến
bởi những món ăn ngon như cốm dẹp, xá bấu, bún nước lèo, bánh bía… trong đó, bánh
bía là đặc sản không thể thiếu trong chuyến đi về Sóc Trăng.
Chiếc bánh bía nhìn từ bên ngoài có màu vàng cam. Xẻ chiếc bánh làm đôi, chiếc bánh
như vành trăng bán nguyệt ẩn vào bên trong là màu đỏ rực của lòng đỏ trứng gà, mùi
sầu riêng dậy lên như mời gọi làm cho chiếc bánh bía trông đã ngon lại càng ngon hơn.
Bánh bía Sóc Trăng không khô cứng như bánh lột da mà mềm, ngọt đậm. Để bánh pía có
được mùi vị, mầu sắc hấp dẫn phải qua rất nhiều công đoạn. Trước tiên, bột mì được đưa
vào máy, trộn nhuyễn với đường cát trắng trên bếp lửa. Sau đó thêm vào các phụ gia, rồi
chia làm hai phần. Phần bột dai được cán mỏng như bánh tráng, cuốn tròn lại, kéo dài ra
làm vỏ ngoài cùng. Phần bột xốp được xắt thành khối hình vuông, có kích cỡ vừa lòng
bàn tay, được dùng làm vỏ bánh bên trong.
Nhân bánh có nhiều loại, phổ biến nhất là nhân khoai môn, nhân đậu xanh, sầu riêng.
Đậu xanh và khoai môn sau khi hấp chín được trộn đường, xay nhuyễn, chế thêm mỡ
nước tạo nên mùi vị bùi bùi, beo béo khá hấp dẫn. Mỡ làm nhân được xắt sợi ướp đường
cho săn, để nhằm giữ được lâu. Hột vịt muối đặt giữa nhân, người ta chỉ chọn lấy lòng
đỏ.
Do có nguồn gốc từ Trung Hoa được du nhập vào Việt Nam theo chân các Hoa kiều nên
bánh pía cũng có ít nhiều những thay đổi cho phù hợp với điều kiện bản địa. Ví như Người
dân Nam Bộ có đặc tính thích mùi thơm nặng của sầu riêng do vậy bánh được bổ sung
thêm mùi vị của loại trái cây này và từ đó đã trở thành đặc sản nổi tiếng. Nhắc đến bánh
bía Sóc Trăng ai cũng thích nhất bánh bía đậu xanh sầu riêng. Sầu riêng khi tách hạt lấy
thịt trộn mỡ heo xắt sợi làm nên những mùi vị tuyệt vời của bánh pía Sóc Trăng.
Sau các bước chuẩn bị đầy công phu, bánh được đưa vào lò và nướng ở nhiệt độ trung
bình khoảng 2700C. Sau từ 5-7 phút, thợ đứng lò sẽ lấy bánh ra, lật ngược mặt bánh rồi

thoa lên một lớp lòng đỏ trứng và đưa vào lò trở lại. 15 phút sau, khi chiếc bánh chuyển
sang màu vàng ươm, quyện mùi sầu riêng thơm hấp dẫn cũng là lúc chiếc bánh đã được
hoàn thành và chuẩn bị đến tay thực khách.
Bánh bía có hai loại chay và mặn. Ăn bánh không thể thiếu tách trà thơm. Vị đăng đắng,
thanh thanh trong trà giúp bánh đỡ ngấy. Điều lạ của bánh là ở chỗ không thể ăn một lúc


được nhiều nhưng có thể nếm lai rai không biết ngán. Người Sóc Trăng có thói quen biếu
tặng bánh bía nhân dịp cúng trăng (rằm tháng 8) hoặc lễ Tết như cách bày tỏ tình thân
ái. Người phương xa đến thăm Sóc Trăng bao giờ cũng mua vài phong bánh bía (mỗi
phong bốn cái) làm quà cho người ở nhà, như mang theo hương vị ngọt ngào đậm đà,
chân chất của một vùng quê Nam Bộ. Để rồi cứ mỗi độ lễ hội Oc om boc đến, trên dòng
sông Đinh rộn vang tiếng hò, khắp nơi vang lên điệu lâm thôn thì cũng là lúc chiếc bánh
bía lại quay về với câu chuyện lễ nghĩa, của tình chòm xóm như câu hát mượt mà, da
diết không thể nào quên.
———————————
Chùa Sà Lôn (Chùa Chén kiểu)
Đến Sóc Trăng theo các tour du lịch tâm linh, ngoài viếng các chùa: Dơi, Đất Sét, Klêlang
bạn không thể không viếng chùa Sà Lôn (còn gọi chùa Chén Kiểu) nằm trên Quốc lộ 1A,
cách thị xã Sóc Trăng 12km về hướng Tây, hướng từ thị xã Sóc Trăng đi Bạc Liêu.
Nét đặc sắc ở ngôi chùa là sử dụng những mảnh bát (chén), đĩa sứ ốp lên tường trang trí
cho ngôi chùa, bởi vậy chùa còn được gọi là chùa Chén Kiểu.
Thuở ban đầu chùa được dựng bằng cây và lá rừng. Trong thời kỳ chiến tranh, ngôi chánh
điện bị sập do bom đạn tàn phá. Chùa được dựng lại năm 1969, đến năm 1980 hoàn
thành.
Kỹ thuật ốp sứ độc đáo đã tạo nên vẻ đẹp riêng rất ấn tượng của ngôi chùa. Tại chùa Sà
Lôn còn lưu giữ một bộ sưu tập đồ gỗ quý hiếm được chạm, khảm rất tinh tế, nhà chùa
mua lại trong phần gia sản của công tử Bạc Liệu năm 1947.
Cột chùa chạm nhiều hoa văn, đường viền độc đáo. Hai bên cổng ngự, hai con sư tử bằng
đá trên bệ cao, hướng ra lộ. Trên cổng xây ba ngôi tháp, được chạm khắc, đắp nổi biểu

trưng cho văn hóa truyền thống Khmer. Đặc biệt, trong lòng tháp chính giữa lồng một
tấm kính, nổi bật tượng phật ngồi uy nghi, như hiện hữu an lành ở chốn cảnh chùa. Cũng
như các ngôi chùa khác của người Khmer, mái nóc chùa Chén Kiểu có ba nếp, nếp dưới
cùng lớn và nhỏ dần khi vút lên cao. Nếp phía trên có hình tam giác, hai đầu đao mỗi bên
cong nguy nga. Mỗi nếp trang trí nhiều họa tiết và các tượng Khmer mang ước vọng bình
yên, siêu thoát. Mặt sau chính điện là một mảng tường đắp nổi bởi nhiều mảnh chén kiểu
vỡ đẹp mắt và sắc sảo. Bước vào gian thờ chính điện, sẽ thấy quần thể gồm 20 tượng
phật lớn, nhỏ đứng ngồi nhiều tư thế khác nhau. Tất cả được bố trí hợp lý, không gian
tôn nghiêm luôn thơm mùi nhang khói. Theo một vị sư trụ lâu năm tại đây thì chùa Chén
Kiểu trước kia được cất bằng lá, có tên Khmer là “Sà Lôn”. Chùa được xây cất vào năm
1815 trên nền đất rộng. Thập niên 60, chùa bị bom đạn phá hư hại và được xây lại như
hiện trạng ngày nay. Phần sau chính điện vì thiếu kinh phí nên được các nghệ nhân sử
dụng mảnh vỡ chén kiểu đắp vào. Chùa có tên Chén Kiểu từ đó. Hiện nay ngoài tín đồ
phật tử là đồng bào Kh’mer, chùa Chén Kiểu còn thu hút đông đảo khách du lịch tâm linh
từ khắp mọi miền đổ về hành hương trong những dịp lễ vía Phật. Ngoài thắp hương cho
lòng thanh thản còn được viếng cảnh chùa, xem nghệ thuật điêu khắc của nghệ nhân
Kh’mer Nam bộ.
———————————
Khám phá Chùa Khleang – Ngôi cổ tự miền đất Sóc Trăng


Khleang là một trong những ngôi chùa Khmer cổ nhất ở Sóc Trăng được xây dựng vào
giữa thế kỷ 16. Chùa có bức tượng Phật ngồi trên đài sen cao 6,8 m đặt ngay ở chính
điện. Chùa Khleang đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Chùa Khleang là một ngôi chùa cổ ở Sóc Trăng, có tuổi thọ rất cao, gắn liền với truyền
thuyết địa danh Sóc Trăng. Ban đầu, chùa được xây cất bằng gỗ, lợp lá, rồi dần dần mới
xây cất bằng gạch và lợp ngói, với cách trang trí, đường nét kiến trúc rất đẹp.
Chùa nằm trên một khoảnh đất rộng, không gian thông thoáng, chung quanh có nhiều
cây xanh, tỏa bóng mát xuống khắp mặt sân, dưới mỗi gốc cây có đặt những băng ghế
đá dùng để nghỉ chân, tạo cho du khách một cảm giác hết sức thoải mái, mát mẻ sau khi

tham quan mệt nhọc.
Chùa Khleang được xây cất rất cao so với mặt đất, với bậc tam cấp và ba vòng rào, tất
cả đều bằng xi-măng và rực rỡ mầu sắc. Vòng rào ngoài lớn rồi nhỏ dần vào trong,
khoảng cách giữa các vòng rào rất rộng, nền chùa chiếm diện tích rất lớn. Trước chùa có
xây hai tháp hình bầu dục nằm ở hai bên, dùng để đựng xương cốt của các vị trụ trì.
Bên trong chính điện có 16 cột bằng gỗ, rất to, đen mượt, được thếp bằng vàng các hình
ảnh nói về cuộc đời đức Phật, về sinh hoạt Phật pháp. Trên trần và chung quanh đều
được trang trí bằng rất nhiều nét vẽ về hình ảnh của đức Phật, thể hiện được sự hòa hợp
giữa kiến trúc và hội họa.
Nơi chính điện là tượng Phật cao 6,8 m, phần thân tượng cao 2,7 m được đúc vào năm
1916. Tượng được đặt ngồi trên tòa sen lộng lẫy với vầng hào quang bằng điện lúc ẩn,
lúc hiện, tạo nên sự uy nghiêm thanh thoát và huyền ảo. Chung quanh tượng Phật lớn và
tượng Phật nhỏ có nhiều tủ kính trưng bày các hiện vật gia dụng của cộng đồng người
Khmer xưa như là một cách bảo tồn và phát huy nét sinh hoạt văn hóa cổ xưa của dân
tộc mình.
Bộ mái chùa cũng được xây dựng theo thể thức tam cấp và mỗi cấp lại có 3 nếp. Nếp
giữa lớn hơn nếp phụ ở hai bên và không có tháp nóc chùa. Chung quanh mái chùa được
đắp phù điêu hình chim, thú cũng như những hình ảnh tượng trưng cho triết lý nhà Phật.
Toàn bộ mái chùa là cả một công trình kiến trúc vĩ đại thể hiện quan niệm, triết lý về
Phật, Trời của người Khmer.
Hằng ngày, chùa Khleang đón rất nhiều du khách đến tham quan, đặc biệt là du khách
nước ngoài. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch công nhận là Di tích lịch sử,
văn hóa quốc gia.
Nét đẹp ở chùa Khleang
Du khách đến Sóc Trăng, ngoài việc nghỉ ngơi, thư giãn ở Hồ nước ngọt, chiêm ngưỡng
chùa Dơi, ghé thăm chùa Đất Sét, chùa Chén Kiểu… không thể nào không đến chùa
Khleang, bởi đến đây du khách sẽ đuợc chiêm ngưỡng vẻ đẹp uy nghi, lộng lẫy, kiến trúc
độc đáo của ngôi chùa ở đây. Chính vì nét đẹp của lối kiến trúc mà ngôi chùa được Nhà
nước công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa tọa lạc tại số 71, đường Mậu Thân,
phường 6, thị xã Sóc Trăng. Vẻ đẹp chính của ngôi chùa là những đường nét, kiến trúc

thể hiện phong cách đặc trưng của người Khơ-me ở Nam Bộ.
Sóc Trăng là nơi tập trung đông đảo cư dân Khơ- me sinh sống. Đan xen cùng các dân
tộc Việt, Hoa anh em. Cuộc sống của cư dân Khơ-me luôn gắn liền với chùa chiền, vì
chùa là nơi để sinh hoạt tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa của cả cộng đồng, nên khu vực
người Khơ-me sinh sống thường tập trung rất nhiều chùa phục vụ sinh hoạt tinh thần của


họ. Do vậy, ngay từ buổi mở đất, cư dân Khơ-me xây dựng rất nhiều chùa chiền, cho nên
ngày nay Sóc Trăng còn tồn tại rất nhiều ngôi chùa cổ gắn liền với sự sinh sống của cộng
đồng người Khơ- me mà chùa Khleang là một minh chứng.
Chùa Khleang là một ngôi chùa cổ, có tuổi thọ rất cao, được xây cất vào khoảng 1533,
gắn liền với truyền thuyết địa danh Sóc Trăng. Do lúc đầu cuộc sống còn nhiều khó khăn,
các loại vật liệu, phương tiện chưa phổ biến nên chùa được xây cất bằng gỗ, lợp lá, rồi
dần dần mới xây cất lại bằng gạch và lợp ngói, với cách trang trí, đường nét kiến trúc rất
đẹp. Chùa nằm trên một sở đất rộng, không gian thông thoáng, xung quanh có nhiều cây
xanh, tỏa bóng mát xuống khắp mặt sân, dưới mỗi góc cây có đặt những băng ghế đá
dùng để nghỉ chân, tạo cho du khách một cảm giác hết sức thoải mái, mát mẻ sau khi
tham quan mệt nhọc. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa còn có trồng nhiều cây thốt nốt –
loại cây tương tự như cây dừa, loại cây đặc trưng mà người Khơ-me thích trồng ở khu vực
sinh sống của mình. Cổng chùa được trang trí nhiều hoa văn, họa tiết, màu sắc rực rỡ
mang đậm phong cách Khơ-me. Trên cổng còn có ba ngôi tháp nhỏ, được trang trí đẹp
mắt, hòa cùng nền trời xanh tạo nên gần gũi, liên kết, thành tâm giữa con người và đất
trời, là sự giao hòa giữa cõi nhân duyên và miền cực lạc.
Kiến trúc chính của ngôi chùa là tòa chính điện với lối kiến trúc phức tạp, sâu sắc thể
hiện triết lý phương Đông về nhân sinh thế sự. Chùa được xây cất rất cao so với mặt đất,
với bậc tam cấp và ba vòng rào, tất cả đều bằng xi-măng và rực rỡ màu sắc. Vòng rào
ngoài lớn rồi nhỏ dần vào trong, khoảng cách giữa các vòng rào rất rộng, nền chùa chiếm
diện tích rất lớn. Trước chùa có xây hai tháp hình bầu dục nằm ở hai bên, dùng để đựng
xương cốt của các vị trụ trì.
Bên trong chính điện có khoảng 16 cột bằng gỗ, rất to, đen mượt, được thếp bằng vàng

các hình ảnh nói về cuộc đời đức Phật, về sinh hoạt Phật pháp. Trên trần và chung quanh
được trang trí bằng rất nhiều nét vẽ về hình ảnh của Đức Phật, thể hiện được sự hòa hợp
giữa kiến trúc và hội họa. Nơi chính điện là tượng Phật rất to, ngồi trên tòa sen lộng lẫy,
xung quanh là những bày trí của các vị sư như hoa lá, cây trái và một vài tượng Phật
nhỏ, vầng hào quang bằng điện lúc ẩn lúc hiện, tạo nên sự uy nghiêm thanh thoát và
huyền ảo.. Ngoài ra, trong chùa còn có một “Sa la” rất lớn, đó là nhà hội của phật tử và
sư sãi. “Sa la” là một nhà sàn bằng gỗ, mặt sàn cách mặt đất khoảng 01 mét, có một
gian rộng rãi để cử hành dâng cơm và tổ chức những sinh hoạt theo nghi thức cổ truyền.
Bộ mái chùa cũng được xây dựng theo thể thức tam cấp và mỗi cấp lại có 3 nếp. Nếp
giữa lớn hơn nếp phụ ở hai bên và không có tháp nóc chùa. Xung quanh mái chùa được
đắp phù điêu hình chim, thú cũng như những hình ảnh tượng trưng cho triết lý nhà Phật.
Hằng ngày, chùa Khleang đón rất nhiều du khách đến tham quan, đặc biệt là du khách
nước ngoài, hết thảy đều choáng ngợp trước nét đẹp kiến trúc của ngôi chùa. Nếu có dịp
đến Sóc Trăng, xin bạn hãy nán chút thời gian quý báu đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
chùa Khleang để cảm nhận thêm vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống.
———————————
Chùa Dơi
Nếu có dịp ghé Sóc Trăng, các bạn nên đến với Chùa Dơi – một địa chỉ du lịch độc đáo
nổi tiếng của vùng này. Nằm cách thị xã Sóc Trăng 3km về phía Nam, Chùa Dơi mà tiếng
Khơ Me gọi là Serâytécbômabatúp, có nghĩa là do phúc đức tạo nên.
Chùa Dơi ra đời cách đây gần 400 năm (chùa có tên là chùa Mã Tộc hay chùa Ma Ha


Túc). – Chùa nằm cách thị xã Sóc Trăng 2km là một trong những điểm thu hút nhiều
khách du lịch trong nước và quốc tế. Chùa Dơi độc đáo bởi hàng ngàn tượng phật, tượng
tứ linh (Long, ly, quy, phượng…) đều nặn từ đất sét cùng với vẻ đẹp kỳ thú do dơi và quạ
tạo nên.
Không ai nhớ nổi Chùa này ra đời khi nào và do ai trụ trì đầu tiên. Song điều đó cũng
không phải là sự đặc biệt gì. Nét độc đáo của Chùa này chính là nơi hội tụ của hằng hà sa
số Dơi. Bao bọc quanh chùa là cả một cánh rừng với đủ lại cây, song nhiều nhất vẫn là

Sao và Dầu. Có hàng vạn con Dơi tá túc ở cánh rừng này. Có những con lớn đến mức sải
cánh dài cả mét treo đen kịt trên các nhánh cây. Cả ngày chúng tớn tác kiếm ăn đâu
không rõ, cứ chiều đến, từ khắp nơi hàng vạn con Dơi lại trở về sân chùa.
Khách du lịch đến thăm Chùa thú nhất là được ngắm nhìn đàn dơi bay kín cả bầu trời mỗi
khi hoàng hôn. Trong cái tĩnh mịch của ngôi chùa cổ giữa rừng, tiếng vỗ cánh của đàn
Dơi có thể làm những ai yếu bóng vía phải hãi hùng.
Cứ đến mùa mưa (tháng 5, tháng 6) là mùa sinh sản của Dơi. Hầu hết Dơi ở chùa đều đẻ
mỗi lứa mỗi con, song số lượng Dơi thì không hề tăng thêm mà đang có nguy cơ tụt giảm
bởi rất nhiều người đến đây bắt dơi bằng cách chăng lưới hoặc dùng lồng chụp. Mỗi ngày
như thế, đám người này có thể bắt hàng ngàn con. Thịt dơi cũng là món khoái khẩu của
mấy bợm nhậu. Nghe bảo nó thơm và ngon như thịt gà.
Các vị sư ở đây rất tích cực bảo vệ đám dơi bởi họ cho rằng cái sự dơi đổ về chùa chính là
phúc lành nhà phật cho ngôi chùa này. Bên sự độc đáo kỳ lạ kia, du khách cũng có thể
thoả mãn với nét kiến trúc của ngôi chùa cổ này trong sự hoà đồng của nền văn hoá Việt
– Miên thể hiện ở điêu khắc Ăng-co với nhiều phù điêu và hoa văn trên làng loạt cột đài
nơi chính điện. Nếu có biện pháp tốt để trùng tu ngôi chùa (hiện đang bị đổ nát khá
nhiều) và bảo vệ được đàn dơi – ngôi chùa này chắc chắn sẽ là một điểm du lịch kỳ thú
của miền sông nước Sóc Trăng.
———————————
Chùa Đất Sét
Chùa Đất Sét còn có tên là Bửu Sơn tự nằm ở khóm 1, phường 5, thị xã Sóc Trăng.
Chùa nổi tiếng bởi những vật được tạo hình từ đất sét. Từ tháp Đa Bảo 13 tầng, tháp Bảo
Tòa cao hai mét, đến Lục Long Đăng và nhiều thứ khác đều làm bằng đất sét, sau đó
được phủ ngoài bằng nước sơn, kim nhũ. Chùa Đất Sét là một công trình kiến trúc độc
đáo ở Việt Nam.
Chùa Đất Sét được xây dựng từ rất lâu để thờ Phật tại gia của dòng họ Ngô. Thuở ban
đầu, Chùa được cất bằng các loại cây bình thường ở địa phương. Trải qua bao năm tháng
nên đã bị hư mục khá nhiều và cũng đã được con cháu trong dòng họ tu sửa nhiều lần
theo cấu trúc ban đầu. Mãi đến năm 1928, ông Ngô Kim Tông đã thực hiện một ý tưởng
của mình là dùng chất liệu đất sét tại chỗ để dựng nên một ngôi chùa và tạc các tượng

thờ Phật.
Bằng trí tưởng tượng phong phú, bằng bàn tay tài hoa khéo léo của mình, ông đã tạo nên
tháp Đa Bảo cao 13 tầng, mỗi tầng có 16 cửa, mỗi cửa có một tượng Phật. Tổng cộng
tháp Đa Bảo có 208 cửa, 208 vị Phật và 156 con rồng đỡ cho 13 tầng tháp. Toàn bộ tháp
này cao chừng 4,5 mét. Kế đó ông tạo Tháp Bỏa Tòa để thờ Phật cao chừng 2 mét, phía
trên theo hình bát giác tượng trưng cho bát quái: Càn – khảm – cấn – chấn – tốn – ly –
khôn – đoài. Trên cùng của tháp là một tòa sen với 1000 cánh, trên mỗi cánh sen có một


tượng phật ngự. Trong chùa có một chùm đèn gọi là Lục Long Đăng với sáu con rồng
quay đầu ra chung quanh, đuôi chụm vào với nhau, phía dưới là một bông sen để các
bóng đèn. Ngoài ra, ông Tông còn tạo hình các danh thú như Kim Lân, Thanh Sư, Bạch
Hổ, Long Mã, Bạch Tượng… có ba cái đỉnh, mỗi cái cao 1,5 mét, bảy cái lư hương nhỏ.
Tìm hiểu kỹ thì được biết toàn chùa có đến 1991 tượng Phật và tất cả đều hoàn toàn làm
bằng đất sét. Sau khi làm xong, tất cả các sản phẩm bằng đất sét đều được phủ lên bên
ngoài bằng nước sơn, kim nhũ và dầu bóng nên trông giống như làm bằng chất liệu đồng
vậy.
Bên cạnh những sản phẩm bằng đất sét, ở trong chùa còn có những cây đèn cầy (nến)
khổng lồ. Sáp để đúc đèn được mua từ năm 1940, vẫn còn nguyên khối. Sau một tháng,
đèn thiệt khô mới dỡ bỏ khuôn và đem những con rồng bằng đất trang trí xung quanh.
Được biết, mỗi cặp đèn lớn đốt liên tục 70 năm mới hết.
Suốt gần 30 năm, không một giọt sáp nào chảy ra bên ngoài cả. Cần phải nói thêm là
trong chùa hiện nay vẫn còn ba cây nhang (hương) lớn, mỗi cây nặng 50 kg chưa sử
dụng đến. Tất nhiên đều là hương thật. Có lẽ chùa Đất Sét là một công trình kiến trúc
“độc nhất vô nhị” ở Việt Nam.
———————————
Cồn Mỹ Phước
Nếu nói về “Du lịch xanh” ở Sóc Trăng thì cồn Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách, là
một điểm thu hút khá đông du khách trong và ngoài tỉnh. Nơi đây mang đặc thù của
những vùng cây trái chuyên canh ở các cù lao trên sông Hậu thuộc Sóc Trăng cũng như

ĐBSCL.
Đông vui nhất là vào dịp tết Đoan Ngọ (5/5 âm lịch) hàng năm hoặc mùa hè – mùa trái
cây chín rộ, mỗi ngày vẫn có hàng nghìn lượt du khách đổ về các vườn cây trái sum suê
trĩu quả.
Cách thị trấn Kế Sách chừng 10 km, muốn tới cồn Mỹ Phước khách có thể đi bằng cả
đường thuỷ và đường bộ thuận tiện. Đất xứ cồn này từ xưa đã nổi tiếng với cây hồng
xiêm, xoài, sầu riêng…, có vườn trồng tỉa thêm cam quýt. Thu nhập chính của người xứ
cồn chủ yếu dựa vào canh tác vườn cây đặc sản với diện tích trên 300 ha. Bên cạnh đó,
các nhà vườn ở Mỹ Phước đã xây dựng mô hình vườn sinh thái để thu hút du khách;
trong đó, nổi bật là điểm vườn của gia đình ông Tư Việt. Chỉ với 4,5 ha vườn nhãn, nhưng
gia đình ông đã cải tạo, dành chỗ nghỉ ngơi cho khách. Một gian hàng kinh doanh thức ăn
đặc sản miệt vườn cũng được thiết lập với bến đò, nhà vệ sinh khá khang trang…, thu hút
một lượng lớn du khách đến tham quan.
Không riêng gì điểm du lịch của ông Tư Việt, nhiều nhà vườn khác cũng đã thực hiện mô
hình vườn sinh thái. Qua đó, nhà vườn có thể bán được trái cây và có thêm thu nhập
thêm từ các dịch vụ “ăn theo”. Nhằm phát huy lợi thế này, Công ty du lịch Sóc Trăng
cũng đã liên kết đầu tư vào một số điểm du lịch tại cồn Mỹ Phước để sửa sang lại bến bãi,
mở rộng khu sinh hoạt vườn. Sắp tới, công ty sẽ tổ chức các tuyến du lịch sinh thái cuối
tuần phục vụ du khách trong và ngoài tỉnh.
———————————
Chạch lấu nướng mộc (Sóc Trăng)
Chạch lấu phải là cá tươi, bơi khỏe… sau khi nướng cơ thịt mới dai, chắc. Có nhiều công
thức chế biến món chạch lấu nướng khác nhau, nhưng hơn nhau ở chỗ “bài phụ gia” ướp


trước khi nướng. Gọi là phụ gia nhưng vai trò của nó có tính quyết định.
Ướp sao cho miếng cá không có mùi tanh, kể cả khi để nguội. Muốn vậy thời gian ướp ít
nhất phải 5 phút gia vị mới thấm vào trong những đường khứa cắt ngang trên thân cá,
Tuy thế, món nướng sẽ không thành công nếu thao tác nướng thiếu một chút “nghệ
thuật”. Nướng mà cá không bị vết khét, cháy. Nhìn cá nướng mà thực khách cứ nghĩ là cá

chiên thì đầu bếp mới thành công.
Thấy con cá nướng muối ớt vàng ươm, tươm mỡ, lấm tấn màu đỏ ớt…đến trẻ con cũng ăn
một cách ngon lành. Sở dĩ mòn này được đặt tên là chạch lấu nướng muối ớt là vì những
đĩa muối ớt đỏ tươi làm món chấm, chứ cá hoàn toàn không có vị cay, rau răm có vị hơi
cay khi cặp với miếng cá vàng da trắng thịt, chấm một tí muối ớt, dù nhấm tí rượu đế
hay một hớp bia thì cũng phải gật đầu.
Nhưng thực khách phải chịu khó “kiên nhẫn” nhé vì món nướng này hơi bị lâu đấy.
———————————
Nghệ Thuật Kiến Trúc Trang Trí Chùa KH’MER Nam Bộ
Ngôi chùa Kh’mer Nam bộ là một công trình kiến trúc – trang trí có nhiều giá trị về mặt
thẩm mỹ, là không gian thiêng liêng nhất tập hợp khả năng kinh tế, chính trị, văn hoá –
nghệ thuật. Ngoài chức năng thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt của đời sống, còn có
khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ cho nhân dân. Ngôi chùa là một tập hợp toàn vẹn
nhất của các yếu tố tạo hình, các yếu tố này kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau trong
một thể thống nhất.
Nghệ thuật kiến trúc – trang trí Kh’mer Nam bộ còn lưu lại cho đến ngày nay tập trung
vào hơn 500 ngôi chùa nằm rải rác khắp các địa phương có người Kh’mer cư trú. Những
ngôi chùa cổ kính ẩn hiện dưới những hàng cây dầu, cây sao xanh tốt. Trong những ngôi
chùa kể trên, nhiều ngôi chùa có niên đại rất sớm như: chùa Âng, chùa Ông Mẹt, chùa
Phướng ở Trà Vinh, chùa Kl’eang ở Sóc Trăng có niên đại khoảng 4 đến 6 trăm năm trở
lại đây (theo lời các sãi cả ở các chùa) và nhiều chùa có niên đại muộn hơn được xây
dựng theo một nguyên tắc nhất định, nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của từng
Phum mà có sự lớn, nhỏ khác nhau. Ngày nay, hầu hết các ngôi chùa nói trên đều đã
được xây dựng hoặc trùng tu lại. Thật khó mà xác định được một cách chính xác niên đại
xây dựng của từng ngôi chùa. Thông thường mỗi ngôi chùa được sửa chữa
hoặc xây dựng lại toàn bộ hay từng phần, trong mỗi thời kỳ khác nhau, gắn liền với sự
phát triển của lịch sử xã hội. Từ đó mà hình dáng, kiểu thức của các ngôi chùa cũng biến
đổi. Những vật liệu hiện đại cũng đã góp phần làm ảnh hưởng nặng nề đến ngôi chùa.
Nhưng nói chung, những nguyên tắc cơ bản vẫn được duy trì và giữ vững tính đặc thù và
đặc trưng của truyền thống dân tộc.

Ỏ mỗi ngôi chùa, chính điện được trải dọc theo hướng Đông – Tây nằm ở trung tâm của
tổng thể chùa. Ở những ngôi chùa này, việc xây dựng bao giờ cũng phải đúng quy cách,
kích thước nhất định như: Chiều dài bằng hai lần chiều rộng, chiều cao bằng chiều dài,
mái và thân là hai phần bằng nhau. Các diện tích khung cửa, nhà ở và điện thờ cũng phải
tuân theo quy định đó, chóp nóc thường thấy là một tam giác cân, nhọn, chiều đứng dài
hơn 1/4. Chùa nào cũng có hành lang (chơn tiên) bao quanh điện. Chính điện có 4 cửa
chính ở hai hướng Đông – Tây cùng bảy hoặc chín cửa sổ ở hướng Nam và Bắc, đó là
những quy tắc cơ bản nhất của kiến trúc chùa Kh’mer. Ở đây, kiến trúc quay về hướng
Đông với quan niệm Phật ngự ở phía Tây nhìn về hướng Đông ban phúc. Các ngôi chính


điện không những mở nhiều cửa sổ mà quanh bốn hướng bao giờ cũng có những dãy
hành lang cao, rộng và thoáng mát.
Kết cấu kiến trúc chính điện là hỗn hợp gỗ, gạch ngói… hai hàng cột cái bằng gỗ quý cao
vượt lên ở giữa tạo nên những bộ vì, gồm hai kẻ hai bên, tất cả các lực đều được dồn lên
nó và áp vào các đầu cột chốn đặt trên xà ngang nối giữa hai đầu cột cái, tạo thành bộ
mái ở giữa chính điện cao vút. Từ đầu các cột cái, các kề và xà vách nối ra tường xây
xung quanh tạo lớp mái thứ hai và lớp mái thứ ba ra đầu cột hiên, che kín hành lang.
Nhìn những chính điện chùa Kh’mer với bộ mái ba lớp, các góc đầu đao đuôi rồng cao vút
uốn lượn cho ta cảm giác mềm uyển chuyển, tạo thông thoáng nhiều ánh sáng bên trong
chùa.
Nhìn chung, toàn thể các ngôi chùa là những công trình kiến trúc – trang trí độc đáo, cho
đến nay tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng mang nặng dấu ấn dân
tộc. Những ngôi chùa trên là nhân chứng chứng minh cho sự biến chuyển đó, nhưng
phong cách truyền thống vẫn là cốt yếu mang tinh thần Kh’mer và triết lý Phật giáo đậm
nét. Chính điều này đã can thiệp vào tất cả các lĩnh vực liên quan đến nghệ thuật tạo
hình khiến cho ngôi chùa với một kiểu thức cơ bản được duy trì không thể mất đi.
Nhìn tổng thể ngôi chính điện của chùa, ta thấy toàn bộ được quy vào một tam giác cân.
Điều này không chỉ áp dụng cho kiến trúc mà ngay cả điêu khắc – trang trí cũng hầu như
tuân thủ theo tiêu chuẩn này. Người Kh’mer quan niệm hình tam giác là hoàn thiện nhất,

ở đó chứa đựng cái đẹp hoàn mỹ và tuyệt đối. Nghĩa biểu trưng của tam giác tương ứng
với nghĩa biểu trưng của con số 3. Trong đạo Hinđu, thần linh tối thượng cũng hiện hình
thành 3: (Brahma – Vishnu – Siva). Đạo Phật có câu: “Hoàn kết trong tam bảo
Treraphona: (Phật – pháp – tăng) thế giới có ba thành phần: (Bhu – Bhuvas -Swar) thời
gian phân ba Trikala: (Quá khứ – hiện tại – tương lai)”.
Hình tam giác còn gắn liền với ngọn lửa thiêng của đạo Hinđu, mà đức Phật thay bằng
ngọn lửa bên trong, nó đồng thời là tri thức xuyên suốt, là sự giác ngộ và sự huỷ bỏ cái
vỏ bọc bên ngoài… Bởi vậy con số 3 nói riêng và số lẻ nói chung là số được trân trọng
gắn liền với nhà Phật.
Các cửa sổ và cột chùa là những con số 3 – 5 – 7 – 9. Trên bàn thờ Phật có lọng 3 tầng
biểu hiện tam bảo, 5 tầng biểu hiện 5 hoá thân của Phật, 7 tầng là phải qua 7 kíp người
mới chết(?), số 9 là số không gian nhà chùa. Như vậy tổng thể ngôi chùa được quy vào
một tam giác cân như một quy ước có tính tượng trưng triết học.
Lối xử lý kiến trúc mái chùa bằng sự thay đổi của cấp mái từ trên xuống với những góc
60 độ, 120 độ kết hợp với hàng cột hiên thanh thoát vuông góc với mặt nền chùa, lại có
sự góp mặt của các môtíp trang trí: (Kẽnnâr, Krũd…) ở mỗi góc chùa và trên đầu cột,
trong tư thế một đường cong với hai tay đỡ mái chùa tạo nên một chuyển động phong
phú, thật khoẻ khoắn, phóng khoáng lại vừa tinh tế và bay bổng vươn lên cao hoà vào
trời xanh.
Sức nặng của mái chùa được giảm nhẹ bằng lối sử lý hai cấp mái, kết hợp với hàng cột
hiên thanh mảnh, tam cấp nền chắc chắn và tĩnh liên hoàn với nhau: Thực – hư – thực.
Có thể nói tổng thể kiến trúc ngôi chùa như một tác phẩm điêu khắc. Với ba phần cơ bản
là: mái, cột – thân chùa – nền, tam cấp là ba phần khối: thực- hư – thực hoặc: đặc –
loãng – đặc, khối: dương – âm và dương.


Những kết cấu đơn giản, bó khuôn trong hình tam giác làm cho ngôi chùa thêm phần
cứng cáp và khoẻ mạnh được kết hợp với những môtíp trang trí đa dạng và phong phú, tỉ
mỉ và tinh tế đã tạo nên một tổ hợp lớn không tách rời nhau giữa trang trí và kiến trúc. Ở
ngôi chùa Kh’mer Nam Bộ, điêu khắc – trang trí có mặt ở khắp mọi chỗ như xà nhà, trần

nhà, góc mái, cột, diềm mái… hầu như người nghệ nhân Kh’mer không để một chỗ nào
trống trong kiến trúc.Từ đây, giữa kiến trúc và điêu khắc – trang trí có một sự ăn nhập
và được thể hiện ra dưới một quy tắc chung nhất nên tất cả đều ăn nhập với nhau nhưng
không lặp lại, không gây nhàm chán mà mang lại cho người xem một cảm giác thích thú,
mang lại sự thăng hoa của tinh thần bởi màu sắc chói lọi được tô trên những hình chạm
khắc. Ở kiến trúc, người ta tạo nên bộ mái là những đường thẳng tắp, các đường thẳng
này chồng lên nhau thành nhiều đường thẳng song song cứng nhắc. Song để khắc phục
được điều này, người thợ Kh’mer đã khéo léo làm nên sự mềm mại, duyên dáng cho bộ
mái bằng cách đắp hoặc chạm những đầu rồng mềm mại, những hoa lá cách điệu, các
vây rồng đang giương lên chạy dọc diềm bờ mái, những chiếc đuôi rắn cong vút, thon
dần cao gần 2m uốn ngược lên trên. Cuối chót chiếc đuôi nào cũng phải lượn thành một
khúc nhỏ như cố tạo nên sự mềm mại, biểu hiện tính chất động của rồng lửng lơ như
chiếc mái chèo. Đó cũng là chiếc chân không móng duy nhất thường thấy và chứng tỏ
một điều là người Kh’mer luôn gắn với nước ở giữa một đồng bằng bát ngát xanh này. Bờ
giải của mái là thân rồng, các vây lưng được cách điệu cao khắc tỉa từng cái tinh tế cắm
sâu đều trên bờ giải phá đi cái thẳng tắp của cả dải, kết hợp với đầu rồng, đuôi rồng đã
tạo nên hình ảnh những chiếc ghe ngo cong vút như đang bơi giữa vùng sông nước.
Chính môtíp này đã làm nên một nét đẹp tạo hình, giúp cho giải mái của chùa được nhịp
nhàng uyển chuyển.
Ngoài ra, có sự cộng hưởng của nhiều chi tiết trang trí cũng góp phần làm giảm nhẹ sức
nặng chung của ngôi chùa. Tất cả ngôi chùa là một tam giác biến thể vừa tượng trưng
triết học lại tinh tế và bay bổng, sâu lắng trong một suy tư đầy ý vị.
Nguyên tắc này phần nào đã ăn sâu vào tiềm thức của người Kh’mer và nghệ nhân
Kh’mer. Bởi vậy, ngôi chùa qua thời gian lịch sử với nhiều lần làm mới hoặc sửa chữa vẫn
không làm khác biệt với chuẩn mực cũ.
Các diềm mái, góc giữa hai mái, đầu cột, chân cột, cánh cứa, mí cửa, xà ngang, dọc và
trần nhà v.v… đều được khai thác năng động bằng những hình ảnh điêu khắc nhưng đều
lấy cảm hứng chủ yếu từ cuộc đời đức Phật và hoa lá mây nước trong đời sống cộng đồng
người Kh’mer, tình cảm chân chất, tay nghề điêu luyện… Bởi vậy tất cả đều hài hoà và
không làm mất đi công năng của chùa.

Kiểu thức này có tính nguyên tắc chặt chẽ và được coi là truyền thống. Truyền thống và
nguyên tắc ấy không phải là một khoa học cứng nhắc theo kiểu công thức; mà chỉ mang
tính ước lệ. Đây chính là điều kiện để duy trì một ngôi chùa theo nguyên tắc truyền thống
đồng thời có thể phát huy khả năng sáng tạo đặc biệt trong việc xử lý năng động các chi
tiết sao cho các chi tiết này làm tôn vinh vẻ đẹp tổng thể. Ở đây, kiến trúc tạo cơ hội cho
điêu khắc – trang trí phát triển và từ những mối quan hệ mật thiết của kiến trúc – điêu
khắc – trang trí đã giúp cho ngôi chùa Kh’mer Nam Bộ có một chỗ đứng vững chắc trong
lòng nhân dân, trong từng phum, sóc. Từ đây ngôi chùa, chính nó là một tác phẩm nghệ
thuật hoàn mỹ.


Nói chung, kiến trúc chùa Kh’mer là một loại kiến trúc đơn giản nhưng vững chắc, tạo
hiệu quả công năng cao, đồng thời hầu như tất cả đều biến thành vật liệu để cho trang trí
– kiến trúc nở rộ. Từ đây, tạo nên một mối quan hệ vững chắc giữa kiến trúc và điêu
khắc – trang trí, sự đơn giản hoá của kiến trúc được phối hợp với sự cầu kỳ và vô số
những môtíp trang trí – điêu khắc đã tôn nhau tạo một tổng thể hài hoà nhưng rực rỡ,
mềm mại mà không cứng nhắc.
Nhìn từ góc độ nghệ thuật, ngôi chùa là một tổng thể nghệ thuật kiến trúc đặc trưng nhất
của người Kh’mer. Nhìn từ góc độ tâm linh, ta thấy ngôi chùa là đỉnh cao của thăng hoa
tôn giáo. Cái đẹp hiện ra trong cái thiêng liêng Phật tính. Làm đẹp cho chùa, nơi thờ Phật
là làm cho lòng mình sung sướng và thanh thản nhất.
Ở đây, nghệ thuật kiến trúc – trang trí của ngôi chùa phần nào nói lên được tâm tư tình
cảm, óc sáng tạo và khiếu năng thẩm mỹ đặc biệt của người Kh’mer Nam Bộ. Vì vậy có
thể nói, ngôi chùa là một sự điển hình, một sự độc đáo của vùng sông nước tạo nên nét
đẹp đặc thù mà chỉ ở người Kh’mer Nam bộ mới có.



×