Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

KHI CƠ THỂ VÀ TÂM TRÍ CÙNG NHAU CHỮA LÀNH TỔN THƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.18 KB, 18 trang )

KHI CƠ THỂ VÀ TÂM TRÍ CÙNG NHAU
CHỮA LÀNH TỔN THƯƠNG
rubi | September 11, 2016 | Trị Liệu, Tự Lực (Self-help) | No Comments

“Khi cảm giác bị bóp nghẹt, cuộc sống không còn trọn vẹn nữa… Nếu bạn có thể thoải mái
liên kết với cảm giác bên trong… bạn sẽ có thể điều khiển được cơ thể, cảm xúc và bản thân
mình.”
Tác giả: MARIA POPOVA
“Hồn lìa khỏi xác thì các xác sẽ trở nên vô dụng,” William James đã khẳng định như thế trong thuyết
tiến hoá 1884 của mình về cách cơ thể ảnh hưởng đến cảm xúc. Sau hai thế hệ, trong lá thư tình
gửi đến một quý cô, Rilke* viết: “Anh không phải kiểu người bỏ bê, hi sinh cơ thể của mình để làm
thoả mãn tinh thần, bởi tinh thần anh ắt hẳn phải khó chịu lắm với lối sống đó.” Từ đó, chúng ta từng
bước làm rõ và tận dụng mối tương quan giữa xác thịt và hệ thống cảm xúc nội tại – hay còn gọi là
“tâm hồn”.
(*Rainer Maria Rilke: nhà thơ người Áo – một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ 20)


Không còn gì cần thiết hơn và cũng đáng gờm hơn là chữa lành tổn thương. Và không ai có thể sở
hữu phương pháp đầy tính xây dựng, đầy cảm thông hơn Bessel van der Kolk – nhà nghiên cứu
PTSD và bác sĩ tâm thần người Hà Lan gốc Boston. Trong The Body Keeps the Score: Brain, Mind,
and Body in the Healing of Trauma, ông đã khám phá ra được “trên con đường nối giữa cơ thể và
tâm hồn, có một hố đen vô tận chứa đầy tổn thương khiến quá nhiều người lún sâu vào mà quên đi
thực tại” và tự vạch ra con đường riêng để cứu vớt họ, nghiên cứu trong ba mảng chính sau đây:
thần kinh học (xem về quá trình vận hành, chức năng các phần trong não bộ; tâm lý học phát triển
(quan tâm đến ảnh hưởng của sang chấn lên sự phát triển của tinh thần và não bộ); sinh học thần
kinh giữa người với người (nói về cách hành vi của chúng ta ảnh hưởng đến trạng thái tâm sinh lí
của những người thân bên cạnh).


Art
by Simona Ciraolo from Hug Me


Sang chấn, theo như Van de Kolk, ảnh hưởng không chỉ những người chịu đựng nó mà còn với
những người xung quanh họ và đặc biệt là những người yêu thương họ. Ông viết:

Bạn không cần phải là chiến sĩ hoặc đi tập huấn ở Syria hay Congo mới phải
đối đầu với sang chấn. Sang chấn xảy đến với chúng ta, bạn bè, gia đình và cả
hàng xóm. Nghiên cứu từ Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh đã
cho thấy 1/5 người Mỹ bị xâm hại khi còn nhỏ; 1/4 bị cha mẹ bạo hành đến nỗi
để lại vết tích trên người; và 1/3 các cặp đôi dính vào bạo hành thể xác, 1/4
lớn lên với những người họ hàng nghiện rượu, 1/8 chứng kiến cảnh mẹ mình
bị đánh đập.
[…]
Cần phải mạnh mẽ nhiều lắm mới có thể sống tiếp và mang trong mình những
ký ức đau thương, nỗi nhục vì nhu nhược và yếu hèn.
Theo Van der Kolk, ở những người sống cùng với sang chấn, một phần não đã tiến hoá để phát
hiện nguy hiểm và phóng đại nó lên, dù chỉ là một dấu hiệu nhỏ, dù là thật hay hiểu lầm, có thể khơi
dậy sự phản hồi stress kịch liệt cùng với những cảm xúc khó chịu cực điểm và cảm giác choáng
ngợp. Những phản ứng hậu sang chấn như vậy khiến họ khó có thể kết nối với người khác, vì chính


sự gần gũi thường xuyên khơi gợi cảm giác bị đe doạ. Tuy nhiên, điều chúng ta kinh sợ nhất sau khi
trải qua tổn thương – liên hệ với người khác – lại là điều mà chúng ta cần nhất để cân bằng lại cảm
xúc và bắt đầu chữa lành. Van der Kolk viết:

Có thể cảm thấy an toàn khi ở bên người khác là khía cạnh quan trọng nhất
trong sức khoẻ tinh thần; mối quan hệ an toàn là điều cơ bản cần thiết đối với
một cuộc sống có ý nghĩa và thoả mãn.
Từ đây, ông chỉ ra tại sao chúng ta lại tiến hoá thành một máy dò nguy hiểm – chúng ta giật nẩy lên
dù có là những cái động khẽ nhất, dù cho chúng ta không biết cách đọc vị con người mà vẫn có thể
nhìn ra được sự thân thiện hay địch ý của một người dựa trên những manh mối nhỏ nhặt như độ
căng của chân mày, độ cong môi và các góc của cơ thể. Nhưng một trong những ảnh hưởng nguy

hiểm nhất của sang chấn chính là nó làm hỏng khả năng đọc vị người khác, khiến cho khả năng
nhận biết nguy hiểm của họ giảm đi hoặc khiến họ nghĩ rằng có nguy hiểm đáng gờm trong khi thực
ra không phải vậy.



Duck, Death and the Tulip của Wolf Erlbruch
Ngược đời là điều có thể chỉnh sửa khả năng này lại là mối liên kết giữa người với người. Van der
Kolk viết:

Ủng hộ từ xã hội không thể so sánh được với sự tồn tại của những người gần
gũi xung quanh. Vấn đề cốt lõi chính là sự tương tác: được lắng nghe một
cách chân thành và được thông cảm bởi những người xung quanh, cảm giác
được che chở bởi tâm hồn và trái tim của họ. Để sinh lí có thể bình tĩnh, chữa
lành và phát triển, chúng ta cần cảm giác an toàn từ bên trong. Không bác sĩ
nào có thể kê đơn cho tình bạn và tình yêu: đó là thứ phức tạp và khó mà tìm
được. Tiền sử sang chấn khiến bạn cảm thấy e dè, ngượng ngập và thậm chí
hoảng loạn khi dự tiệc cùng với người lạ, có thể khiến cả thế giới trở thành một
tổ hợp người ngoài hành tinh trong mắt bạn.
Muốn bắt đầu giải quyết sang chấn cần tuân theo hình mẫu bệnh được lập ra từ tâm lý học và tâm
thần học thế kỷ 20. (Hình mẫu đó có nhiều biến thể, ảnh hưởng đến mọi thứ, từ phủ nhận về quan
hệ phát sinh giữa stress và bệnh thể chất, đến cách chúng ta cảm nhận về thất bại trong tình yêu.)
Sang chấn và hệ quả tâm lí của nó, theo như Van der Kolk, không phải một bệnh tâm thần mà là
một sự thích nghi. Ông viết:

Hình mẫu bệnh tâm thần xây dựng trên 4 nền tảng: (1) khả năng tàn phá một
người khác tương đương với khả năng chữa lành họ. Khôi phục các mối quan
hệ và cộng đồng là điểm cốt yếu; (2) ngôn ngữ cho chúng ta sức mạnh thay
đổi bản thân và người khác; bằng cách chia sẻ kinh nghiệm của chính bản
thân, giúp chúng ta định nghĩa rõ ràng những gì mình biết, và hiểu được khái

niệm ý nghĩa của mọi chuyện; (3) chúng ta có khả năng điều chỉnh trạng thái
sinh lý của mình, bao gồm những chức năng không tuỳ ý của cơ thể và bộ
não, qua những hoạt động cơ bản như thở, di chuyển và chạm; (4) chúng ta có
thể thay đổi điều kiện xã hội để tạo môi trường mà cả trẻ em lẫn người lớn có
thể cảm thấy an toàn và phát triển được.
Khi chúng ta làm ngơ những khía cạnh tinh tuý của nhân loại, tự chúng ta đã
cướp đi hướng chữa lành sang chấn và khôi phục sự tự chủ của họ. Là một
bệnh nhân, hay một người tham gia vào quá trình chữa lành, tách biệt họ
khỏi cộng đồng, khiến họ thờ ơ với chính bản thân mình.


Minh hoạ của
Salvador Dali cho bài viết về Montaigne


Khía cạnh cần thiết nhất của chữa trị, Van der Kolk nhấn mạnh, là học cách hoà nhập với tinh
thần của mình – không chỉ về mặt cảm xúc, tâm lý mà còn cả về thể chất – cả ba mặt này đều
không thể tách rời. Ông giải thích:

Trạng thái tự nhiên của động vật có vú là cảnh giác. Tuy nhiên, để có thể mở
lòng với người khác, hệ thống phòng vệ của chúng ta phải tắt tạm thời. Để có
thể chơi đùa, kết bạn, nuôi dưỡng tuổi trẻ; bộ não cần phải tắt hệ thống phòng
bị tự nhiên của mình.
Nhiều cá nhân từ trải qua sang chấn trở nên quá mức thận trọng khi tận
hưởng một niềm vui nhỏ nhoi mà cuộc đời đem lại, trong khi những người
khác thì lại lóng ngóng khi tiếp thu những kinh nghiệm mới – hoặc cảnh giác
với những dấu hiệu nguy hiểm.
[…]
Nhiều người cảm thấy an toàn miễn là họ có thể giới hạn những mối quan hệ
của mình ở mức độ xã giao, quan hệ trở nên sâu sắc có thể dẫn đến phản ứng

dữ dội. Tuy nhiên… để chấp nhận được những hành động gần gũi – như một
vòng tay ấm áp, ngủ cùng người yêu, hoặc tình dục – cần phải cho phép bản
thân của mình cảm nhận sự ổn định và an toàn. Đặc biệt khó khăn với những
người trải qua sang chấn nếu muốn họ tự nhận thức khi nào mình an toàn và
khi nào nên kích hoạt hệ thống phòng vệ khi gặp nguy hiểm. Điều này đòi hỏi
phải có kinh nghiệm để chữa lành khả năng cảm nhận an toàn.
Điểm sai lầm của nền văn hoá này, theo như Van der Kolk, là ở chỗ đánh đồng điều trên với một trải
nghiệm tâm lí thông thường – một thất bại xuất phát từ phương pháp trị liệu lâm sàng cho đến cả hệ
thống giáo dục. (Hơn một thế kỉ trước, Aldous Huxley đã giành ra những lời văn thật đẹp về nhu cầu
hoà hợp giữa tâm hồn và thể xác trong hệ thống giáo dục.) Tuy nhiên, giáo dục lại có khuynh hướng
chú trọng vào những khả năng nhận thức của trí óc hơn là hệ thống cảm xúc của cơ thể, vô tình tạo
ra một bản mẫu trải nghiệm con người không hoàn chỉnh. Một đoạn văn xuất sắc của ông trở thành
châm ngôn trường tồn ở mọi khoa giáo dục:

“Mặc cho những hiệu ứng được dẫn chứng rõ ràng về tức giận, sợ hãi và lo âu,
nhiều chương trình vẫn tiếp tục làm ngơ nhu cầu an toàn của bộ não trước khi
tiến hành thúc đẩy những hướng suy nghĩ mới. Không nên loại bỏ những môn
học như hợp xướng, thể dục, và giờ giảo lao và bất cứ những thứ gì liên quan
đến vận động, chơi đùa và mang lại niềm vui. Khi trẻ em bước vào giai đoạn
chống đối, cảm thấy ngột ngạt hoặc nổi điên, những “hành vi hư hỏng” như


vậy có thể là hành động được lập trình sẵn để sinh tồn, dù là chúng cực kì khó
chịu hoặc làm người khác phiền lòng. “

Illu
stration by Peter Brown from My Teacher Is a Monster
Là một người khích lệ những hoạt động hoà nhập như chương trình dạy karate cho nạn nhân bị
cưỡng hiếp và chương trình kịch tại các trường học trong thành phố Boston, ông nhận thấy được lí
do và sự quan trọng của thể chất trong việc chữa lành:

Cơ thể nắm giữ chìa khoá: Nếu kí ức về sang chấn được chuyển hoá vào nội tạng, vào cơn đau tim
và cảm giác buồn khổ, thành cách bệnh về miễn dịch, vấn đề cơ/xương, thì khả năng giao tiếp của
trí não/nội tạng là con đường hoàng kim giúp điều chỉnh tâm lí, điều này đòi hỏi chúng ta phải thay
đổi định kiến của mình.
Khi vẽ tranh cùng các bệnh nhân từng sống sót qua nhiều sự kiện đau thương -từ tai nạn máy bay
đến cưỡng hiếp, đến bị tra tấn – Van der Kolk rút ra một thử thách cực lớn của những người sống
cùng với sang chấn chính là:

“Khi cảm giác bị bóp nghẹt, cuộc sống không còn trọn vẹn nữa.
[…]
Để đáp trả lại sang chấn, và loại bỏ nỗi sợ hãi dai dẳng, những bệnh nhân này
học cách tắt nguồn các bộ phận não truyền cảm xúc và biểu hiện của nội tạng
(những điều luôn đồng hành và định nghĩa nỗi sợ). Tuy nhiên trong cuộc
sống hằng ngày, những vùng não đó chịu trách nhiệm cho toàn bộ cảm xúc,
giác quan hình thành nên ý thức về bản thân, những điều cho biết chúng ta là


ai. Những gì chúng ta chứng kiến là một quá trình thích nghi với bi kịch: khi
nỗ lực ngắt hết mọi cảm giác sợ hãi, họ vô tình làm mai một dần sức sống của
mình.

Từ
The Heart and the Bottle của Oliver Jeffers, một truyện ngụ ngôn minh hoạ tinh tế về những gì xảy
ra khi chúng ta chối bỏ những cảm xúc khó khăn.
Trong khi sự bất hợp tác từ cơ thể là một dấu hiệu cho thấy phản ứng thích nghi sau sang chấn,
chuỗi ngày tháng phiền toái lại bắt đầu khi những kí ức kinh hoàng trỗi dậy khi gặp các kích thích có
vẻ gần giống, tương tự với sang chấn.


“Hệ thống cơ bản của thân não và hệ thống viền não được kích hoạt tối đa khi

con người đối mặt với đe doạ diệt vong, từ đó dẫn đến cảm giác sợ hãi và
khiếp đảm đi cùng với các phản ứng sinh lí dữ dội. Với những người đang hồi
tưởng lại một tổn thương, sẽ không còn gì có nghĩa nữa, họ bị mắc kẹt trong
ranh giới mỏng manh giữa sống và chết, một trạng thái sợ đến mức tê liệt
hoặc nổi điên một cách mù quán. Tâm trí và cơ thể luôn luôn căng thẳng như
thể đang ở trong tình huống nguy hiểm cận kề. Chúng giật mình phản ứng với
cả những tiếng động nhẹ nhất và nản lòng với những chọc tức nhỏ nhất. Giấc
ngủ thường xuyên bị quấy nhiễu, và thức ăn thì chẳng còn mùi vị gì ngon. Sự
thay đổi này dẫn đến những nỗ lực vô vọng, tìm cách kìm nén những cảm xúc
đó xuống bằng cách tự đóng băng hoặc tách biệt khỏi xã hội.”
Ở một đoạn nói đến nhà triết học tinh thần Martha Nussbaum cùng chuỗi bài viết xuất sắc của bà về
sắc thái quan hệ giữa cơ quan trong cơ thể và nạn nhân, Van der Kolk nói thêm:

Cơ quan bắt đầu với cái mà các nhà khoa học gọi là “nhận cảm trong”, tức
nhận thức của chúng ta về cảm giác: nhận thức càng cao, tiềm năng kiểm
soát cuộc đời của chúng ta càng lớn. Biết được mình nghĩ gì là bước đầu tiên
để biết lí do tại sao chúng ta cảm giác như thế. Nếu chúng ta nhận thức được
thay đổi đột ngột nào đó bên trong bản thân mình và cả từ môi trường bên
ngoài, chúng ta có thể linh động giải quyết chúng.
Nhưng một trong những hiệu ứng nguy hiểm nhất của sang chấn, theo Van der Kolk, là nó phá vỡ
khả năng biết mình cảm thấy như thế nào – khả năng tin vào sự gan dạ của mình và sự ngờ vực
này khiến chúng ta tưởng rằng nguy hiểm luôn hiện hữu dù không phải vậy. Những điều này lần
lượt tạo nên một mối quan hệ trái khuấy, cẩu huyết với cơ thể. Ông giải thích:

“Nếu bạn có thể thoải mái liên kết với cảm giác bên trong – nếu bạn tin tưởng
nó sẽ thành thật với mình – bạn sẽ có thể điều khiển được cơ thể, cảm xúc và
bản thân.
Tuy nhiên, những người trải qua sang chấn luôn cảm thấy không an toàn
trong người: quá khứ vẫn còn sống trong hình dạng của một con thú gặm
nhấm khó ưa. Cơ thể của họ thường xuyên bị tổn hại bởi những dấu hiệu cảnh

báo từ nội tạng, và khi cố gắng kìm nén, họ thường sẽ ngày càng lờ đi những
cảm xúc này và ngày càng bị ngộp thở bởi những gì xảy ra xung quanh. Cuối
cùng họ học cách che giấu bản thân mình.
Càng cố gắng đẩy những dấu hiệu đó ra xa và ngó lơ chúng, chúng càng lấn
lướt, quậy phá, cực kì rắc rối. Những người không thể nhận định những gì


đang xảy ra bên trong mình thường trở nên mềm yếu trước mọi thay đổi
ngoại cảnh, dễ gục ngã hoặc hoảng loạn – tự bản thân họ sợ nỗi sợ mà họ tạo
ra.
[…]
Trải nghiệm sợ hãi xuất phát từ những phản ứng sơ khai, bản năng trước mối
đe doạ không lối thoát. Cuộc sống của con người sẽ trở thành con tin của nỗi
sợ hãi cho đến khi những cảm xúc bồn chồn trong cơ thể thay đổi… Tự thay
đổi hay không còn phụ thuộc vào quan hệ giữa bạn và cơ thể. Nếu không có,
bạn phải dựa vào ngoại cảnh – từ y khoa, chất kích thích như cồn,…”
Nhất là khi sự thiếu điều chỉnh bên trong này dẫn đến việc tái trải nghiệm lại sang chấn:

“Bởi những người đó thường có vấn đề trong việc cảm nhận những gì đang
xảy ra trong cơ thể của mình, họ thiếu đi khả năng phản ứng với sự kiệt sức.
Họ không phản ứng với stress bằng cách trở nên mất ý thức hoặc tức giận thái
quá. Dù họ phản ứng như thế nào, họ thường không biết được điều gì khiến
mình khó chịu. Thất bại trong việc kết nối với cơ thể góp phần tới sự thiết sót
trong việc tự bảo vệ bản thân và gia tăng tỉ lệ trở thành nạn nhân lần nữa và
khiến việc cảm thấy yêu đời, vui thú lại càng khó khăn hơn.
[…]
Một vấn đề khác nữa chính là sự mất nhân cách – đánh mất chính bản thân
mình.”
Nếu vậy, làm gì mới có thể giành lại quyền kiểm soát cơ thể chính mình? Qua nhiều thập kỷ làm
việc với các nạn nhân sau sang chấn, Van der Kolk cho rằng nó bắt đầu với việc làm bạn với cơ thể

và mạch cảm xúc bên trong:

“Những nạn nhân này không thể hồi phục cho đến khi họ trở nên thân thiết
với những cảm xúc ấy. Hoảng loạn có nghĩ là bạn đang sống trong một cơ thể
luôn ở trạng thái phòng bị. Con người giận dữ sống trong một cơ thể giận dữ.
Cơ thể của một đứa trẻ từng bị lạm dụng luôn căng thẳng và phòng bị cho đến
khi chúng cảm thấy thư giãn và an toàn. Để thay đổi, con người cần nhận
thức được cảm giác của mình và cách cơ thể tương tác với thế giới xung
quanh. Tự nhận thức được bản thân là bước đầu tiên giải phóng mọi bạo
ngược từ quá khứ.”
Từ Song đề về Con nhím của Schopenhauer*, Van der Kolk viết rằng:


Cách tự nhiên nhất để con người giữ bình tĩnh khi buồn phiền là dựa dẫm vào người khác. Điều này
có nghĩa là bệnh nhân từng bị bạo hành thể xác hoặc tình dục phải đối mặt với tình trạng tiến thoái
lưỡng nan: họ thèm muốn cảm giác được động chạm đến chết đi được nhưng đồng thời sợ hãi khi
những điều đó diễn ra. Tâm trí cần được đào tạo lại để cảm nhận xúc cảm, cơ thể cần được giúp
đỡ để khoan dung hơn và tận hưởng được sự thoải mái từ xúc giác. Những người thiếu ý thức cảm
xúc, nếu luyện tập, có thể tái kết nối xúc cảm vật lí với những sự kiện tâm lý. Bằng cách đó, họ có
thể dần dần kết nối với chính mình.”
(*Hedghod’s dilemma hay còn gọi là Porcupine dilemma là một phép ẩn dụ nói về sự thân mật giữa
người với người: khi thời tiết trở lạnh, lũ nhím cần đến gần cạnh nhau để có thể cùng nhau sưởi ấm
(hiện tượng tương tự xảy ra ở loài chim cánh cụt) và chúng cần điều đó để sống sót trước thiên
nhiên. Nhưng những gai nhọn trên người lũ nhím khiến chúng không khỏi làm đồng loại mình tổn
thương. Dù muốn dù không, thương tổn vẫn xảy ra, đẩy chúng vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.)
Cách chúng ta phản ứng với sang chấn phản ánh quan hệ với những người chăm sóc mình –
những người có nhiệm vụ giúp chúng ta thiết lập nền tảng an toàn. Điển hình là khái niệm hoà hợp
giữa phụ huynh và con trẻ, với trung gian là cơ thể – những phản ứng tinh tế nhất của người lớn và
đúng với nhu cầu của đứa trẻ, khiến chúng cảm thấy được thấu hiểu.



Từ
The Menino của Isol
Hoà hợp là nền tảng cho cảm giác an toàn, là giàn giáo của sức khoẻ tinh thần sau này. Van der
Kolk viết:


“Sự gắn bó an toàn cùng với việc trau dồi năng lực xây dựng nên một quỹ đạo
kiểm soát, nhân tố chính trong việc sống khoẻ mạnh. Một đứa trẻ được sống
trong an toàn sẽ học được cách làm mình cảm thấy ổn hơn, chúng có thể tìm
được những gì làm chúng hoặc người khác buồn, và chúng học được cách
kiểm soát: biết rằng hành động của mình có thể thay đổi cách chúng cảm
nhận và cách người khác phản ứng. Chúng học được sự khác nhau giữa những
tình huống chúng có thể tự xoay xở và những khi chúng cần giúp đỡ. Chúng
biết rằng mình có thể chủ động khi đối mặt với khó khăn. Ngược lại, trẻ em có
tiền sử bị lạm dụng hoặc bỏ rơi lại nghĩ rằng nỗi sợ hãi, cầu xin hay khóc lóc
cũng không có ích gì. Chúng không thể làm gì để ngừng bị đánh hoặc lôi kéo
sự chú ý, giúp đỡ. Thế là chúng tự động bỏ cuộc mỗi khi gặp phải thử thách.”
Ảnh hưởng bởi nghiên cứu của nhà phân tâm học Donald Winnicott, người tiên phong trong nghiên
cứu về gắn kết và khái niệm gắn kết giữa mẹ và con đặt tiền đề cho xúc cảm của chúng sau này,
Van der Kolk tóm tắt như sau:

“Nếu người mẹ không xoay sở được sự bốc đồng và nhu cầu của con mình,
“đứa trẻ học cách trở thành đứa con lí tưởng của mẹ.” Giảm bớt những cảm
giác bên trong, cố gắng điều chỉnh để đạt được yêu cầu của mẹ, tức là đứa trẻ
này tự dối mình rằng “chắc là do bản thân mình sai”. Trẻ em thiếu hoà hợp
thường có nhượng điểm là ngắt mọi phản hồi trực tiếp từ cơ thể, về niềm vui,
mục đích và định hướng.
[…]
Nhu cầu gần gũi không bao giờ giảm sút. Đa phần nhiều người không thể chịu

được cảnh tách biệt với những người khác. Khi họ không thể kết nối qua công
việc, tình bạn hay gia đình thì họ thường tìm cách khác như thông qua bệnh
tật, kiện cáo hoặc xích mích gia đình. Bất cứ thứ gì có thể xoá tan cảm giác bị
tách biệt và cô lập.”*
(*Ở đoạn này, mình nhớ ngay đến nhận vật Chí Phèo của Nam Cao, hành vi chửi mắng, rạch mặt
ăn vạ của hắn, cuối cùng cũng chỉ muốn được ai đó quan tâm mà thôi.)
Dù chúng ta không thể ngăn những trải nghiệm đau buồn xảy ra, có được một nền tảng tình cảm
vững chắc vẫn giúp việc chữa lành trở nên dễ dàng hơn. Nhưng những người không gắn kết được
với xã hội thì phải làm thế nào? Sau khi làm việc với các nạn nhân, Van der Kolk đưa ra một
phương án:


“Không ai có thể giải quyết được chiến tranh, lạm dụng, cưỡng hiếp, gạ gẫm
hoặc bất kì chuyện khủng khiếp nào; dù sao đi nữa, những gì đã xảy ra mãi
mãi không thể vãn hồi. Những gì chúng ta có thể giải quyết chỉ là vết tích của
sang chấn lên cơ thể, tâm trí và linh hồn: cảm giác vỡ vụn trong lồng ngực
mà bạn gọi là lo lắng hoặc buồn rầu; nỗi sợ hãi mất kiểm soát; luôn ở trong
trạng thái phòng bị hoặc cự tuyệt; miễn cưỡng; ác mộng, hồi ức tràn về; màn
sương ngăn cách chúng ta khỏi mục đích của mình hay không thể hoàn toàn
mở lòng với người khác.”
Điểu chính yếu ở đây là để giải quyết chúng cần tới “sự tự lãnh đạo” – cảm giác quản lí, kiểm soát
mọi trải nghiệm của mình. Con đường để phục hồi là chủ động tái xây dựng lại cảm giác đó. Ông
viết:

“Thách thức trong việc phục hồi là tái thiết lập chủ quyền với cơ thể và tinh
thần của bản thân. Điều này có nghĩa là hãy thoải mái chấp nhận những gì
mình biết, và cảm nhận những gì mình cảm nhận được, không phải xấu hổ,
sụp đổ, bị choáng ngợp hay nổi giận. Đối với nhiều người, biện pháp là (1) tìm
cách trở nên điềm tĩnh và tập trung, (2) học cách duy trì sự bình tĩnh đó khi
phản ứng với những hình ảnh, suy nghĩ, âm thanh hoặc xúc cảm vật lí gợi nhớ

bạn về quá khứ, (3) tìm cách sống trọn vẹn ở hiện tại và tiếp xúc với những
người xung quanh, (4) không giữ bí mật cho riêng mình, bao gồm những bí
mật về cách bạn xoay sở sống sót.”


Từ
Tell Me What to Dream About của Giselle Potter
Một trong những yêu cầu khá ngược đời của quá trình hồi phục là nhớ lại sang chấn mà không bị
choáng ngợp bởi những cảm giác xưa cũ. Để đạt được điều này, Van der Kolk cho rằng cần phải
học cách chấp nhận những cảm xúc choáng ngợp và phản ứng của cơ thể trước chúng. Ông viết:

“Nạn nhân sống cùng những cảm xúc không thể chịu nổi như thế này thường
cảm thấy đau lòng và chịu đựng cảm giác khó chịu nơi dạ dày hoặc cảm giác
lồng ngực bị siết chặt. Nhưng tránh né chúng lại càng tăng thêm sự dễ tổn
thương, lại càng khiến bạn sợ chúng hơn.
[…]
Nạn nhân thường sợ hãi việc cảm nhận. Phản ứng vật lí trong người họ mới
chính là kẻ thù lớn nhất chứ không phải kẻ từng khiến họ đau khổ. Cảm giác bị
tàn phá bởi những cảm giác khó chịu khiến cho cơ thể tự đóng băng, tự ngắt
đi tâm trí. Dù cho sang chấn là một thứ ở quá khứ, cảm xúc mà não giữ lại
vẫn tiếp tục khiếp những người này sợ hãi và bơ vơ. Không ngạc nhiên gì khi
nhiều người trải qua sang chấn lại trở nên cuồng ăn uống, sợ làm tình và
tránh né nhiều hoạt động xã hội: Thế giới cảm xúc của họ hoàn toàn bị cách li.
Một nghịch lí khác nữa khi chữa trị chính là dù liên lạc hay tiếp xúc thường khá đáng sợ, sự ủng hộ
từ xã hội và cộng đồng là nền tảng để tạo nên một mối quan hệ lành mạnh giữa cảm xúc và cảm
giác cơ thể. Nửa thế kỉ sau câu nói đáng nhớ của Dorothy Day – một nhà báo, nhà hoạt động xã hội


người Mỹ: “ai cũng đã kinh qua những ngày tháng cô độc và từ đó chúng ta mới biết được giải pháp
duy nhất chỉ có thể là tình yêu và chỉ có tình yêu đó mới mang đến một cộng đồng đúng nghĩa,” Van

der Kolk viết:

“Tất cả chúng ta, đặc biệt là trẻ con, cần tự tin rằng những người khác sẽ
hiểu,chấp nhận và yêu thương mình. Không có nó, chúng ta không thể phát
triển một hệ thống cảm giác cho phép mình nhận thức mọi việc: “Đây là điều
tôi tin tưởng; đây là điều tôi đấu tranh; đây là điều tôi sẽ cống hiến bản thân
mình.” Miễn là chúng ta cảm nhận được sự an toàn trong tim và tâm trí
những người yêu mình, chúng ta sẽ có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách,
trèo đèo, vượt suối hay cùng thức cả đêm để làm cho xong dự án. Trẻ em và
người lớn sẽ làm mọi thứ vì người họ tin tưởng và trân trọng. Nhưng nếu
chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi, vô giá trị, tàng hình, mọi thứ sẽ trở nên vô nghĩa.
Nỗi sợ tàn phá sự tò mò và thích thú. Để có có một xã hội lành mạnh, chúng ta
phải nuôi dạy con trẻ, để chúng có thể học tập và vui chơi trong cảm giác an
toàn, không phải lo nghĩ. Dù có thất bại bao nhiêu, không có tò mò thì không
có phát triển, không khám phá được mình là ai, ai quan trọng với mình thì
mãi mãi sẽ không thể thích nghi.”



×