Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ tổ CHỨC TIẾP NHẬN xử lý TIN báo, tố GIÁC tội PHẠM có yếu tố nước NGOÀI của lực LƯỢNG CẢNH sát NHÂN dân CÔNG AN TỈNH QUẢNG NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.24 KB, 97 trang )

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại,
hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác trên quan điểm Việt Nam muốn làm bạn
với tất cả các nước trên thế giới do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo
trong những năm qua đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh
vực chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội... đời sống nhân dân đã được cải
thiện và nâng cao, quan hệ hợp tác giao lưu giữa nước ta với các nước trên thế
giới có sự thay đổi căn bản, tạo được sự đồng thuận, ủng hộ cao của nhiều
nước. Góp phần thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình hội nhập theo xu thế tồn cầu hóa, mở rộng quan hệ hợp
tác... người nước ngoài vào Việt Nam liên doanh, liên kết, đầu tư, buôn bán,
du lịch, thăm thân... ngày một tăng, trong số đó hầu hết người nước ngồi
nhập cảnh vào Việt Nam đều đúng mục đích nhập cảnh, song cũng có một số
ít người đã lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý cửa khẩu, thực
hiện luật đầu tư nước ngồi, trong quản lý kinh tế, cơ chế chính sách pháp luật
của nước ta chưa hoàn chỉnh... để hoạt động phạm tội hoặc câu kết với bọn tội
phạm trong nước để hoạt động phạm tội như: buôn lậu vàng và ngoại tệ; buôn
bán trái phép chất ma túy; tội phạm rửa tiền, buôn bán phụ nữ, trẻ em; tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đầu tư, trộm cắp, cướp của, giết
người..., đặc biệt chúng lợi dụng người nước ngồi vào Việt Nam khơng
thơng thạo địa bàn, đường đi, lối lại, bất đồng ngôn ngữ, thời gian nhập cảnh
vào Việt Nam khơng nhiều, khơng có người quen biết, thân thích, nơi ở khơng
ổn định để thực hiện hành vi phạm tội. Cũng có nhiều trường hợp người nước
ngồi thường lợi dụng tâm lý người Việt Nam khi tiếp xúc với người nước



4

ngồi thường có biểu hiện tự ti, cho rằng người nước ngồi có hiểu biết, giàu
sang... nên dễ ngộ nhận, mất cảnh giác để thực hiện hành vi phạm tội.
Công tác đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung và tội phạm có
yếu tố nước ngồi ở Việt Nam nói riêng là nhiệm vụ của các cấp ủy đảng,
chính quyền, các ngành, đồn thể và tồn dân, trong đó lực lượng Cơng an
nhân dân giữ vai trị nịng cốt, xung kích. Song, thực tiễn cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm có yếu tố nước ngồi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong những năm qua đã bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại. Nguyên nhân phần
nhiều là do hoạt động tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về hành vi phạm tội và
con người phạm tội có yếu tố nước ngồi thường khơng được kịp thời, thơng
tin khơng đầy đủ, phản ánh qua nhiều khâu trung gian, nên khi tiếp nhận tin
báo, tố giác về hành vi phạm tội có yếu tố nước ngồi Cơ quan Cảnh sát điều
tra gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động điều tra, xác minh làm rõ tính chân
thực của những tin báo, tố giác. Cơ quan điều tra thường đến hiện trường
chậm, khi đến tính ngun vẹn của hiện trường khơng cịn nhiều, nên công tác
khám nghiệm hiện trường nhất là công tác thu thập những dấu vết, vật chứng,
tài liệu chứng minh tội phạm gặp khơng ít khó khăn. Có vụ, việc xảy ra khi
nhận được tin báo, tố giác, Cơ quan điều tra đến nơi thì người nước ngồi đã
vội bỏ đi, nên cơng tác nắm tình hình phục vụ truy nóng đối tượng khơng kịp
thời, kém hiệu quả, một vấn đề mà thực tế công tác điều tra tội phạm có yếu
tố nước ngồi thường gặp đó là cơng tác lấy lời khai của người nước ngoài
với tư cách là người bị hại, bị can, người liên quan phụ thuộc nhiều vào phiên
dịch vì Điều tra viên thường khơng biết ngơn ngữ, phong tục, tập qn của
người nước ngồi, trong khi đó hoạt động điều tra, xác minh khơng phải lúc
nào cũng có phiên dịch cùng đi. Mặt khác, nếu người nước ngoài là người bị
hại, người liên quan, do đặc điểm thường xuyên thay đổi chỗ ở, không có nơi
cư trú ổn định, nên gây nhiều khó khăn cho Cơ quan điều tra trong việc thu
thập chứng cứ từ những đối tượng này. Đó cũng chính là những vấn đề nan



5

giải mà thực tiễn công tác tổ chức tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm có
yếu tố nước ngoài đặt ra cần phải nghiên cứu làm rõ.
Tuy nhiên, luật pháp của nước ta những năm vừa qua đã có sự thay
đổi trong quy định, nếu như trước đây Bộ luật tố tụng hình sự có quy định tiếp
nhận xử lý tin báo tố giác của tội phạm là trách nhiệm của Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát, thì trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhiệm vụ này thuộc
về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sau khi nhận tin báo, tố giác tội phạm phải
chuyển cho Cơ quan điều tra xử lý, Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự có quy
định về thẩm quyền giải quyết tin báo tố giác tội phạm, thời hạn giải quyết,
nhưng điều luật này lại chưa quy định cụ thể về trình tự, cách thức tiến hành
giải quyết những tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi... đó cũng
chính là những bất cập của pháp luật đặt ra cho tác giả khi nghiên cứu cần
phải hoàn thiện quy định này.
Với những lý do nêu trên, đề tài: "Tổ chức tiếp nhận xử lý tin báo, tố
giác tội phạm có yếu tố nước ngồi của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công
an tỉnh Quảng Ninh" mà tác giả chọn làm luận văn thạc sĩ của mình là rất
cần thiết nhằm đáp ứng cả về phương diện lý luận và thực tiễn công tác tổ
chức tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi đặt ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề
tài luận văn
+ Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu,
phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác
tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác về tội phạm có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam,
đặc biệt tác giả đi sâu vào nghiên cứu công tác nghiệp vụ của ngành Cơng an,
vì lẽ cơng việc này pháp luật đã quy định lực lượng Công an nhân dân giải
quyết. Từ việc nghiên cứu đó, tác giả mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm



6

nâng cao hiệu quả của công tác để đáp ứng được những địi hỏi trong tình
hình mới.
+ Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Luận giải ở bình diện lý luận để hình thành khái niệm thế nào là
người nước ngồi, khái niệm tội phạm có yếu tố nước ngoài và khái niệm tin
báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi.
- Làm rõ cơ sở lý luận cũng như thực trạng của công tác tiếp nhận, xử
lý tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi của lực lượng Cảnh sát nhân
dân Cơng an tỉnh Quảng Ninh (từ năm 2000 đến 2004).
- Làm rõ những nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân chủ
quan dẫn đến thực trạng đó.
- Từ việc phân tích làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên tác giả mạnh
dạn đưa ra những giải pháp, kiến nghị cụ thể dưới hai góc độ: xây dựng luật
và áp dụng luật.
+ Đối tượng nghiên cứu: Công tác xử lý tin báo tố giác tội phạm có
yếu tố nước ngồi của lực lượng Cảnh sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, số liệu
thu thập từ năm 2000 đến năm 2004. tác giả nghiên cứu về thực trạng của
hoạt động này trên địa bàn một tỉnh thông qua hoạt động khảo sát thực tiễn
lấy số liệu để đối chiếu, so sánh số vụ việc phạm tội có yếu tố nước ngồi xảy
ra trên địa bàn tỉnh cũng như số lượng vụ việc được giải quyết.
+ Phạm vi nghiên cứu: Do thời hạn nghiên cứu có hạn, trong khuôn
khổ đề tài luận văn thạc sĩ này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về lĩnh vực:
tiếp nhận xử lý tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngoài của lực lượng
Cảnh sát nhân dân trên địa bàn một tỉnh. Từ đó đưa ra thành khái qt chung
cho tồn quốc.

3. Tình hình nghiên cứu


7

Vấn đề tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm nói chung, tội phạm
có yếu tố nước ngồi cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, mỗi
cơng trình nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau, mỗi lĩnh vực nghiên cứu
đó đều là những vấn đề nóng hổi có tính thời sự, như: đề tài khoa học cấp bộ
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1995 với tiêu đề: "Con nhện xám
INTERPOL"; "Tội phạm quốc tế - những bàn tay bạch tuộc", Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; đề tài: "Tội phạm có yếu tố nước ngồi",
Luận án tiến sĩ Luật học của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, 1998; "Tiếp nhận và
xử lý tin báo, tố giác tội phạm - thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu
quả của công an các quận, huyện, thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Luật
học của Nguyễn Duy Ngọc, 2003; "Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tiếp
nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm theo chức năng, thẩm quyền của Bộ đội
biên phịng các tỉnh biên giới phía Bắc", Luận án tiến sĩ Luật học của Chương
Vũ Bình, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2003; "Tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác
tội phạm tại nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thực trạng và giải pháp
nâng cao hiệu quả", Luận án tiến sĩ luật học của Sồng Pát Chay, Đại học
Cảnh sát nhân dân, 2000...
Qua các đề tài nghiên cứu trên cho thấy mặc dù lĩnh vực tổ chức tiếp
nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm đã có nhiều đề tài nghiên cứu đề cập, song các
đề tài trên chưa đề tài nào tập trung nghiên cứu về lĩnh vực: "Tiếp nhận xử lý
tin báo có yếu tố nước ngồi" đây cũng chính là điểm mới của đề tài luận văn.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê
nin về Nhà nước và pháp luật, dựa trên các quan điểm của Đảng về đấu tranh
phòng chống tội phạm, về tăng cường dân chủ trong đấu tranh phòng chống

tội phạm và cải cách tư pháp.


8

Để nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
khảo sát, so sánh, phân tích, quy nạp để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về tiếp nhận, xử lý tin báo,
tố giác tội phạm có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tổ chức tiếp nhận, xử lý tin báo tố
giác tội phạm có yếu tố nước ngoài của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an
tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi của
lực lượng Cảnh sát nhân dân Cơng an tỉnh Quảng Ninh.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIẾP NHẬN - XỬ LÝ
TIN BÁO - TỐ GIÁC TỘI PHẠM CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI

1.1. KHÁI NIỆM - ĐẶC ĐIỂM - PHÂN LOẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA TIN BÁO,
TỐ GIÁC TỘI PHẠM CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI


1.1.1. Khái niệm tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngoài
a. Khái niệm về người nước ngoài
Khi nước ta chuyển đổi cơ chế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, nền kinh tế mở đòi hỏi phải mở rộng làm ăn, hợp tác với
các nước trên thế giới và trong khu vực, kể từ đó các quan hệ có yếu tố nước
ngồi được thiết lập, như: quan hệ dân sự (kết hôn; tài sản; di sản;...) đến
những vấn đề mang tính hình sự: tội phạm có yếu tố nước ngồi ngày một
nhiều và có chiều hướng gia tăng, phức tạp, mặc dù vậy trong hai Bộ luật Bộ
luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta khơng có điều luật nào quy
định thế nào là người nước ngoài, tuy nhiên trong hai đạo luật này lại có rất
nhiều quy định đối với người nước ngồi có liên quan đến vấn đề hình sự và
dân sự như trên.
Theo quy định của luật quốc tế, người nước ngồi được hiểu đó là: người
khơng mang quốc tịch của quốc gia nơi mà mình sinh sống. Nếu theo quy định
này chúng ta thấy: một người có thể có một quốc tịch, cũng có thể có hai hay
nhiều quốc tịch, và cũng có thể một người khơng có quốc tịch của một quốc
gia nào, họ chỉ trở thành người nước ngồi khi họ hoặc khơng mang quốc tịch
của nước sở tại họ đang sinh sống hoặc họ là người khơng có quốc tịch. Pháp
luật của mỗi nước quy định về địa vị pháp lý của người nước ngoài phù hợp
với các nguyên tắc cơ bản và những quy phạm của luật quốc tế và những điều


10

ước quốc tế mà nước đó là thành viên, theo quy định của hiệp định tương trợ
tư pháp và pháp lý được ký kết giữa nước đó và các nước thành viên khác.
Hiện nay khái niệm về người nước ngoài trong khoa học pháp lý Việt
Nam cũng được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, việc hiểu theo những góc
độ khác nhau đó phụ thuộc vào những tiêu chí xem xét khác nhau về diện
người nước ngoài, nhưng vấn đề không phải chỉ là hiểu như thế nào là đúng

hay khơng đúng, mà việc này nó liên quan đến quyền và lợi ích của người
nước ngồi đang cư trú, sinh sống, làm ăn hoặc du lịch tại nước khác. Theo
quy định của luật quốc tế: người nước ngoài là người khơng có quốc tịch của
nước sở tại (bao gồm: người có quốc tịch nước ngồi và người khơng mang
quốc tịch), theo nghĩa hẹp: người nước ngồi là người có quốc tịch nước khác
và không là công dân của nước sở tại, nếu hiểu theo nghĩa hẹp này thì người
khơng có quốc tịch khơng phải là người nước ngồi, bởi lẽ vừa phải thỏa mãn
yếu tố mang quốc tịch nước khác, vừa phải thỏa mãn yếu tố không phải là
công dân của nước sở tại, đây là điều kiện cần và đủ về quy định người nước
ngoài. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp này về người nước ngồi thì sẽ có một số vấn
đề bất cập như sau: thứ nhất, nếu công dân của nước sở tại thơi quốc tịch
nước đó thì sẽ khơng phải là người nước ngồi; thứ hai, nếu người này khơng
phải là người nước ngồi thì họ là ai? khi muốn là cơng dân của nước sở tại
thì phải mang quốc tịch của nước sở tại; thứ ba, những người này sẽ bị đối xử
như thế nào khi họ vi phạm vào những vấn đề liên quan đến pháp luật của nước
sở tại đó.
Theo quy định của Luật quốc tịch Việt Nam và theo quan điểm giáo
trình "Luật quốc tế" của trường Đại học Luật Hà Nội, thì người có quốc tịch
nước ngồi được hiểu là người mang quốc tịch của nước khác, khơng phải là
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cũng theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam, thì người khơng
quốc tịch: là người khơng có quốc tịch Việt Nam và cũng khơng có quốc tịch


11

nước ngồi. Người khơng có quốc tịch có nhiều lý do khác nhau, như: mất
quốc tịch, mất quốc tịch có thể do người đó thơi quốc tịch; đương nhiên mất
quốc tịch; bị tước quốc tịch.
Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam: Là cơng dân nước ngồi và

người khơng quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam.
Như vậy, người nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt Nam, tác
giả cho rằng, quan điểm về người nước ngoài như vậy là chính xác, khái niệm
này phù hợp với xu hướng chung của các nước văn minh tiến bộ, cũng phù
hợp với nguyên tắc của luật quốc tế: "Không nên phân biệt đối xử vì lý do dân
tộc, chủng tộc, tơn giáo, giới tính, chính kiến, ngơn ngữ, trình độ văn hóa".
Khái niệm này cịn phù hợp với khái niệm về người nước ngồi được trình
bày trong Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam [43, tr. 462].
Việc một người là công dân của nước này hay nước khác phụ thuộc
vào quốc tịch của người đó mang và quốc tịch trở thành một chế định pháp lý
quan trọng để nhìn nhận tư cách pháp lý của một con người tại một quốc gia
là hoàn toàn hợp lý, chỉ có điều người ta căn cứ vào đâu để cho rằng một
người mang quốc tịch một nước nào lại là vấn đề cần đặt ra để nghiên cứu,
việc chứng minh quốc tịch của một người đang còn nhiều tranh cãi, xong hiện
nay vì nhiều lý do khác nhau người ta có thể coi hộ chiếu như là một trong
những loại giấy tờ quan trọng có giá trị chứng minh tình trạng quốc tịch của
người đó.
b. Khái niệm tội phạm có yếu tố nước ngồi
- Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, thì khái niệm về
tội phạm quy định như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến độc lập, chủ


12

quyền, thống nhất và toàn vện lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm đến
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa quốc phịng, an ninh,
trật tự, an tồn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm

phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do tài sản,
các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm đến
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa".
Nghiên cứu khái niệm tội phạm khơng chỉ có ý nghĩa trong việc áp
dụng Bộ luật hình sự và thực tiễn đấu tranh phịng, chống tội phạm, mà cịn
có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu, xây dựng pháp luật, trước hết là pháp
luật hình sự. Khi nói đến luật hình sự là nói đến tội phạm và hình phạt - đây là
hai nội dung cơ bản nhất trong luật hình sự nếu thiếu đi một trong hai nội
dung này thì Luật hình sự khơng cịn ý nghĩa.
Khái niệm về tội phạm là khái niệm chung, nó phản ánh bản chất, đặc
điểm của hành vi bị coi là tội phạm. Khái niệm về tội phạm được quy định tại
Điều 8 Bộ luật hình sự là một khái niệm có tính khoa học, thể hiện tập trung
nhất quan điểm của nhà nước ta về tội phạm. Như vậy ta có thể đưa ra một
khái niệm tổng quát như sau: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt".
Mỗi giai đoạn lịch sử cho ra những quan điểm, quan niệm khác nhau
về tội phạm, nhưng tựu chung lại đều phản ánh tội phạm là một hiện tượng xã
hội tiêu cực, đi ngược lại lợi ích chung của Nhà nước, của cộng đồng người
trong xã hội. Theo Điều 8 Bộ luật hình sự, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, tức là hành vi đó đã gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại cho các
quan hệ xã hội nhất định được quy định tại phần tội phạm cụ thể trong luật
hình sự Việt Nam. Tính nguy hiểm cho xã hội lại luôn được xem xét trong
trạng thái động của nó phụ thuộc vào sự biến động của tình hình kinh tế,
chính trị trong nước. Một hành vi có thể trong giai đoạn phát triển xã hội này
là nguy hiểm, nhưng ở trong giai đoạn phát triển xã hội khác lại khơng cịn


13

nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc đánh giá hành vi này hay hành vi khác có

nguy hiểm hay khơng nguy hiểm, có phải là tội phạm hay khơng phải là tội
phạm nó được thực hiện bởi hai q trình song song đó là: Tội phạm hóa và
phi tội phạm hóa bằng cách sửa đổi, bổ sung thường xuyên cho phù hợp với
những yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội của từng giai đoạn, điều này lại
mâu thuẫn với một yêu cầu đó là: khái niệm tội phạm phải được xây dựng làm
sao có tính chất tổng qt nhất và mang tính ổn định lâu dài, khơng thể
thường xuyên thay đổi được.
Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải là hành vi của con người,
những gì còn nằm trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bên ngồi bằng hành vi thì
khơng thể coi là tội phạm, do đó luật hình sự cịn được gọi là luật hành vi. Chỉ
qua hành vi của mình, con người mới có thể gây ra thiệt hại, gây ra sự nguy
hiểm cho xã hội và những gì cịn trong ý nghĩ, trong tư tưởng của con người
cũng chỉ có thể được xác định qua chính những biểu hiện bên ngồi mà trước
hết qua hành vi biểu hiện của họ.
- Khái niệm về tội phạm có yếu tố nước ngồi: Hiện nay giữa các nhà
khoa học- luật gia trong nước cũng như thế giới có nhiều quan điểm và cách
hiểu khác nhau về khái niệm tội phạm có yếu tố nước ngồi, chúng ta có thể
xem một số tư tưởng cũng như quan điểm của một số tác giả như: Karpetx
người Nga với tác phẩm: "Những tội phạm có tính chất quốc tế"; hay như
Panov với tác phẩm: "Luật hình sự quốc tế"... đều có những cách nói và cách
hiểu khác nhau, nhưng cùng chung một quan điểm liên quan đến yếu tố nước
ngồi là gì. Việc nghiên cứu các nguồn trên giúp tác giả mạnh dạn đưa ra một
khái niệm cho riêng mình thế nào là tội phạm có yếu tố nước ngồi.
Trước hết khái niệm về tội phạm có yếu tố nước ngoài phải thỏa mãn
đầy đủ những nội dung sau đây:


14

Thứ nhất: Nó phải thỏa mãn khái niệm thế nào là tội phạm được quy

định trong Luật hình sự Việt Nam, cũng như những quy định chung về luật
quốc tế. Nó xâm hại đến những khách thể khơng chỉ Luật hình sự Việt Nam
quy định mà Luật quốc tế cũng quy định và bảo vệ.
Thứ hai: Nó phải thỏa mãn yếu tố nước ngoài như phần trên tác giả đã
phân tích thế nào là người nước ngồi.
Như vậy có thể đưa ra một định nghĩa về tội phạm có yếu tố nước
ngồi như sau: Tội phạm có yếu tố nước ngoài là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia
và liên quan đến người nước ngồi.
c. Khái niệm về tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngoài
Như chúng ta cũng biết, tin báo tố giác tội phạm luôn được coi là
nguồn cung cấp thơng tin để xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm,
nhưng việc xác định điều này phụ thuộc vào cơ quan điều tra tổ chức tiến
hành thu thập và điều tra xác minh làm rõ nguồn gốc cũng như tính xác thực
của các tin báo tố giác trên. Vậy tin báo và tố giác tội phạm là gì và được
cung cấp bởi những nguồn nào?
Tin báo tố giác tội phạm được hiểu là thông tin, thông báo, báo cáo
của các cơ quan, tổ chức với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án về
những hành vi, vụ việc đã xảy ra mà các cơ quan, tổ chức báo tin đó cho là có
dấu hiệu của tội phạm.
Tố giác về tội phạm được hiểu là việc tố cáo của cơng dân về những
hành vi nào đó mà họ cho rằng đó là tội phạm.
Theo quy định của luật tố tụng hình sự, tin báo, tố giác tội phạm được
cung cấp bởi những nguồn sau:


15

Thứ nhất: Tố giác của công dân, thông qua nhiều hình thức cơng dân
có thể cung cấp nhiều tin báo, tố giác tội phạm đến các cơ quan chức năng có

thẩm quyền, như: trực tiếp đến cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc các cơ
quan chức năng khác tố giác, cũng có thể thơng qua hịm thư tố giác của công
dân được đặt tại một số nơi nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
lịch sử trong triết học Mác - Lênin, cũng như theo quan điểm của Hồ Chí
Minh thì cách mạng muốn thành cơng phải luôn lấy dân làm gốc, "dễ trăm lần
không dân cũng chịu khó vạn lần dân liệu cũng xong", dân ta có trăm tay
nghìn mắt, nếu biết dựa vào dân, đặc biệt đối với các cơ quan bảo vệ pháp
luật nếu biết lấy dân làm gốc thì đó chính là vấn đề then chốt, chìa khóa của
sự thành cơng. Tố giác của công dân không chỉ là trách nhiệm, là quyền của
cơng dân mà nó cịn là nghĩa vụ của cơng dân đối với an ninh của một quốc
gia, do đó trong Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định một số điều luật liên
quan đến việc tố giác này, như: hành vi che giấu tội phạm, không chịu tố giác
tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật hình sự bị coi là tội phạm; hành vi
không chịu khai báo hoặc khai báo gian dối của một số loại chủ thể nhất định
cũng bị coi là tội phạm nếu hậu quả của hành vi đó là nghiêm trọng, nguy
hiểm cho xã hội. Trong những năm qua do xác định đúng về vị trí, tầm quan
trọng của những tin báo tội phạm do nhân dân cung cấp chúng ta đã phá được
hàng nghìn...nghìn... và cịn nhiều hơn thế nữa những vụ án hình sự xảy ra nói
chung và những vụ án hình sự có yếu tố nước ngồi nói riêng, chính vì vậy
một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong chương trình quốc
gia phịng chống tội phạm đó là: Tiếp tục phát động quần chúng nhân dân
tham gia vào cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, khơng ngừng xây
dựng phát động phong trào tồn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác
và đấu tranh chống tội phạm cũng như những tệ nạn xã hội. Bác Hồ đã từng
nói: "Nhân dân giúp ta một ta thắng lợi một; giúp ta nhiều ta thắng lợi nhiều;
giúp ta hồn tồn ta thắng lợi hồn tồn" chính vì vậy tư tưởng "lấy dân làm


16


gốc" luôn luôn là chân lý cho ngành Công an trong mọi hoạt động, cơng tác
của mình.
Thứ hai: Tin báo của cơ quan, tổ chức. Đây cũng là một trong những
nguồn cung cấp thông tin vô cùng quan trọng, đặc biệt những tin báo, tố giác
tội phạm của các cơ quan, đơn vị có chức năng quản lý người nước ngoài, cơ
quan lữ hành quốc tế..., những tin báo này thường chính xác và có cơ sở vững
chắc cho việc định hướng điều tra xác minh của Cơ quan điều tra, cũng chính
vì tầm quan trọng của những nguồn tin báo này mà nội dung đầu tiên trong
chương trình quốc gia phòng chống tội phạm đã đề cập đến tầm quan trọng và
ý nghĩa lớn lao của những thông tin do các cơ quan, tổ chức cung cấp.
Thứ ba: Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tin trên
báo, đài, truyền hình là các vấn đề nhạy cảm được đơng đảo quần chúng biết
tới quan tâm và nó thể hiện tính dân chủ thực sự của Nhà nước ta. Thời gian
qua trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt quan tâm đưa những tin,
bài phản ánh về tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội, vụ việc tiêu cực, tham
nhũng... đây là những thông tin đã gây được sự chú ý của mọi tầng lớp nhân
dân trong xã hội, nhất là những thông tin liên quan đến các nhà đầu tư nước
ngoài ngược đãi, đánh đập cơng dân Việt Nam ở các cơng ty có vốn đầu tư
nước ngồi... mặc dù khơng thể khơng có thiếu sót trong việc đưa tin, nhưng
những tin báo này đã phần nào góp phần giảm thiểu những tiêu cực thiếu sót
trong thực tiễn cũng như thơng qua đó các cơ quan chức năng đã khám phá và
giải quyết nhiều vụ án quan trọng, lấy lại lòng tin trong nhân dân.
Thứ tư: Thông qua cơ sở của Cơ quan điều tra như: mạng lưới bí mật;
đặc tình cơ sở...cung cấp các thơng tin về tội phạm có yếu tố nước ngồi.
Thứ năm: Người phạm tội tự thú. Những tin báo tố giác tội phạm nói
chung và tin báo tội phạm có yếu tố nước ngồi nói riêng, đều được cung cấp


17


từ những nguồn trên, tuy nhiên nó cũng có tính đặc thù đó là những tin báo tố
giác về hành vi của người nước ngồi hoặc hành vi có liên quan đến người
nước ngồi có dấu hiệu tội phạm đến các cơ quan chức năng, tố giác của công
dân được hiểu đó là cơng dân của bất kỳ quốc gia nào phát hiện thấy hành vi
vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm của người nước ngoài trên lãnh thổ
Việt Nam, cũng có thể là hiện trường của vụ việc mang tính hình sự có liên
quan đến người nước ngoài. Tất cả mọi người khi phát hiện thấy dấu hiệu tội
phạm có liên quan đến người nước ngồi đều có nghĩa vụ và trách nhiệm báo
cho các cơ quan chức năng để những cơ quan này tiến hành giải quyết theo
quy định của pháp luật. Tin báo, tố giác tội phạm là những thông tin ban đầu,
những thông tin này có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan bảo vệ pháp luật xem
xét tính chất nghiêm trọng hay không nghiêm trọng của sự việc đã được
những chủ thể báo tin đến, tính chính xác và độ tin cậy của các thơng tin đến
đâu, có dấu hiệu của tội phạm hay không... tin báo tố giác tội phạm là căn cứ
để cơ quan điều tra mở ra những hoạt động điều tra xác minh theo quy định
của pháp luật.
Như vậy, Tin báo tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi là những
thơng tin của cơng dân, cơ quan, tổ chức, các phương tiện thông tin đại
chúng về tội phạm có liên quan đến người nước ngồi đang cư trú, sinh sống
và làm ăn trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.2. Phân loại tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi
- Phân loại theo tội danh: Các tội thuộc chương sở hữu; tính mạng sức
khỏe; danh dự nhân phẩm; tội phạm kinh tế; tội phạm ma túy... để dễ cho hoạt
động thẩm tra xác minh và thống kê tình hình tội phạm có yếu tố nước ngồi
diễn ra tại Việt Nam.


18

- Phân loại theo tính chất tội: Tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng,

tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Việc phân loại này còn xác
định thẩm quyền giải quyết vụ việc cũng như thống kê số liệu loại vụ việc do
người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam hàng năm.
- Phân loại theo đối tượng phạm tội: Đối tượng phạm tội là các nhà
đầu tư sang kinh doanh, buôn bán tại Việt Nam; đối tượng là khách du lịch
vào Việt Nam; đối tượng là Việt kiều về thăm thân, đối tượng là những người
sang Việt Nam theo con đường hợp pháp khác nhưng không mang mục đích
du lịch: như người nhà của những người làm ăn tại Việt Nam...
- Phân loại theo vụ việc phạm tội: Phạm tội đơn lẻ; phạm tội có tính
chất đồng phạm hay tội phạm có tổ chức...
Việc phân loại như trên rất có ý nghĩa trong cơng tác thống kê tội
phạm hình sự có yếu tố nước ngồi hàng năm, từ đó đưa ra những giải pháp
phịng ngừa đấu tranh chống tội phạm có yếu tố nước ngồi.
1.1.3. Ý nghĩa của tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi
- Hoạt động khởi tố vụ án hình sự phải trên cơ sở những tin báo, tố
giác tội phạm được phản ánh từ các nguồn cung cấp thông tin khác nhau theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là đối với các tin báo, tố giác
liên quan đến người nước ngồi. Ví dụ có nguồn tin báo tại địa điểm X có một
xác chết là người nước ngoài, nhận được tin báo chuyển đến (việc chuyển đến
bởi nhiều con đường khác nhau, như: công dân báo tin; cơ quan, tổ chức báo
tin), Cơ quan điều tra phải cử ngay cán bộ xuống hiện trường xem xét sự việc,
xác minh độ chính xác của nguồn tin báo, nếu đúng phải tổ chức bảo vệ hiện
trường, thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra chức năng có thẩm quyền, chủ
trì tiến hành thành lập hội đồng khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi; trưng cầu giám định nếu thấy cần thiết... sau đó thống nhất nhận định có


19

hay khơng có dấu hiệu tội phạm và quyết định có khởi tố hay khơng khởi tố vụ

án hình sự.
- Là căn cứ để Cơ quan điều tra tiến hành thẩm tra, xác minh làm rõ
tính có căn cứ và tính hợp pháp của những tin báo, tố giác tội phạm, trên cơ
sở đó quyết định có hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Những tin báo, tố giác
tội phạm không chỉ dừng lại ở ý nghĩa trên mà cịn là những nguồn thơng tin
cung cấp về đối tượng đang bị Cơ quan điều tra truy nã, cung cấp về nơi ẩn
náu, nơi cất giữ, nơi tiêu thụ tài sản do hành vi phạm pháp mà có, hoặc cung
cấp về chỗ ở, nghề nghiệp, mối quan hệ giữa đối tượng cần thẩm tra với
những đối tượng khác...giúp cơ quan điều tra mở rộng chuyên án phá án, cũng
như nhanh chóng xác minh làm rõ đối tượng gây án.
- Là cơ sở để Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự. Sau khi khởi tố vụ án hình sự dựa trên "dấu
hiệu " của tội phạm, thì hàng loạt các hoạt động điều tra theo quy định của
luật tố tụng hình sự mới được tiến hành và chỉ khi đó những tài liệu thu thập
được mới đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp cho việc chứng minh tội
phạm.
1.1.5. Đặc điểm của tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi
Khi nói đến tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi, ta thấy nổi
lên một số đặc điểm sau:
a. Đặc điểm pháp lý của tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi
Trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, khơng có điều luật nào quy
định riêng như thế nào là tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngoài,
nhưng điều luật này quy định chung cho tất cả các loại tội phạm, cho tất cả
mọi đối tượng phạm tội là người Việt Nam hay người nước ngoài nếu xâm hại
đến những khách thể được Luật hình sự bảo vệ.


20

- Tại điều 100 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định:

Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội
phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau
đây:
1. Tố giác của công dân
2. Tin báo của các cơ quan, tổ chức
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Tòa án, Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển và các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện
dấu hiệu của tội phạm;
5.Người phạm tội tự thú
- Tại điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định về "Tố
giác và tin báo về tội phạm" như sau:
Cơng dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố
giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản
và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện
hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về cho Cơ
quan điều tra bằng văn bản.
Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định chung cho bất kỳ cơng
dân nào đều có quyền tố giác về hành vi phạm tội của bất kỳ ai, đặc biệt tin
báo, tố giác tội phạm có liên quan đến người nước ngoài.


21

Tin báo, tố giác tội phạm chính là những thơng tin ban đầu mà công
dân, cơ quan, tổ chức với sự hiểu biết và tinh thần trách nhiệm của mình
thơng báo đến các cơ quan chức năng, về những gì họ nghe thấy, nhìn thấy và

họ cho rằng có dấu hiệu của tội phạm. Những tin báo tố giác của công dân, cơ
quan, tổ chức hoặc qua các phương tiện thơng tin đại chúng thường rất nhiều,
tuy nhiên tính chính xác và tính đầy đủ của những nguồn thơng tin này đôi khi
rất hạn chế, nguồn gốc thông tin thường khơng xác định được, ví dụ: ai cung
cấp, tại sao biết được những thơng tin đó, nó xảy ra ở đâu, hiện tượng như thế
nào, biết được trong điều kiện hồn cảnh nào...hơn nữa trong thực tế nhiều
cơng dân sợ bị liên lụy nên hay dấu tên tuổi, địa chỉ để khỏi bị gọi hỏi, hoặc
lo sợ bị trả thù nếu người phạm tội biết ai cung cấp thông tin, chính vì thế
việc xác minh làm rõ nguồn gốc cũng như tính chính xác của những thơng tin
này thường gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt khi xác định được đối tượng là
người nước ngồi có dấu hiệu tội phạm hoặc có liên quan đến tội phạm, Cơ
quan điều tra cần gặp để điều tra, xác minh, làm rõ nhưng do: sự bất đồng về
ngôn ngữ nên phải trưng cầu người phiên dịch, đối với những người biết tiếng
Anh, Pháp, Trung Quốc việc trưng cầu tương đối thuận lợi, ngược lại đối
những với những người nói tiếng khác thì việc trưng cầu thường khó khăn.
Thực tế việc trưng cầu người phiên dịch cho thấy: người phiên dịch cũng
không hẳn ai cũng hiểu hết thuật ngữ pháp lý, nên trong quá trình hợp tác với
cơ quan chức năng nhiều khi dịch khơng chuẩn làm cho cơ quan điều tra khó
xác minh, làm rõ được sự việc.
Những thơng tin ban đầu đó có thể chính xác cũng có thể khơng chính
xác, có thể cụ thể cũng có thể rất đơn giản sơ sài nhưng nguồn cung cấp lại rất
phong phú cho nên khi nhận được những thông tin ban đầu chỉ được xem là
nguồn cung cấp để xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm. Đối với
người nước ngồi sang buôn bán làm ăn, sinh sống, du lịch tại Việt Nam,


22

pháp luật nhà nước Việt Nam luôn bảo vệ và tạo môi trường điều kiện thuận
lợi nhất cho họ trong quá trình họ cư trú tại Việt Nam, nhất là vấn đề quyền

con người. Tuy nhiên pháp luật nhà nước Việt Nam cũng nghiêm cấm người
nước ngoài đến Việt Nam khơng mang thiện chí tốt đẹp tổ chức lơi kéo hoặc
câu kết với bọn tội phạm trong nước buôn bán hàng cấm, trộm cắp, cướp
của, giết người, những hành vi này phải bị phát hiện và xử lý nghiêm minh.
Tuy nhiên, cái khó là do những thơng tin nhận được ban đầu thường khơng
đầy đủ và thiếu chính xác nên quá trình điều tra, xác minh làm rõ thường gặp
nhiều khó khăn, phức tạp. Nếu khơng khéo léo và tế nhị sẽ dễ gây phản ứng
từ phía người nước ngồi và Chính phủ của họ làm ảnh hưởng đến quan hệ
đối ngoại, hợp tác, đầu tư làm ăn, buôn bán giữa Nhà nước ta và các quốc gia,
vì vậy địi hỏi Cơ quan điều tra phải hết sức thận trọng, chính xác trong hoạt
động của mình.
b. Tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi rất đa dạng về nội
dung và nguồn gốc
- Đa dạng về nội dung: Mỗi hành vi phạm tội thường rất khác nhau,
xâm hại đến nhiều loại khách thể khác nhau được luật hình sự Việt Nam bảo
vệ, mỗi tin báo tố giác tội phạm cũng bao hàm nhiều nội dung khác nhau như
vậy, có thể tin báo tố giác về tội phạm có yếu tố nước ngồi chỉ mang một
thơng tin nhỏ trong tồn bộ vụ án lớn, như: có nguồn tin cung cấp về hành vi
đánh người gây thương tích có liên quan đến người nước ngồi; có nguồn tin
báo về hành vi xâm hại tình dục có liên quan đến người nước ngồi, có tin
báo về hành vi móc túi tại bến xe liên quan đến người nước ngồi; có nguồn
tin báo về hành vi lừa đảo bằng hình thức đổi tiền liên quan đến người nước
ngồi; có tin báo về hành vi tiêu thụ, lưu hành tiền giả và lừa đảo liên quan
đến người nước ngồi tại Việt Nam thơng qua hình thức mua hàng; có nguồn
tin báo về hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển, chiếm đoạt... trái phép chất


23

ma túy liên quan đến người nước ngoài tại Việt Nam; có tin báo về hành vi

giết người có liên quan đến người nước ngồi (họ có thể là chủ thể của tội
phạm, cũng có thể là nạn nhân của tội phạm)... nhìn chung người nước ngồi
đến Việt Nam bằng nhiều con đường dưới nhiều hình thức khác nhau: với tư
cách nhà ngoại giao, nhà đầu tư, vào hợp tác, bn bán, kinh doanh, học tập,
du lịch... chính trong họ một số ít người nảy sinh tội phạm, đồng thời bản thân
họ là đối tượng mà bọn tội phạm nói chung thường lợi dụng gây án, nhất là
trong điều kiện hiện nay khi tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến phức tạp,
lại bị tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, với xu thế tồn cầu
hóa thì tội phạm có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam ngày một nhiều, tính chất
và thủ đoạn gây án ngày càng tinh vi, phức tạp, đặc biệt đã xuất hiện một số
loại tội phạm mới, như: tội phạm rửa tiền, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, tội phạm trong hoạt động đầu tư, tội phạm mơi trường, tội phạm
khủng bố, bắt cóc con tin để tống tiền...
- Đa dạng về nguồn gốc: Nơi cung cấp tin báo, tố giác tội phạm rất
phong phú và đa dạng, theo quy định của pháp luật là công dân cung cấp
thơng tin, cơng dân có nhiều loại có thể là cơng dân của nước Việt Nam, có
thể cơng dân của nước ngoài cư trú tại Việt Nam phát hiện hoặc bị xâm hại tố
giác, cũng có thể một người nước ngồi báo tin khơng phải là cơng dân của
nước nào cả vì họ là người khơng mang quốc tịch.
Tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi là do cơ quan tổ chức
báo cho cơ quan chức năng: như vụ đánh cơng nhân tại một tập đồn liên
doanh của Hàn Quốc tại Việt Nam do cơng đồn của cơ quan này báo đến Cơ
quan điều tra.
Tin báo cịn có thể do mạng lưới bí mật của Cơ quan điều tra thu thập,
phát hiện và thông báo về hành vi phạm tội có yếu tố nước ngồi do người
nước ngồi hoặc có liên quan đến người nước ngồi gây ra ở Việt Nam.


24


Tin báo cịn có thể được cung cấp bởi các phương tiện thơng tin đại
chúng như: báo, đài, truyền hình... những thông tin qua phương tiện thông tin
đại chúng này ít nhiều đều có sự việc, nhưng độ chính xác thường khơng cao,
báo chí hay thổi phồng sự thật theo nhận định chủ quan, nguy hiểm hơn là
thông tin này thường nhanh chóng đến được đơng đảo quần chúng nhân dân
và họ dễ bị lầm tưởng và cho rằng sự việc xảy ra là đúng, nhưng khi Cơ quan
điều tra tiến hành điều tra, xác minh thì sự thật khơng phải như vậy, khơng có
dấu hiệu tội phạm, chỉ là hành vi vi phạm pháp luật khác hoặc vụ, việc hành
chính, khơng đủ căn cứ khởi tố vụ án. Sự việc được thông báo lại dễ gây sự
hiểu lầm trong nhân dân, cho rằng Cơ quan điều tra bao che dung túng, bảo kê
tội phạm... Qua đây cũng cần kiến nghị với các cơ quan có chức năng quản lý
báo chí, đài truyền hình nên có những quy định thẩm định chặt chẽ trước khi
cho đưa tin trên các phương tiện thơng tin đại chúng, phải đảm bảo tính chính
xác, tính chặt chẽ. Việc đưa tin "giật gân" trên các phương tiện thông tin đại
chúng dễ tác động mạnh đến dư luận xã hội và tâm trạng xã hội, thậm chí làm
rối loạn xã hội.
Người phạm tội tự thú về hành vi phạm tội của mình: Người phạm tội
tự thú có thể là người Việt Nam, cũng có thể là người nước ngồi. Đối với
người Việt Nam thì có thể tiến hành thu thập được ngay bằng hình thức lập
biên bản và cho viết tường trình sự việc, lấy lời khai thẩm tra. Nhưng đối với
người nước ngoài tự thú thì gặp khơng ít khó khăn, lúng túng, đó là sự bất
đồng ngôn ngữ cần phải trưng cầu người phiên dịch, việc này khơng thể có
ngay được, có nhiều trường hợp người phiên dịch, dịch không chuẩn những
thuật ngữ pháp lý, vì vậy chứng cứ thu thập được nhiều lúc thiếu chính xác,
thậm chí sai lệch, nên gây nhiều khó khăn, phức tạp cho hoạt động điều tra
xác minh làm rõ sự thật vụ án, đây cũng là điểm khác biệt giữa tin báo tố giác
nói chung với tin báo, tố giác có yếu tố nước ngồi.


25


c. Tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi mang tính thời sự
Thơng tin về người nước ngồi hoặc có liên quan đến người nước
ngồi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam là thông tin luôn mang tính thời sự
cao, bởi lẽ: nó liên quan đến việc tiến hành những hoạt động thẩm tra, xác
minh làm rõ sự việc, nếu sự việc có dấu hiệu tội phạm thì việc giải quyết cịn
liên quan đến hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa Việt Nam và các
nước thành viên, hơn nữa liên quan đến người nước ngoài phải giải quyết theo
luật pháp quốc tế cũng như giải quyết theo luật điều ước của các nước thành
viên ký kết với Việt Nam, nếu việc giải quyết không tốt, không tế nhị và
không chặt chẽ sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác, làm ăn, buôn bán giữa Việt
Nam và nước thành viên.
Tội phạm là người nước ngoài vào Việt Nam cũng có thể trong tổ
chức tội phạm quốc tế, cũng có thể chỉ là tội phạm trong một quốc gia, vì vậy
khi vào Việt Nam chúng thường câu kết với tổ chức tội phạm xuyên quốc gia,
tội phạm trong nước để thực hiện hành vi phạm tội với phương thức thủ đoạn
tinh vi, gây hậu quả lớn, nhất là về kinh tế, như: tội phạm rửa tiền, buôn bán
trái phép chất ma túy, buôn vàng và ngoại tệ, tội phạm trong hoạt động đầu
tư... Đây là vấn đề nhạy cảm, gây được sự quan tâm, chú ý của nhiều người,
không những ở trong nước mà đã lan rộng ra phạm vi quốc tế.
d. Tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi thường thiếu
chính xác và không đầy đủ
Thật ra đây không những chỉ là đặc điểm đặc trưng của tin báo, tố giác
tội phạm có yếu tố nước ngồi, mà đây cịn là đặc điểm đặc trưng của tất cả
các loại tin báo tố giác tội phạm nói chung.
Cơng dân khi thấy sự việc, hiện tượng vì thiếu hiểu biết, đặc biệt là
thiếu hiểu biết trong lĩnh vực tội phạm học nên ngộ nhận cho rằng đó chính là
bản chất của sự việc, nóng vội cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng, vừa



26

là ưu điểm nhưng đơi khi sự cung cấp đó cũng làm cho Cơ quan điều tra khó
xác định, điều tra vì những thơng tin này thường khơng đầy đủ thiếu tính
chính xác và cụ thể. Những thơng tin như vậy làm mất thời gian thẩm tra xác
minh và kết luận, những tin báo tố giác thiếu tính chính xác dễ gây nên sự
hiểu lầm nhất là sự hiểu lầm của nhiều người, tạo ra sức ép lớn cho Cơ quan
điều tra trong q trình điều tra vụ án. Chính vì vậy đã làm cho kết quả điều
tra đơi khi khơng bảo đảm tính xác thực.
1.2. NHẬN THỨC VỀ TỔ CHỨC TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÝ TIN BÁO, TỐ
GIÁC TỘI PHẠM CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT
NHÂN DÂN CÔNG AN TỈNH QUẢNG NINH

1.2.1. Khái niệm về tổ chức tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội
phạm có yếu tố nước ngồi của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an
tỉnh Quảng Ninh
Trước hết hoạt động tổ chức tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm có
yếu tố nước ngồi thuộc về các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đó là Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, cũng như các cơ quan, tổ chức khác theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Đối với Viện kiểm sát thì ngay sau khi
nhận được tin báo tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi phải kịp thời thơng
báo ngay bằng văn bản cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền kèm với kiến
nghị đề nghị giải quyết. Trong lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an tỉnh
Quảng Ninh cơ quan trực tiếp tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm nói chung,
tội phạm có yếu tố nước ngồi là văn phịng cơ quan Cảnh sát điều tra Công
an tỉnh; Đội điều tra tổng hợp Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện.
Các phịng, Cơng an các huyện, thị xã, thành phố Hạ Long trong Công an
Quảng Ninh nhận được tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi phải
lập biên bản ghi nhận sự việc và báo cáo kịp thời cho Văn phòng Cơ quan
Cảnh sát điều tra để thống kê, phân loại và đề xuất Giám đốc Công an tỉnh



27

hoặc Thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh quyết định chuyển
Cơ quan điều tra có chức năng giải quyết theo quy định của pháp luật để tiến
hành thẩm tra, xác minh, giải quyết. Việc tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm
có yếu tố nước ngồi là nhiệm vụ và cũng là trách nhiệm của các cơ quan
nói trên, việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm là chức năng của các cơ
quan Cảnh sát điều tra có thẩm quyền thuộc cơ quan cảnh sát điều tra Công
an tỉnh. Cơ quan Cảnh sát điều tra sau khi tiếp nhận, giải quyết tin báo tố
giác tội phạm có yếu tố nước ngồi do cá nhân, cơ quan, tổ chức, Viện kiểm
sát, các cơ quan khác thuộc lực lượng Công an nhân dân cung cấp, thu thập
hoặc thơng qua mạng lưới bí mật...có trách nhiệm tổ chức xác minh, kết luận
và trả lời cho những đối tượng đã báo tin theo quy định biết có hay khơng có
tội phạm và nếu có thì có hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Trong trường
hợp cá nhân cơng dân, cơ quan, tổ chức yêu cầu giữ bí mật thì cơ quan chức
năng phải giữ bí mật cho họ.
Việc xử lý tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi thuộc về
Phịng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ; Phòng
Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy; Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự xã hội thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh giải
quyết. Trước đây luật quy định có Viện kiểm sát cùng tham gia hoạt động xử
lý, nhưng do Viện kiểm sát hoạt động khơng có hiệu quả vì khơng có lực
lượng tiến hành điều tra xác minh, hơn nữa khơng có phương tiện kỹ thuật hỗ
trợ cho hoạt động này nên hầu hết đều chuyển cơ quan điều tra xác minh, để
bảo đảm tính khả thi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định chức
năng xử lý, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra. ở
địa bàn tỉnh Quảng Ninh tin báo, tố giác tội phạm có yếu tố nước ngồi do Cơ
quan Cảnh sát điều tra cơng an tỉnh (Quy trình số: 342/PV11(PA 18) về xử lý

vụ việc liên quan đến người nước ngoài ngày 22/4/2003 của Giám đốc Công
an tỉnh Quảng Ninh) giải quyết. Đây là quy định hợp lý. Vì vấn đề người


×