Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Tình hình xuất khẩu rau quả của việt nam sang một số nước châu âu sau khi gia nhập WTO, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.63 KB, 80 trang )

1

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................75

1


2

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Danh mục bảng

Danh mục biểu đồ

2


3

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong công cuộc Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, Việt Nam đang thực hiện chiến
lược xuất khẩu kết hợp song song với chiến lược thay thế nhập khẩu. Đối với Việt
Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, là một nước nông nghiệp
với trên 70% lực lượng lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp, vì thế Đảng và
Nhà Nước ta đã xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Trong các mặt


hàng nông sản thì sản phẩm rau quả với diện tích chiếm khoảng 1,5 triệu ha diện tích
đất nông nghiệp và sản lượng hiện nay đứng thứ 5 ở Châu Á được xác định là một
trong những mặt hàng xuất khẩu tiềm năng. Việt Nam hiện đang sản xuất và xuất khẩu
các loại rau quả mà thị trường thế giới có nhu cầu như thanh long, chuối, vải, dứa,
xoài, nhãn, chôm chôm… và một số loại rau vụ Đông có giá trị kinh tế cao như dưa
chuột, khoai tây, cà chua, ngô rau…
Trong các thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam thì thị trường Châu Âu
( EU) là lớn nhất và tiềm năng nhất. Đặc biệt sau khi gia nhập WTO thì cánh cửa hợp
tác kinh tế, thương mại quốc tế của Việt Nam đối với các đối tác lớn trên thế giới như
EU ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên hiện nay, lượng rau quả xuất khẩu sang thị
trường này còn rất khiêm tốn, thị phần của rau quả Việt Nam xuất sang thị trường
Châu Âu năm 2009 chỉ chiếm 0,3% trên tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả từ bên
ngoài của khu vực này. Vì thế người viết đã lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là
“Tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang một số nước Châu Âu sau khi
gia nhập WTO, thực trạng và giải pháp”. Qua đó có những cái nhìn chi tiết hơn về
tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thi trường này để tìm ra các giải pháp
nhằm thúc đẩy xuất khẩu rau quả sang thị trường Châu Âu hơn nữa.Từ đó tăng sản
lượng xuất khẩu sang thị trường tiềm năng này và mang lại nhiều lợi nhuận từ xuất
khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như đóng góp vào nền kinh tế quốc dân.
2. Mục đích nghiên cứu

Thông qua tình hình xuất khẩu rau quả sang thị trường Châu Âu để có những
đánh giá đúng hơn về thành tựu và hạn chế còn tồn tại hiện nay của hoạt động xuất


4

khẩu rau quả Việt Nam, cũng như đưa ra định hướng và một số giải pháp vĩ mô và vi
mô để phát triển và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu rau quả hơn nữa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu về thực trạng xuất
khẩu hiện nay của Việt Nam sang các nước Châu Âu từ khi Việt Nam gia nhập WTO
tới nay, trong đó tập trung nghiên cứu năm thị trường có lượng nhập khẩu rau quả Việt
Nam lớn nhất trong cộng đồng Châu Âu ( Hà Lan, Đức, Pháp, Italia và Anh) và một số
định hướng, giải pháp để góp phần thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm rau quả Việt Nam
sang thị trường các nước đó và cộng đồng Châu Âu.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi Thị trường
Châu Âu (đặc biệt là năm nước Châu Âu) và trong khoảng thời gian sau khi Việt Nam
gia nhập WTO tới nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài khóa luận gồm có:
5.

Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp so sánh
Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục Khóa luận được chia thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu
Chương 2: Tình hình xuất khẩu rau quả Việt Nam sau khi gia nhập WTO sang
một số nước Châu Âu
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu rau quả sang thị trường Châu
Âu
Người viết xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo hướng dẫn
Thạc sĩ Phạm Thu Hà, Giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đã tận tình
giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do thời gian có hạn và sự hiểu biết cũng như

kiến thức của người viết về lĩnh vực xuất nhập khẩu còn hạn chế nên khóa luận tốt
nghiệp không tránh khỏi một số sai sót. Người viết rất mong được sự góp ý của thầy
cô và các bạn.
CHƯƠNG 1


5

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa
Xuất khẩu hàng hóa việc bán hàng hóa và dịch vụ vượt qua biên giới quốc gia
trên cơ sở dùng tiền tệ làm đơn vị thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với
một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động cơ bản trong thương
mại quốc tế, đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phát triển.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của các quốc gia trong
phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất
khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại hàng hóa khác
nhau. Phạm vi hoạt động của xuất khẩu rất rộng về không gian lẫn thời gian.
1.2. Các loại hình xuất khẩu
1.2.1.Xuất khẩu trực tiếp
Giống như các hoạt động mua bán thông thường trực tiếp ở trong nước, phương
thức xuất khẩu trực tiếp trong kinh doanh Thương Mại Quốc Tế có thể được thực hiện
ở mọi lúc, mọi nơi trong đó người mua và người bán trực tiếp gặp mặt ( hoặc thông
qua thư từ, điện tín...) để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, điều kiện
giao dịch, phương thức thanh toán... mà không qua người trung gian. Những nội dung
này được thoả thuận một cách tự nguyện, việc mua không nhất thiết gắn liền với việc
bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này khác với hoạt động nội thương
ở chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác nhau, đồng tiền

thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên, hàng hoá là đối tượng của giao
dịch được di chuyển qua khỏi biên giới của một nước.
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường có những ưu điểm [II.5] sau:


Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất, ít xảy ra những

hiểu lầm đáng tiếc.


Giảm được chi phí trung gian.



Có điều kiện xâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng,

khắc phục thiếu sót


Chủ động trong việc sản xuất tiêu thụ hàng hoá


6

Tuy nhiên hoạt động này cũng gặp phải một số hạn chế đó là:


Đối với thị trường mới còn nhiều bỡ ngỡ, dễ bị ép giá trong mua bán




Khối lượng mặt hàng cần giao dịch phải lớn để bù đắp được chi phí: giấy tờ,

đi lại, điều tra tìm hiểu thị trường.
1.2.2. Xuất khẩu gián tiếp
Nếu trong xuất khẩu trực tiếp người bán tìm đến người mua, người mua tìm đến
người bán và họ trực tiếp thoả thuận quy định những điều kiện mua bán, thì trong xuất
khẩu gián tiếp, một hình thức giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ giữa
người bán và người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua
người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung gian
buôn bán phổ biến trên thị trường thế giới là đại lý và môi giới.
Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự
uỷ thác của người uỷ thác (principal). Quan hệ giữa người uỷ thác với đại lý là quan hệ
hợp đồng đại lý.
Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được
người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ. Khi
tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không được đứng tên của chính mình mà đứng tên
của người uỷ thác, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân
trước người uỷ thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Người môi giới
không tham gia vào việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp được uỷ quyền. Quan hệ
giữa người uỷ thác với người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần, chứ không dựa
vào hợp đồng dài hạn.
Việc sử dụng những người trung gian thương mại (đại lý và môi giới) có những
lợi ích như:


Những người trung gian thường có hiểu biết rõ tình hình thị trường, pháp luật

và tập quán địa phương, do đó, họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt
rủi ro cho người uỷ thác.



Những người trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định,

do đó, khi sử dụng họ, người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.


Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói, người uỷ

thác có thể giảm bớt chi phí vận tải.


7

Tuy nhiên việc sử dụng trung gian có khuyết điểm như:


Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường. Công

ty cũng thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý hoặc môi giới.


Lợi nhuận bị chia sẻ
Trước sự phân tích lợi hại như vậy, người ta chỉ thường sử dụng trung gian

trong những trường hợp cần thiết như: khi thâm nhập vào một thị trường mới, khi mới
đưa vào thị trường mới một mặt hàng mới, khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng qua
trung gian.
1.2.3.Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hóa [I.1 tr. 15-20,

Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương], trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với
nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương
xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về
một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương.
Buôn bán đối lưu ra đời từ lâu trong lịch sử quan hệ hàng hóa- tiền tệ, trong đó
sớm nhất là “ hàng đổi hàng”, rồi đến trao đổi bù trừ. Ngày nay, ngoài hai hình thức
truyền thống đó, đã có nhiều loại hình mới ra đời từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Các loại hình buôn bán đối lưu phổ biến như:
- Nghiệp vụ hàng đổi hàng ( Barter): trong đó hai bên trao đổi trực tiếp với nhau

những hoàng hóa có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời.
- Nghiệp vụ bù trừ ( Compensation) : trong đó hai bên trao đổi hàng hóa với
nhau trên cơ sở ghi trị hàng giá hàng giao và hàng nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới
đối chiếu sổ sách, so sánh giữa trị giá hàng giao với trị giá hàng nhận. Nếu sau khi bù
trừ tiền hàng như thế mà còn số dư thì số tiền được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của
bên chủ nợ về những khoản chỉ tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
- Nghiệp vụ buôn bán có thanh toán bình hành ( Clearing): trong đó hai chủ thể
của quan hệ mua bán thỏa thuận chỉ định ngân hàng thanh tóan. Ngân hàng này mở tài
khoản clearing, để ghi chép tổng trị giá hàng giao nhận của mỗi bê. Sau một thời hạn
quy định, ngân hàng mới quyết toán tài khoản clearing và bên bị nợ( nhận nhiều mà
giao ít) sẽ phải trả khoản nợ bội chi mà mình gây ra.


8
- Nghiệp vụ mua đối lưu ( Counter- purchase): một bên giao thiết bị cho khách

hàng của mình để đổi lại mua sản phẩm của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm,
nguyên vật liệu…
- Nghiệp vụ chuyển nợ ( Switch): bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng
cho một bên thứ ba để bên thứ ba này trả tiền.

- Giao dịch bồi hoàn ( Offset) : người ta đổi hàng hóa hoặc dịch vụ lấy dịch vụ
và ưu huệ.
- Nghiệp vụ mua lại sản phẩm ( Buy-backs) : một bên cung cấp thiết bị toàn bộ
hoặc sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật cho bên khác đồng thời cam kết mua lại sản
phẩm do thiết bị hoặc sang chế đó tạo ra.
Trong buôn bán đối lưu, người ta luôn chú trọng đến yêu cầu cân bằng, vì đó
là sự cân đối giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên, được thể hiện ở cân bằng về
mặt hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau và cân
bằng về điều kiện giao hàng.
1.2.4.Tái xuất và chuyển khẩu
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất [I.1]. Nhiều nước Tây Âu và Mỹ
La Tinh quan niệm tái xuất là xuất khẩu những hàng ngoại quốc từ kho hải quan, chưa
qua chế biến ở nước mình. Anh, Mỹ và một số nước khác lại coi đó là việc xuất khẩu
những mặt hàng ngoại quốc chưa qua chế biến ở trong nước dù hàng đó đã qua lưu
thông nội địa. Như vậy, các nước đều có thống nhất quan niệm tái xuất là lại xuất khẩu
trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái
xuất.
Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số
ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút ba nước tham gia: nước
xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Trong đó, hàng hóa đi từ nước xuất khẩu
đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược
chiều với sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền
nước nhập khẩu.
Chuyển khẩu là một loại hình tái xuất, trong đó hàng hóa từ nước xuất khẩu trực
tiếp sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của
nước nhập khẩu. Có ba hình thức chuyển khẩu chính:
- Hàng từ nước xuất khẩu được chở thẳng sang nước nhập khẩu.
- Hàng từ nước xuất khẩu chở đến nước tái xuất nhưng không làm thủ tục vào
nước tái xuất mà được chở sang nước nhập khẩu.



9
- Hàng từ nước xuất khẩu được chở đến nước tái xuất, làm thủ tục nhập vào kho

ngoại quan ở nước tái xuất, sau đó được xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Kinh doanh tái xuất, chuyển khẩu đòi hỏi sự nhạy bén đối với tình hình thị
trường và giá cả, sự chính xác trong các hợp đồng mua bán.
1.2.5. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển và có xu hướng phát
triển rộng rãi do nó có những ưu điểm [II.5] sau:
- Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá không vượt qua biên giới
quốc gia mà khách hàng vẫn có thể mua được hàng hoá. Do vậy, nhà xuất khẩu không
cần đích thân ra nước ngoài để đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua
lại đến trực tiếp đàm phán với người xuất khẩu.
- Mặt khác, doanh nghiệp cũng không cần phải tiến hành các thủ tục như: thủ tục
tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hóa, thuê phương tiện vận tải vận chuyển. Do đó
giảm được một số chi phí khá lớn.
Trong thời kỳ nền kinh tế ta mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới, đầu tư nước
ngoài và kinh tế du lịch ngày càng phát triển, khách du lịch và dân di cư tạm thời ngày
càng tăng nhanh. Các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả có thể liên hệ trực tiếp với các
hoạt động cung cấp dịch vụ hoặc bán hàng để thu ngoại tệ. Ngoài ra doanh nghiệp có
thể sử dụng chính số khách du lịch này làm nhân tố quảng cáo và khuyến trương sản
phẩm của doanh nghiệp.
- Sản xuất trong nước phát triển và mở rộng các hình thức đầu tư, xuất hiện một
loạt khu chế xuất ra đời, cần sử dụng rau quả, việc đáp ứng được nhu cầu cho tổ chức
này cũng chính là hình thức xuất khẩu có hiệu quả và đang được nhiều doanh nghiệp
chú ý sử dụng. Việc thanh toán tiền theo phương thức này cũng rất nhanh chóng, có
thế là đồng nội tệ, hoặc ngoại tệ do hai bên tự thoả thuận trong hợp đồng thương mại.
Theo điều 41, Thông tư 194/2010/TT-BTC, Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu tại
chỗ là hàng hoá do thương nhân Việt Nam (bao gồm cả thương nhân có vốn đầu tư nước

ngoài; doanh nghiệp chế xuất) xuất khẩu cho thương nhân nước ngoài nhưng thương
nhân nước ngoài chỉ định giao, nhận hàng hoá đó tại Việt Nam cho thương nhân Việt
Nam khác. Người xuất khẩu tại chỗ (sau đây gọi tắt là doanh nghiệp xuất khẩu: là người
được thương nhân nước ngoài chỉ định giao hàng tại Việt Nam. Người nhập khẩu tại


10

chỗ (sau đây gọi tắt là “doanh nghiệp nhập khẩu”): là người mua hàng của thương nhân
nước ngoài nhưng được thương nhân nước ngoài chỉ định nhận hàng tại Việt Nam từ
người xuất khẩu tại chỗ.
1.2.6. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế [I.1]là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên
( gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên
khác ( gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt
gia công và nhận thù lao ( gọi là phí gia công). Như vậy, trong gia công quốc tế hoạt
động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều
nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi dụng được giá rẻ về
nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, tuy
thu nhập do gia công quốc tế mang lại thương nhỏ, không đáng kể nhưng phương thức
này giúp học giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận
được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp
dân tộc.
1.3. Một số khái niệm liên quan tới hoạt động xuất khẩu sang thị trường nước
ngoài
1.3.1. Lợi thế so sánh
Hoạt động xuất khẩu là một tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển
kinh tế. Do những điều kiện khác nhau, mỗi quốc gia có thế mạnh về lĩnh vực này
nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Để có thể dung hòa được nguy cơ và lợi thế, tạo ra

được sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành
trao đổi với nhau, bán những gì mình thừa và mua những gì mình thiếu. Tuy nhiên,
hoạt động xuất khẩu không nhất thiết chỉ diễn ra giữa những quốc gia có lợi thế về lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác mà các quốc gia thua thiệt hơn về tất cả các điều kiện như:
nhân lực, tài chính, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ…thông qua hoạt động trao đổi
thương mại quốc tế cũng sẽ thu được những lợi ích, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế
nội địa.
Tính tất yếu của hoạt động xuất khẩu đã được chứng minh rất rõ qua lý thuyết
về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo [II.6].


11

Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một nước có hiệu quả thấp hơn so với các
nước khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm vẫn cần phải tham gia hoạt
động thương mại quốc tế vì có thể tạo ra lợi ích không nhỏ mà nếu bỏ qua quốc gia đó
sẽ mất cơ hội phát triển. Nói cách khác, trong những điểm bất lợi nhất vẫn có thể tìm
ra điểm có lợi để khai thác. Khi tiến hành xuất khẩu, một quốc gia có hiệu quả thấp
trong việc sản xuất ra tất cả các loại hàng hóa sẽ có thể chuyên môn hóa vào sản xuất
loại hàng hóa ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những loại
hàng hóa mà việc sản xuất nó là bất lợi nhất để tiết kiệm được các nguồn lực của mình
và thúc đẩy sự phát triển của sản xuất trong nước…
Mô hình của nhà kinh tế David Ricardo với các giả thiết được đơn giản hóa như
sau:
+ Thế giới chỉ có hai nước chẳng hạn là Việt Nam và Mỹ. Hai quốc gia này chỉ
sản xuất hai chủng loại hàng hóa là vải và máy vi tính. Mỗi quốc gia chỉ có lợi thế về
sản xuất một mặt hàng. Mỹ có lợi thế về sản xuất máy vi tính và Việt Nam có lợi thế
về sản xuất vải.
+ Yếu tố sản xuất duy nhất là lao động có thể tự do di chuyển trong một nước.
+ Công nghệ sản xuất của Việt Nam và Mỹ là cố định.

+ Chỉ tính chi phí sản xuất, không phát sinh chi phí khác
Bảng 1: Lợi thế so sánh giữa hai quốc gia Việt Nam và Mỹ
Quốc gia
Mặt hàng

Việt Nam

Mỹ

Vải (m/ giờ làm việc)

2

4

Máy tính ( chiếc/ giờ làm việc)

1

6

Số liệu bảng 1 cho thấy: Mỹ có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong sản xuất
cả hai mặt hàng là vải và máy tính. Tuy nhiên nếu phân tích cụ thể thì khi năng suất
lao động ở ngành chế tạo máy tính của Mỹ gấp 6 lần Việt Nam, năng suất của ngành
sản xuất vải chỉ gấp có hai lần. Như vậy, giữa chế tạo máy tính và sản xuất vải thì Việt
nam thế tương đối trong sản xuất vải. Theo quy luật so sánh thì hai quốc gia sẽ cùng
có lợi nếu đi sâu vào chuyên môn hóa sản xuất một loại sản phẩm ( Mỹ chế tạo máy
tính, Việt nam sản xuất vải) và sau đó hai quốc gia tiến hành trao đổi ngoại thương,
đổi một phần vải lấy một phần máy tính. Nếu tiến hành trao đổi 6 chiếc máy tính lấy 4



12

mét vải thì Mỹ sẽ chẳng có lợi ích gì vì ngay trong thị trường nội địa của Mỹ cũng trao
đổi theo tỷ lệ này. Tương tự như vậy, nếu trao đổi theo tỷ lệ 2 mét vải lấy một chiếc
máy tính thì Việt Nam cũng sẽ từ chối vì lợi ích ngoại thương không hơn gì trao đổi
trong nước. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm trong khoảng mà có thể đem lại lợi
ích cho cả hai nước, tức là:
4/6 < Tỷ lệ trao đổi quốc tế Vải/Máy tính < 2/1
Giả sử tỷ lệ trao đổi quốc tế là 1/1 tức là 6 máy tính đổi lấy 6 mét vải. Qua trao
đổi này ta thấy Mỹ có lợi 2 mét vải, tức tiến kiệm được ½ giờ làm việc. Còn Việt Nam
nhận được 6 chiếc máy tính từ Mỹ mà bình thường Việt nam phải bỏ ra 6 giờ làm việc
để sản xuất. Nếu dùng 6 giờ công này để sản xuất vải thì có thể tạo ra 12 mét vải như
vậy Việt Nam có lợi 6 mét vải hay có thể nói là tiết kiệm được 3 giờ làm việc.
Qua phân tích ví dụ trên cho thấy hoạt động trao đổi thương mại quốc tế đã mang
lại lợi ích cho cả hai quốc gia, thông qua việc xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế
tương đối. Sự chuyên môn hóa trong sản xuất và trao đổi những hàng hóa sẽ sử dụng tốt
nhất những lợi thế của quốc gia mình, giúp tiết kiệm được những nguồn lực vốn, lao
động, tài nguyên thiên nhiên…trong quá trình sản xuất hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu.
Bên cạnh đó cũng làm tăng số lượng và chất lượng sản phẩm của thế giới tạo điều kiện
cho khả năng tiêu dùng của con người.
1.3.2. Thuế quan và phi thuế quan
1.3.2.1. Thuế quan
Thuế quan là thuế chính phủ đánh vào hàng hóa được chuyên chở qua biên giới
quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan. Thuế quan gồm thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu và
xuất khẩu ( hay còn gọi là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu). Thuế xuất khẩu là một
công cụ mà các nước đang phát triển thường sử dụng để đánh vào một số mặt hàng
nhằm tăng lợi ích quốc gia. Trái lại, ở nhiều nước phát triển người ta không sử dụng
thuế xuất khẩu do họ không đặt mục tiêu tăng nguồn thu ngân sách từ thuế xuất khẩu.
Vì vậy, ở những nước đó, khi nhắc tới thuế quan người ta đồng nhất với thuế nhập

khẩu. Năm 1993, 1998 Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu cho phù hợp với tình hình kinh tế chính trị của từng
giai đoạn lịch sử. Sau 20 năm đổi mới, nước ta đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế
giới, tham gia và ký kết nhiều cam kết, hiệp định quốc tế. Do đó, chính sách pháp luật
cũng phải thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngày 14-6-2005, tại kỳ họp thứ 7


13

Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngày 7-11-2006,
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, chúng ta phải thực hiện Cam kết
về thủ tục nhập khẩu.
Mức cam kết [I.2]chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế
(10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4%
xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong vòng 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân
đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong
vòng 5 - 7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu
trong vòng 5-7 năm.
Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu
là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh
tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ô-tô, xe máy... vẫn duy trì được
mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may,
cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử.
Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu,
kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số
hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp
định tự nguyện của WTO, nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số
ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và
thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với
ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.

Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế cho
nước đánh thuế. Nhưng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, thuế quan lại làm giảm
phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế thế giới.
Nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia. Thuế quan có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Thuế quan cao sẽ ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa được
tiêu thụ. Thuế quan cao cũng sẽ kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan càng cao, buôn
lậu càng phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và
giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở
nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó cũng
không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công


14

nghệ để tăng năng xuất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay
thế thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu
và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan
trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp
non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các
nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh
của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu có thể giúp cải thiện thương mại
của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm mà giá của chúng không tăng đáng kể
khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này thuế quan có thể khuyến khích nhà sản
xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước
nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả
năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu.
1.3.2.2. Biện pháp phi thuế quan
Biện pháp phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan, có liên quan hoặc
ảnh hưởng trực tiếp đến sự luân chuyển hàng hoá giữa các nước. Đó là những biện

pháp mang tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lí, khoa học
hoặc bình đẳng. Hàng rào phi thuế quan thường được áp dụng đối với hàng nhập khẩu.
Hình thức của hàng rào phi thuế quan rất phong phú, gồm: các biện pháp hạn chế định
lượng, các biện pháp tương đương thuế quan, các rào cản kỹ thuật, các biện pháp liên
quan đến đầu tư nước ngoài, các biện pháp quản lý hành chính, các biện pháp bảo vệ
thương mại tạm thời.
1.3.3. Trợ cấp xuất khẩu:
Trợ cấp xuất khẩu [II.7] hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ dành riêng
cho hoặc liên quan tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ cấp là đẩy mạnh
xuất khẩu. Do đó, căn cứ để trợ cấp thông thường là lượng hàng hóa xuất khẩu thực sự
hoặc dự kiến xuất khẩu. Ví dụ: chương trình thưởng xuất khẩu của Chính phủ theo đó
doanh nghiệp được thưởng 100 đồng cho mỗi sản phẩm xuất khẩu được. Tuy nhiên,
việc chính phủ đơn thuần trợ cấp cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu
không thể nghiễm nhiên dẫn đến kết luận là trợ cấp xuất khẩu mà còn cần xem xét đến
một số yếu tố khác. Trợ cấp xuất khẩu thường có hệ quả là hàng xuất khẩu được bán
trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu.


15

Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp là các doanh nghiệp sản
xuất hàng hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để xuất khẩu, hay nói cách khác, hàng hoá
được trợ cấp phải là hàng hóa được tiêu thụ tại thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp
được trợ cấp phải là doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt ưu tiên các đơn vị sản xuất hàng
nông sản, thủ công mỹ nghệ và những hàng hoá Việt Nam có ưu thế về lợi thế so
sánh . Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
Ở Việt Nam Chính phủ áp dụng trợ cấp với một số mặt hàng như rau quả ( hỗ trợ
xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất khẩu), gạo, chè, cà phê, máy tính, tàu
biển… đều là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Trợ cấp xuất khẩu có thể
được tiến hành dưới nhiều hình thức, từ thưởng kim ngạch xuất khẩu đến cho vay với

lãi suất ưu đãi với hàng xuất khẩu hay áp dụng thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp
ưu đãi với ngành nghề xuất khẩu…
Chính phủ có thể trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất hoặc trợ cấp gián tiếp thông
qua đầu vào cho nhà sản xuất. Với mọi hình thức trợ cấp, lợi thế và khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trong những ngành được trợ cấp luôn được cải thiện và nâng cao.
Có thể nói rằng trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục
tiêu đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước. Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành
trợ cấp cho các doanh nghiệp và sản phẩm của nước mình nhằm đạt được một số mục
tiêu kinh tế-xã hội nhất định như bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành
non trẻ hay ngành trọng điểm của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập
của nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, v.v... Quyết định trợ cấp của
chính phủ thường được đưa ra nhằm phục vụ lợi ích của một đối tượng nhất định có
vai trò chi phối và ảnh hưởng chính trị lớn đối với chính phủ.
Đầu tiên, đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy
mô, yếu kém về năng lực cạnh tranh, thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh
tranh, mở rộng quy mô,góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành. Đối
với những công ty mới gia nhập thị trường, thiếu vốn để trang trải chi phí rất cao trong
thời gian đầu, khó cạnh tranh nổi những công ty đàn anh đã trụ vững trên thị trường thì
khi nhận được khoản hỗ trợ từ Chính phủ có thể bù đắp cho những khoản thô lỗ phát
sinh trong những năm đầu, từ đó đưa công ty vào quỹ đạo phát triển.


16

Ngoài ra, trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, h ạ n c h ế t h ấ t
n gh i ệ p, bảo đảm trật tự và an ninh xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho
các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản. Sự hỗ trợ
của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh chóng, thúc đẩy
các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh
trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường kinh doanh quốc tế tạo ra.

Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất
kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi lĩnh vực hoạt động không
hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc đẩy, phân bổ nguồn lực
thích hợp, hiệu quả và khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh với
nước ngoài.
Thêm vào đó, trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu
của doanh nghiệp. Hiện nay các nước áp dụng trợ cấp xuất khẩu vì nhiều lý do. Có
nước lập luận trợ cấp xuất khẩu để đảm bảo công ăn việc làm, hay để hỗ trợ vùng khó
khăn…Tuy nhiên mọi lý do biện minh trợ cấp xuất khẩu xét cho cùng thì đều hướng
tới mục tiêu thực sự là đẩy mạnh xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu còn làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được
trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác vào thị
trường thứ ba. Với lợi thế cạnh tranh nhờ trợ cấp hàng xuất khẩu của nước trợ cấp
có thể đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước khác và chiếm được thị phần
vượt mức hợp lý trong thương mại quốc tế.
1.3.4. Điều kiện mua bán quốc tế
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, doanh nghiệp không thể không quan tâm tới
điều kiện mua bán quốc tế [I.1.Tr.74] khi lựa chọn bạn hàng cũng như ký kết hợp
đồng. Điều kiện mua bán gồm điều kiện về giao dịch trong buôn bán quốc tế như điều
kiện về hàng hóa, phẩm chất, bao bì, giá cả, bồi thường, khiếu nại… và điều kiện cơ sở
giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc giao nhận hàng hóa giữa
bên bán và bên mua. Những cơ sở đó có thể là sự phân chia giữa bên bán và bên mua
về các trách nhiệm tiến hành việc giao nhận hàng, phân chia về các chi phí bốc hàng,
sự chuyển từ người bán sang người mua những rủi ro và tổn thất về hàng hóa. Do


17

những điều kiện cơ sở giao hàng khá rộng nên mỗi nước, mỗi khu vực có cách giải

thích khác nhau về cùng một điều kiện buôn bán quốc tế. Hiện nay, cách giải thích
được áp dụng phổ biến nhất là “ Quy tắc quốc tế giải thích các điều kiện thương mại
được nêu trong cuốn “ Điều kiện thương mại quốc tế” gọi là Incoterms. Đây có lẽ là
tài liệu không thể thiếu đối với mỗi nhà xuất khẩu để có thể nắm rõ các điều kiện khi
buôn bán quốc tế, từ đó chọn điều kiện để có lợi cho doanh nghiệp của mình nhất.
1.4. Vai trò và lợi ích của xuất khẩu trong sự phát triển của nền kinh tế
Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia [II.8]. Vai trò và lợi ích của xuất khẩu thể hiện ở những điểm sau:
1.4.1. Tạo nguồn vốn cho Nhập khẩu:
Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề công nghiệp hóahiện đại là vô cùng quan trọng để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát
triển. Đó được coi là nhiệm vụ trọng tâm cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam. Tuy nhiên, để tiến hành Công nghiệp hóa- hiện đại hóa, phải đáp ứng
các điều kiện về nhân lực, vốn, kỹ thuật và tài nguyên, mà hiện nay không phải bất cứ
quốc gia đang phát triển nào cũng đáp ứng được cả bốn yếu tố đó.
Thực tế cho thấy để Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đòi hỏi phải có nguồn vốn
lớn để nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị tiên tiến. Thông thường để có nguồn
-

vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng nguồn vốn huy động từ các nguồn như:
Từ tích lũy trong nền kinh tế quốc dân.
Đầu tư nước ngoài.
Vay nợ, xin viện trợ.
Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ trong nước.
Thu từ hoạt động xuất khẩu.
Như vậy, xuất khẩu là một trong những hoạt động tạo nguồn vốn rất quan trọng.
Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu phát triển, nó quyết định qui mô và tốc độ tăng
trưởng của hoạt động nhập khẩu.
1.4.2. Góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng
phát triển của kinh tế thế giới là điều tất yếu đối với các nước đang và kém phát triển.

Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu tới hoạt động sản xuất, chuyển

-

dịch cơ cấu, thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng:
Xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa so với nhu cầu của nội địa. Trong trường
hợp nền kinh tế còn lạc hậu, chậm phát triển sản xuất về cơ bản là chưa đủ tiêu dùng,


18

nếu chỉ thụ động chờ sự “ thừa ra” của sản xuất để xuất khẩu thì hoạt động xuất khẩu
-

chỉ phát triển ở qui mô nhỏ và tăng trưởng chậm.
Coi thị trường thị giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này còn tác
động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, thể hiện ở
chỗ:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành hàng cùng có cơ hội phát triển. Ví dụ khi
phát triển ngành dệt phục vụ xuất khẩu thì các ngành chế biến nguyên liệu bông, may
mặc cũng có cơ hội phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần ổn định
sản xuất.
Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn và thu hút khoa học, công
nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa kinh tế nội địa, tạo ra năng lực sản
xuất mới.
Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu quả
sản xuất của từng quốc gia. Khoa học ngày cáng phát triển thì phân công lao động
ngày càng sâu sắc. Ngày nay, với một loại hàng hóa, người ta có thể thiết kế ở nước
thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp đặt ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh

toán cũng có thể ở nước khác. Như vậy, hàng hóa sản xuất ra ở một nước nhưng có thể
tiêu thụ ở nhiều nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất
khẩu đối với chuyên môn hóa sản xuất, tạo điều kiện cho các quốc gia tiến hành
chuyên môn hóa một cách sâu sắc.
Với đặc điểm đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên, xuất
khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đặc biệt đối với những nước nghèo,
đồng tiền nội tệ có giá trị thấp thì đó là nhân tố tác động rất tích cực vào cung cầu
ngoại tệ, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Thực tế đã chứng minh,
những nước phát triển là những nước ngoại thương mạnh và năng động.
1.4.3. Nâng cao trình độ lao động, quản lý
Khi tham gia vào kinh doanh quốc tế, tất yếu sẽ đặt các doanh nghiệp vào một
môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó nếu muốn tồn tại và phát triển được thì đòi
hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, hạ giá
thành sản phẩm. Đây sẽ là một nhân tố thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.4.4. Xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân


19

Hơn 70% dân số sống ở nông thôn, dựa chủ yếu vào nguồn lợi tự nhiên. Phát
triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thủy sản trong thời gian qua đã làm thay đổi bộ
mặt nông thôn, nhất là những vùng trồng cà phê, cao su (Tây Nguyên), lúa gạo, thủy
sản (Đồng bằng sông Cửu Long). Xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như
dệt may, da giày, thủy công mỹ nghệ, điện tử, đồ gỗ... thu hút một lượng lao động lớn,
cải thiện đời sống của người dân lao động. Mặc dù, xuất khẩu của nước ta trong thời
gian qua chưa thể hiện được xu hướng công nghiệp hóa, nhưng đóng góp về mặt xã
hội là rất to lớn. Vấn đề chênh lệch giàu nghèo ở nước ta hiện nay cũng có nguyên
nhân từ việc chia sẻ chưa hợp lý lợi ích từ xuất khẩu. Trong nền kinh tế thị trường,
khác nhau về năng lực dẫn đến khác nhau về thu nhập là tất yếu khách quan. Tuy

nhiên, một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng bằng cách dựa vào khai thác nguồn
lợi tự nhiên một cách phi pháp, trục lợi bằng những cách thức kinh doanh thiếu lành
mạnh. Kinh doanh xuất khẩu mang lại lợi nhuận cao và cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ
phân hóa sâu sắc giàu nghèo.


20

CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU RAU QUẢ VIỆT NAM SAU KHI GIA
NHẬP WTO SANG MỘT SỐ NƯỚC CHÂU ÂU
2.1. Lợi thế của Việt Nam về sản xuất và xuất khẩu rau quả
2.1.1. Lợi thế về điều kiện tự nhiên
Việt Nam là nước có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển các cây rau quả.
Đặc biệt là các vùng phía Nam có điều kiện khí hậu rất thuận lợi, nhiệt độ trung bình
vào khoảng 27,50C, thích hợp cho điều kiện sống của các loại rau và trái cây nhiệt đới.
Cộng thêm điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi và 75% dân số làm nghề nông, diện tích
canh tác rau, quả vào khoảng 1,5 triệu ha, Việt Nam được đánh giá là nước có nhiều
tiềm năng phát triển ổn định, lâu dài trong sản xuất và xuất khẩu rau, quả. Với lợi thế
điều kiện tự nhiên trên, rau quả Việt đã trở nên phong phú, đa dạng và hiện đã hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa tương đối lớn như vải thiều Hải Dương, nhãn lồng
Hưng Yên, cam quýt Hà Giang, Tuyên Quang; dứa Ninh Bình, Tiền Giang, Hậu
Giang; thanh long Bình Thuận, Ninh Thuận; xoài Tiền Giang, Đồng Tháp; chôm chôm
Đồng Nai, bưởi Bến Tre…
2.1.2. Lợi thế sau khi gia nhập WTO
Một trong những lý do khiến Việt Nam muốn gia nhập WTO là tìm cách thúc
đẩy xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như nông thủy sản, dệt may…. Tác động tới xuất
khẩu là tích cực bởi sau khi gia nhập WTO, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ được
hưởng một môi trường ổn định và bình đẳng hơn ở thị trường nước ngoài. Khi gia
nhập WTO, theo quy định, các doanh nghiệp Việt Nam được phép đấu thầu tại các
nước thành viên. Trước đây, mặt hàng nông sản Việt Nam khó vào được các thị trường

Mỹ, EU, Nhật vì thuế cao và bị phân biệt đối xử; sau khi gia nhập chúng ta có cơ hội
tiếp cận các thị trường một cách thuận lợi hơn, tìm kiếm được nhiều bạn hàng hơn
cũng như được các thị trường này áp dụng ưu đãi thuế quan.Và thực tế, sau khi gia
nhập WTO, riêng ngành rau quả cũng đã có những chuyển biến tích cực hơn, từ năm
2007 chỉ đạt 299 triệu tới năm 2011 đạt đạt 628 triệu USD. Hiện nay, rau quả Việt
Nam cũng đang từng bước thâm nhập vào các thị trường khó tính trên thế giới, như
Châu Âu và Mỹ.
2.1.3. Lợi thế so sánh của rau quả Việt Nam


21

Như phần lý thuyết ở chương 1 đã nhắc tới lý thuyết lợi thế so sánh của David
Ricardo, chúng ta có thể dựa vào đó để tìm ra các lợi thế so sánh của rau quả Việt Nam
so với rau quả ở các nước khác. Để từ đó, tăng cường phát triển những lợi thế này
nhằm nâng cao sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu. Một số lợi thế so sánh của
rau quả Việt Nam như:
• Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy
da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về
như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do
đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ: Chi
phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc sâu bệnh và các
loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 đến 20% giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo.
Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80 đến 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho
đất nước, chỉ số này đối với nhân hạt điều xuất khẩu là khoảng 27% và 73%. Đây là
lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng
các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn
nhiều ngoại tệ.
• Thứ hai: Ngành rau quả nói riêng và ngành nông sản nói chung sử dụng
nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện

nay của ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người
bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi
năm cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các
nước khác trong khu vực, phổ biến với mức 1- 1,2 USD/ngày công lao động như trong
sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay, một số công việc nặng nhọc như đánh bắt cá ngừ, thu
hoạch mía hay thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với giá nhân
công cao cũng mới chỉ là 2-2,5 USD/ngày công lao động, nhưng vẫn còn rẻ hơn so với
Thái Lan từ 2-3lần. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và thế giới.
• Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho
việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải,
tỏi, khoai tây… Trong khi cũng vào thời gian này ở cả vùng Viễn Đông của Liên bang
Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được
gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ


22

cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện
tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của
người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả đó.
• Thứ tư: Một số ít nông sản được các nước phát triển ở châu âu; Bắc Mỹ ưa
chuộng như nhân dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi
trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các
cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất.
• Thứ năm: Các nước Đông âu, SNG và Trung Quốc vốn là thị trường truyền
thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt hàng nông sản của Việt
Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân và doanh nghiệp
Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường tiêu
thụ mà bấy lâu nay nước ta đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả.
• Thứ sáu: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật

của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự
do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu.
2.2. Tổng quan về thị trường các nước Châu Âu ( EU)
Thị trường Châu âu ( EU)[II.9] là một thị trường chung lớn nhất thế giới. Thị
trường EU phát triển vượt xa khỏi những hiệp định mậu dịch tự do giữa các thành
viên. Đây là một liên hiệp về hải quan và tiền tệ mang tính hòa hợp chung với các
chính sách phù hợp nhất. Tuy nhiên EU cũng là một thị trường bao gồm nhiều thị
trường khác nhau: 27 nước thành viên, 27 khối dân số, văn hóa kinh tế khác nhau...EU
có một mạng lưới vận chuyển rộng lớn và phát triển với nhiều cảng biển, tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại.
2.2.1. Thị trường rau quả Châu Âu
Năm 2008, EU là khu vực sản xuất nhiều các loại rau với sản lượng đạt gần 20
triệu tấn[II.21]. Các nước sản xuất lớn nhất trong khu vực Châu Âu là các nước ở miền
Nam Châu Âu như Ý( 32%), Tây Ban Nha ( 23%), Pháp( 8,1%), Hy lạp( 7,5%) và Bồ
Đào Nha( 6,0%). Các loại rau quả được sản xuất chủ yếu tập trung vào các loại rau
quả ôn đới như táo,chanh, và các loại rau xứ lạnh như bắp cải, xà lách, cà rốt…Sản
lượng của các nước này chiếm 77% tổng sản lượng rau quả của EU. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây sản lượng rau quả của EU có xu hướng giảm dần tại hầu hết các
nước sản xuất lớn. Nguyên nhân một phần là do bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết


23

xấu trong các mùa vụ, cộng thêm điều kiện khí hậu ở các nước ở miền Bắc Châu Âu
thì không thuận lợi cho việc trồng trọt một số loại rau quả nhiệt đới nên rõ ràng nhu
cầu nhập khẩu rau quả ở khu vực là rất lớn.
Trong giai đoạn từ năm 2004-2009, nhập khẩu rau quả vào EU tăng trưởng ở
mức 1,8%/năm. Nhập khẩu từ các nước phát triển tăng nhanh hơn ( 3,8%/năm). Năm
2009, EU nhập khẩu từ các nước đang phát triển các loại rau quả gồm: cà chua ( 35%),
đậu (26%), hành tây và hẹ tây (13%), măng tây (10%), đậu Hà Lan (6,2%), tỏi (6,2%)

với tốc độ tăng 5,1% mỗi năm. Với điều kiện kinh tế cải thiện, nhập khẩu từ các nước
đang phát triển dự kiến sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng chung trên thị
trường thế giới.


24

Bảng 2: So sánh nhu cầu, sản xuất và nhập khẩu theo quốc gia
(đơn vị 1.000 tấn)
Tỷ lệ % Chỉ
NK từ

Tổng nhu cầu

Tổng sản lượng

Tổng nhập
khẩu

Nhập khẩu từ
các nước đang
phát triển

số

các nước hấp
đang

dẫn


phát
triển
trong
tổng NK

EU 27
Pháp
Vương

Khối

Tăng

lượng

trưởng

2008 '04-'08
21.441 -3,5%
2.047 -2,2%
quốc 1.519 3.1%

Anh
Hà Lan
Tây Ban Nha
Bulgaria
Ý
Bỉ
Romania
Đức

Hy Lạp
Ba Lan
Úc
Slovakia
Hungary
Ireland
Slovenia
Đan Mạch
Cộng hoà Séc
Estonia
Thuỵ Điển

n.a.
3.304
280
6.409
614
1.109
1.265
1.492
693
85,6
131
399 143
49
73
229
29
194


8,6%
-2,1%
- 4,5%
-5,7%
0,2%
-10%
-2,8%
-8,8%
11%
12%
3,2%
2,6%
9,2%
-0,7%
1,9%
7,6%
2,0%
-1,0%

Khối

Tăng Khối Tăng

Khối

Tăng

lượng trưởng lượng trưởng lượng trưởng
2008
19.561

1.583
367

'04-'08
-4,2%
- 2,8%
-3,9%

2009
6.847
865
1.145

'04-'09
1,8%
1,2%
3,2%

884
4.425
173
6.319
361
974
293
1.461
804
62
64
367

16
8,3
30
37
5,7
56,2

0,4% 633 7,8%
-2,7% 499 9,5%
-12% 111 18%
-5,8% 372 3,5%
-4,5% 547 -0,6%
-10% 90 -15%
8,7% 1.180 -3,2%
-8,8% 47 -8,3%
4,5% 215 2,7%
7,0% 111 2,2%
-3,2% 72
10%
-2,3% 51 0,8%
5,5% 110 4,0%
-1,1% 53 4,6%
-3,2% 77 7,1%
3,6% 222 8,2%
4,7% 29 5,5%
-3,2% 145 0,6%

2009
1.201
386

175

'04-'09
3,8%
7,5%
3,7%

18%
45%
15%

+++
+++

155
146
97
53
50
35
31
18
12
10
6,6
6,3
6,0
4,3
2,8
2,5

1,9
1,2

8,1%
7,2%
31%
0,3%
-3,0%
-19%
2,4%
-17%
-2,8%
3,8%
-1,7%
-5,5%
-0,6%
-4,8%
15%
-26%
8,5%
4%

24%
29%
87%
14%
9,1%
39%
2,6%
39%

5,7%
9,2%
9,1%
12%
5,5%
8,2%
3,7%
1,1%
6,5%
0,8%

+++
++
+++
++
++
+
++
+/++
+/+/+
+
+
+
+


25

Latvia
Lithuania

Bồ Đào Nha
Malta
Síp
Luxembourg
Phần Lan

31,4
25
1.180
19
31
8,4
83

-8,2%
-8,9%
-2,4%
0,1%
-6,1%
-1,5%
2,4%

0,6
5,4
1.178
16
27
0,1
46


-49%
-1,6%
-1,0%
0,5%
-7,7%
-14%
3,3%

30
61
125
2,0
5,7
7,4
42

-3,5% 0,8
12%
0,6
1,0% 0,3
-4,0% 0,1
8,9% 0,04
-5,4%
0
3,6%
0

-11%
9,1%
7,8%

-20%
-17%
n.a.
n.a.

2,5%
1,0%
0,2%
3,6%
0,7%
0%
0%

Nguồn: FAOSTAT và EUROSTAT
2.2.2. Xu hướng tiêu dùng
Biểu đồ 1: Kim ngạch nhập khẩu rau quả của thị trường EU từ năm 2004-2009
(ĐVT: tỷ Euro)

Nguồn: Theo Eurostat
Hàng năm, EU nhập khẩu rau quả nhiều nhất từ khu vực Nam Mỹ, chiếm
khoảng 28% tổng giá trị nhập khẩu rau quả nói chung [II.10]. Với ưu thế thuận lợi về
địa lý, Thổ Nhĩ Kỳ cũng là thị trường cung cấp rau quả thường xuyên cho các quốc gia
ở châu Âu. Tiếp đến là hai nhà xuất khẩu lớn là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Việt Nam
cũng xuất khẩu nhiều loại trái cây và rau quả sang EU nhưng thị phần còn thấp, chỉ
chiếm khoảng 0,3%.
Bảng 3: Thị phần nhập khẩu rau quả của các nước nước vào Châu Âu năm 2008
Thị trường

Trị giá


Tỷ trọng (%)

(triệu Euro)
Thổ nhĩ kỳ

2.316

10,9

Hoa kỳ

1.669

7,9

+/+
-


×