Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Giải pháp phát triển các doanh nghiệp Logistics của Việt Nam trong hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.3 KB, 47 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Tr- êng §¹i häc kinh tÕ quèc d©n
------------

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Đề tài:

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP LOGISTICS
CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Giảng viên hướng dẫn : GS.TS. ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO
Sinh viên thực hiện

: NGUYỄN THÀNH LUÂN

MSV

: CQ532365

Lớp

: QTKD Thương Mại 53A

Hµ Néi - 2014


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................3
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP
LOGISTICS...............................................................................................................5
1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp Logistics .................................5


1.1. Khái niệm: ...........................................................................................................5
1.1.1. Doanh nghiệp ...................................................................................................5
1.1.2. Logistics ............................................................................................................5
1.2.Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển dịch vụ logistics, nhà cung ứng
dịch vụ logistics. .........................................................................................................6
1.3.Vai trò của doanh nghiệp logistics ......................................................................8
1.3.1. Doanh nghiệp Logistics góp phần làm giảm chi phí lưu thông, chi phí .....9
1.3.2. Doanh nghiệp logistics tạo thêm giá trị gia tăng và cung cấp dịch vụ khách
hàng. ........................................................................................................................10
1.3.3. Logistics là công cụ marketing hiệu quả giúp các doanh nghiệp sản xuất
thâm nhập thị trường ...............................................................................................10
1.4.Phân loại: ...........................................................................................................11
1.5.Những nhân tố cơ bản và sự tác động đến hoạt động các Doanh nghiệp
logistics Việt Nam hiện nay. ....................................................................................13
1.4.1. Cơ sở hạ tầng..................................................................................................13
1.4.2. Công nghệ thông tin......................................................................................14
1.4.3. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành......................................15
1.4.4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế .........................................................16
CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CÁC DOANH NGHIỆP
LOGISTICS Ở VIỆT NAM. ..................................................................................19
1. Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của các doanh nghiệp logistics trong
nước. .........................................................................................................................19
2. Thực trạng hệ thống doanh nghiệp Logistics của Việt Nam...........................21
2.1. Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh tuy nhiên đa số trong đó là doanh nghiệp
nhỏ, chưa thiết lập được hệ thống mạng lưới toàn cầu .........................................21
2.2. Hoạt động ở các doanh nghiệp còn manh mún, thiếu kinh nghiệm, chuyên
nghiệp........................................................................................................................23

SV: Nguyễn Thành Luân


1

Lớp: QTKD Thương mại 53A


2.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Logistics Việt Nam còn yếu, cạnh
tranh chủ yếu qua giá, thiếu sự liên kết..................................................................25
2.4. Nguồn nhân lực: ...............................................................................................27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................29
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHO CÁC

DOANH NGHIỆP

LOGISTICS VIỆT NAM TRONG MÔI TRƯỜNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ ..30
1. Mục tiêu, quan điểm và cơ sở đề xuất giải pháp ..............................................30
1.1. Mục tiêu đề xuất giải pháp ...............................................................................30
1.2. Quan điểm đề xuất giải pháp............................................................................30
1.3. Căn cứ đề xuất giải pháp. .................................................................................31
2. Giải pháp cạnh tranh và phát triển cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam
giai đoạn hội nhập quốc tế......................................................................................31
2.1. Giải pháp tầm vĩ mô. .........................................................................................31
2.1.1. Nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động logistics. .............31
2.1.2. Nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực phục vụ cho ngành
logistics......................................................................................................................33
2.1.3. Nâng cao vai trò hỗ trợ của Chính phủ và VLA cho các doanh nghiệp
logistics Việt Nam trong giai đoạn đầu phát triển. .................................................34
2.2. Giải pháp tầm vi mô. .........................................................................................37
2.2.1. Củng cố nội lực khắc phục những yếu kém hiện tại so với đối thủ cạnh
tranh..........................................................................................................................37
2.2.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ, tiến hành cung ứng dịch vụ giá trị gia tăng

và tích hợp dịch vụ giá trị gia tăng vào chuỗi cung ứng........................................40
2.3. Kiến nghị. ..........................................................................................................43
2.3.1. Kiến nghị đối với nhà nước. ..........................................................................43
2.3.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp..............................................................43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3: ......................................................................................44
KẾT LUẬN ..............................................................................................................45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................46

SV: Nguyễn Thành Luân

2

Lớp: QTKD Thương mại 53A


LỜI MỞ ĐẦU
1, Lý do và ý nghĩa của đề tài:
Bối cảnh quốc tế hóa và toàn cầu hóa cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa
học kỹ thuật đã mang đến cho mỗi đất nước những cơ hội tham gia và thị trường
toàn cầu. Trên thế giới hiện nay,hoạt động thương mại quốc tế diễn ra sôi động với
mức tăng trưởng ngày càng cao. Các nước phát triển đã khai thác các hoạt động này
để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế quốc gia. Còn các nước đang phát triển (trong
đó có Việt Nam) lại tận dụng các điều kiện đó thông qua việc phát triển nền kinh tế
hướng về xuất khẩu .
Nhưng để vận chuyển hàng hóa (nguyên, vật liệu và thành phẩm) từ địa điểm
này sang địa điểm khác đặc biệt là giữa các quốc gia một cách nhanh chóng với chi
phí thấp và độ an toàn cao thì việc ứng dụng logistics là rất quan trọng.
Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đang diễn ra rất
sôi động và có đóng góp quan trọng cho việc phát triển kinh tế. Cùng với sự mở
rộng của hoạt động thương mại quốc tế, dịch vụ logistics cũng đã được hình thành

và bước đầu phát triển tại Việt Nam. Sự phân công lao động ngày càng mạnh mẽ đã
hình thành nên những công ty chuyên cung cấp dịch vụ logistics.
Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) và mở cửa 11
ngành dịch vụ trong đó có lĩnh vực vận tải sẽ mang đến cho ngành dịch vụ logistics
của nước nhà không những cơ hội mà cả thách thức để phát triển. Hệ thống các
doanh nghiệp logistics Việt Nam tuy đông về số lượng nhưng vẫn còn nhiều bất cập
mà nổi trội hơn cả chính là hiệu quả hoạt động. Nếu như không có sự thay đổi trong
hoạt động logistics của mình, các doanh nghiệp Logistics Việt Nam sẽ thất thế ngay
trên thị trường của mình. Chính vì vậy, để đối phó với môi trường cạnh tranh vô
cùng gay gắt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, việc phải có được các giải pháp phù
hợp cho các doanh nghiệp logistics nói riêng và toàn bộ ngành logistics nói chung là
một yêu cầu cấp bách về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Theo đó, em đã quyết định chọn đề tài “Giải pháp phát triển các doanh
nghiệp logistics của Việt Nam trong hội nhập quốc tế” với mong muốn đóng góp
những hiểu biết của mình về lĩnh vực logistics.
2, Mục đích nghiên cứu của đề tài:
SV: Nguyễn Thành Luân

3

Lớp: QTKD Thương mại 53A


- Nghiên cứu bản chất của dịch vụ logistics, các dịch vụ được cung cấp bởi
các doanh nghiệp logistics và vai trò của chúng đối với nền kinh tế nói chung, đối
với các doanh nghiệp nói riêng.
- Đánh giá môi trường kinh doanh logistics ở Việt Nam hiện nay và thực
trạng kinh doanh logistics ở các công ty Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại giúp cho các doanh
nghiệp logistics Việt Nam cạnh tranh và phát triển trong môi trười hội nhập quốc tế.

3, Kết cấu của đề án:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề án
được trình bày thành 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về Doanh nghiệp logistics
Chương II: Thực trạng phát triển các doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Chương III: Giải pháp phát triển các doanh nghiệp logistics Việt Nam trong
hội nhập quốc tế

SV: Nguyễn Thành Luân

4

Lớp: QTKD Thương mại 53A


CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP
LOGISTICS
1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp Logistics
1.1. Khái niệm:
1.1.1. Doanh nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Điều 4), doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Logistics
Trước hết về từ “logistics”, Logistics có người dịch ra là hoạt động hậu cần
bởi nó bắt nguồn từ quân sự hay lại nói đó là dịch vụ giao nhận kho vận. Tuy nhiên,
tất cả các cách dịch đó đều chưa thỏa đáng, không phản ánh đúng bản chất của
logistics bởi nó là một từ bao hàm nghĩa quá rộng giống như trường hợp của từ
marketing vậy. Cách tốt nhất là giữ nguyên là “logistics”.
Về khái niệm, theo Ủy ban kinh tế xã hội Châu Á – Thái Bình Dương

(ESCAP) thì: Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và chu chuyển hàng
hóa từ điểm xuất phát đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hàng loạt các
hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó, ta có thể kể đến các khái niệm khác về Logistics
như:
- Logistics là quá trình xây dựng kế hoạch, cung cấp và quản lý việc chu
chuyển và lưu kho có hiệu quả hàng hóa dịch vụ và các thông tin liên quan từ nơi
xuất xứ tới nơi tiêu thụ vì mục tiêu đáp ứng nhu cầu của khách hàng (World
Marintime University- Đại học Hàng Hải Thế giới. D.Lambert. 1998).
- Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện
việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn
nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như
các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay
người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. ( Ủy ban Quản lý
Logistics của Hoa Kỳ)
- Trong luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233 - mục 4 – Chương
VI): “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực
SV: Nguyễn Thành Luân

5

Lớp: QTKD Thương mại 53A


hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm: nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì,
ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo
thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các khái niệm về dịch vụ
logistics có thể chia làm hai nhóm:
- Nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của luật Thương mại

2005, coi Logistics gần như tương tự với hoạt động giao nhận hàng hóa. Tuy nhiên
cũng cần chú ý là định nghĩa trong luật thương mại có tính mở, thể hiện trong đoạn
in nghiêng “hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa”. Theo trường phái
này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình
vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Theo họ, dịch vụ logistics
mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics theo khái niệm này
không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức
(MTO).
- Nhóm định nghĩa thứ hai về dịch vụ logistics có phạm vi rộng, có tác động
từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
Theo nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên,
nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào
các kênh lưu thông, phân phối để đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
1.1.3. Như vậy, hiểu theo cả nghĩa rộng và hẹp, tôi đồng ý với quan điểm
“Doanh nghiệp Logistics là doanh nghiệp thực hiện dịch vụ phân phối và lưu thông
hàng hóa dưới sự tổ chức và quản lý khoa học việc lập kế hoạch, dịch vụ … từ điểm
khởi nguồn sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng với chi phí thấp nhất nhằm
đảm bảo cho quá trình sản xuất xã hội tiến hành được nhịp nhàng, liên tục và đáp
ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng”.
1.2. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển dịch vụ logistics, nhà
cung ứng dịch vụ logistics.
Sự phát triển của dịch vụ logistics bắt nguồn từ sự thay đổi trong sản xuất.
Người bán hàng hóa không nhất thiết phải là nhà sản xuất và người mua cũng
không nhất thiết phải là người tiêu dùng cuối cùng. Và để tránh ứ đọng vốn, các nhà
SV: Nguyễn Thành Luân

6

Lớp: QTKD Thương mại 53A



sản xuất kinh doanh luôn tìm cách duy trì một lượng hàng dự trữ nhỏ nhất. Điều này
đòi hỏi các nhà giao nhận vừa phải đảm bảo giao hàng đúng lúc (JIT), vừa phải tăng
cường vận chuyển những chuyến hàng nhỏ nhằm giúp những nhà sản xuất kinh
doanh thực hiện mục tiêu tối thiểu hàng tồn kho (Minimum stock).
Mặt khác, cuộc cách mạng Container hoá trong vận tải diễn ra trong những
năm 70 của thế kỷ XX đã giải quyết được tình trạng ùn tắc tại các đầu mối giao
thông khác. Điều này đã giúp các nhà vận chuyển tìm ra một phương pháp vận tải
mới để đưa hàng hóa từ nơi gởi đến nơi nhận một cách thông suốt, đó là vận tải đa
phương thức. Người gửi hàng chỉ cần ký hợp đồng vận tải với một nhà kinh doanh
vận tải đa phương thức (Multimodal Transport Operator – MTO) để thực hiện toàn
bộ việc vận chuyển hàng hoá của mình.
Ban đầu, dịch vụ logistics được thuê ngoài là dịch vụ vận chuyển và giao
nhận. Hàng hóa đi từ nước người bán đến nước người mua thường dưới hình thức
hàng lẻ, phải qua tay nhiều người vận tải ở mỗi phương thức vận tải khác nhau. Vì
vậy xác suất rủi ro mất mát xảy ra đối với hàng hóa là rất lớn do người gửi hàng
phải ký nhiều hợp đồng vận tải riêng biệt với từng người vận tải thực sự và trách
nhiệm của mỗi người vận tải chỉ giới hạn trong dịch vụ hay chặng đường của người
đó đảm nhiệm. Vào những năm 60, 70 của thế kỷ này, cách mạng container hóa
trong vận tải đã đảm bảo an toàn và độ tin cậy trong di chuyển hàng hóa là tiền đề
cho sự ra đời của vận tải đa phương thức.
Sau đó khách hàng rất cần một người đứng ra tổ chức mọi công việc ở tất cả
các công đoạn liên quan để tiết kiệm tối đa thời gian, chi phí và rủi ro phát sinh
nhằm gia tăng lợi nhuận. Từ đó, những người vận tải đa phương thức ngoài làm vận
chuyển, giao nhận đã kiêm thêm các khâu liên quan đến quá trình sản xuất hàng hóa
như: gia công, chế biến lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, lưu kho và giao
nhận. Hoạt động giao nhận vận tải thuần túy đơn lẻ đã chuyển dần sang hoạt động
tổ chức toàn bộ dây chuyền phân phối vật chất và trở thành một bộ phận khăng khít
của chuỗi mắt xích “cung-cầu”. Xu hướng đó không những đòi hỏi phải phối hợp
liên hoàn tất cả các phương thức vận tải, mà còn đòi hỏi phải kiểm soát được các

luồng thông tin, luồng hàng hóa và luồng tài chính. Chỉ khi tối ưu được toàn bộ quá
trình này thì mới giải quyết được vấn đề đặt ra là: vừa tăng lợi nhuận cho các doanh
SV: Nguyễn Thành Luân

7

Lớp: QTKD Thương mại 53A


nghiệp sản xuất hàng hóa, vừa tăng lợi nhuận cho các đơn vị kinh doanh dịch vụ
vận tải giao nhận, bảo đảm được lợi ích chung của các bên tham gia vào dây
chuyền. Hoạt động giao nhận vận tải thuần túy chuyển sang hoạt động tổ chức toàn
bộ dây chuyền vận động của hàng hóa- đó chính là hoạt động logistics. Như vậy, do
sự thay đổi của môi trường kinh doanh toàn cầu đã đặt ra nhu cầu cho ngành dịch
vụ logistics hình thành và phát triển.
Từ sự phân tích trên chúng ta thấy rằng dịch vụ logistics chính là sự phát
triển ở giai đoạn cao của các khâu dịch vụ giao nhận kho vận, điều phối hàng hóa từ
khâu tiền sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng qua các công đoạn: dịch
chuyển, lưu kho và phân phát hàng hóa. Trong quá trình lưu chuyển hàng hóa, đồng
thời cũng có sự lưu chuyển của các dòng thông tin của dịch vụ logistics. Vì vậy,
ngày nay nhiều công ty giao nhận kho vận và nhiều hiệp hội giao nhận kho vận ở
các nước đã đổi tên thành công ty cung cấp dịch vụ logistics và Hiệp hội các nhà
cung cấp dịch vụ logistics.
Như vậy dịch vụ logistics là những hoạt động giúp cho hoạt động logistics
của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục mà không nhất thiết
phải do chính doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thực hiện. Ban đầu do doanh
nghiệp không đủ khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động của mình khi qui mô mở
rộng buộc doanh nghiệp phải thuê bên ngoài thực hiện các hoạt động trong chuỗi
logistics. Dần dần, các doanh nghiệp phát hiện hiệu quả hơn nên đã chuyển sang
thuê các doanh nghiệp dịch vụ tiến hành thực hiện thay mình các hoạt động

logistics. Từ đó hình thành nên các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics như
hiện nay.
1.3.

Vai trò của doanh nghiệp logistics

Nếu người ta xem Marketing là vũ khí chiến lược trong cạnh tranh vào những năm
của thế kỷ XX thì trong thế kỷ XXI vai trò này đã nhường lại cho hoạt động
logistics. Do vậy, dịch vụ logistics hoàn hảo sẽ là vũ khí quan trọng trong thời đại
ngày nay.
1.3.1.

Doanh nghiệp Logistics góp phần làm giảm chi phí lưu thông, chi phí sản

xuất và chi phí cơ hội cho doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại.

SV: Nguyễn Thành Luân

8

Lớp: QTKD Thương mại 53A


-

Chi phí lưu thông: Dịch vụ logistics không chú trọng tiết kiệm chi phí cho một

khâu nhất định mà là chú trọng vào tính hiệu quả trong cả quá trình, nghĩa là cung
cấp dịch vụ với tổng chi phí nhỏ nhất.
* Với chi phí vận chuyển:

Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tự khai thác phương tiện vận tải của chính
mình thường không đạt hiệu quả do lượng hàng không cho phép khai thác tốt nhất
phương tiện trong tất cả các ngày làm việc hoặc xe chỉ chở một chiều. Trong khi đó
thông qua doanh nghiệp dịch vụ logistics xe sẽ chạy hai chiều đi và về đều có hàng,
container sẽ đầy hơn do việc ghép chung hàng của các đơn vị thuê ngoài dịch vụ
khác nhau.
Ngoài ra, dựa vào phương thức vận chuyển đa phương thức người cung cấp dịch vụ
logistics giúp người gửi hàng giảm chi phí bằng cách kết hợp các loại phương tiện
vận tải khác nhau như máy bay, xe lửa, ôtô, tàu biển… Các dịch vụ đóng gói và lắp
ráp tại nơi tiêu thụ cũng giảm được trọng lượng và thể tích chuyên chở.
*

Với chi phí lưu kho: Với việc thiết kế và bố trí kho hợp lý, quản lý lượng hàng

tồn kho bằng máy tính để cập nhật thông tin hàng ngày, các doanh nghiệp có thể
giảm hoàn toàn chi phí lưu kho.
*

Với chi phí và lãi suất ngân hàng: Với việc giảm lượng hàng tồn kho cũng như

các chi phí vận tải và các chi phí khác, doanh nghiệp cần một lượng vốn ít hơn phục
vụ cho đầu tư vào những lĩnh vực là thế mạnh của mình do đó nhu cầu vay vốn
giảm, chi phí cho lãi suất tiền vay cũng giảm theo.
- Chi phí sản xuất:
Thông qua dịch vụ logistics, hàng hóa sẽ có được dòng chảy đầu vào đảm bảo và
chất lượng. Một dịch vụ logistics tốt sẽ cung ứng sản phẩm ngay đúng lúc thị
trường cần. Và trong mối liên hệ trong sản xuất là đầu ra của một tổ chức này chính
là một đầu vào của tổ chức khác. Hơn nữa, với cơ sở vật chất và thông tin hiện đại,
các nhà cung ứng này có thể cung ứng hàng hóa với chất lượng và thời gian đảm
bảo hơn cho các nhà sản xuất.

Doanh nghiệp logistics có thể tham gia vào quá trình tư vấn nguyên vật liệu ngay từ
quá trình thiết kế sản phẩm giúp rút ngắn thời gian chuẩn bị cho sản phẩm mới. Hơn
nữa dịch vụ logistics tốt đảm bảo nguyên vật liệu đi đúng theo lịch trình và đáp ứng
SV: Nguyễn Thành Luân

9

Lớp: QTKD Thương mại 53A


kịp thời cho kế hoạch sản xuất tránh tình trạng ngắt quãng sản xuất do thiếu nguyên
vật liệu.
Bên cạnh đó dịch vụ logistics góp phần hợp lý hóa các giai đoạn sản xuất. Thay vì
sản xuất tại một địa điểm từ công đoạn đầu đến cuối thì nhà sản xuất có thể phân bổ
một số công đoạn như lắp ráp, gia công nhằm tận dụng nguồn nhân lực rẻ hay
nguồn nguyên liệu dồi dào.
Với sự cung ứng nguyên vật liệu đúng lúc, bảo đảm và sự thiết kế địa điểm sản xuất
hợp lý sẽ giúp giảm thiểu chi phí sản xuất mà không ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm.
- Chi phí cơ hội:
Thay vì các doanh nghiệp đầu tư dàn trải vào những lĩnh vực mình không có lợi thế
cạnh tranh mà chiếm nhiều vốn như nhà kho, đội vận tải, họ có thể tập trung vào
việc tạo ra sản phẩm độc đáo để tăng sức cạnh tranh.
Chi phí cơ hội còn thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp có thể giao hàng đúng lúc
không gây ứ đọng vốn do sản xuất theo đúng nhu cầu, tránh được chi phí lưu kho và
tồn đọng hàng hóa.
Tóm lại, để giảm chi phí mà không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, doanh
nghiệp logistics có thể cung cấp các dịch vụ từ nguồn vào tới việc bố trí sản xuất
hiệu quả cũng như tránh được việc đầu tư dàn trải nhờ vậy không những không làm
giảm chất lượng hàng hóa mà còn nâng cao hiệu quả sản xuất.

1.3.2.

Doanh nghiệp logistics tạo thêm giá trị gia tăng và cung cấp dịch vụ khách

hàng.
Ngày nay người mua hàng không chỉ mua một sản phẩm vì công dụng của nó mà
còn mua cả dịch vụ kèm theo sản phẩm đó.
Với những dịch vụ giá trị gia tăng của logistics như dán nhãn, đóng gói, lắp ráp,
dịch vụ khách hàng… đã tạo thêm giá trị gia tăng cho hàng hóa giúp cho doanh thu
của nhà sản xuất được tăng lên. Hơn nữa các dịch vụ như gom và phân hàng lẻ, xé
lẻ các lô hàng lớn , chuẩn bị các lô hàng hỗn hợp… tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng và giảm được chi phí phát sinh.
1.3.3.

Logistics là công cụ marketing hiệu quả giúp các doanh nghiệp sản xuất

thâm nhập thị trường
SV: Nguyễn Thành Luân

10

Lớp: QTKD Thương mại 53A


Không gì thuận lợi hơn cho các nhà xuất khẩu khi có một căn cứ phân phối hàng
ngay tại khu vực tiêu thụ. Tại đây, hàng hóa sẽ được phân phối theo yêu cầu của
khách hàng theo đúng chất lượng và số lượng, việc in ấn nhãn hiệu theo tiếng bản
xứ, thậm chí có thể mua thêm nguyên liệu tại chỗ để gia công thêm cho hàng nhập
khẩu mà không bị đánh thuế sẽ giảm chi phí rất lớn cho nhà nhập khẩu và tạo thuận
lợi rất lớn trong việc cung cấp cho khách hàng các dịch vụ đa dạng khác nhau.

Ngày nay, việc sử dụng các doanh nghiệp logistics có uy tín cũng là một cách tăng
thêm uy tín cho chính công ty xuất nhập khẩu, tạo thêm độ an tâm cho đối tác. Để
thu hút khách hàng, các doanh nghiệp logistics còn kiêm thêm dịch vụ môi giới giữa
người mua và người bán vốn không quen biết nhau và họ là người đảm bảo uy tín
cho hai bên.
Với những vai trò của doanh nghiệp logistics trên đây đã làm cho các doanh nghiệp
sản xuất, doanh nghiệp thương mại dần chuyển sang thuê ngoài dịch vụ logistics
phục vụ cho chuỗi hoạt động logistics của doanh nghiệp.
1.4.Phân loại:
Theo tính chuyên môn hóa của các Doanh nghiệp Logistics, người ta chia
thành:
* Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải. Bao gồm:
+ Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải đơn phương thức : Là những công ty
chỉ cung cấp một loại phương tiện vận tải. Ví dụ: Công ty cung cấp dịch vụ vận tải
đường bộ , đường sắt, hàng không, đường biển;
+ Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức : là những công ty
cung cấp từ hai phương tiện vận tải khác nhau trở lên trong cả quá trình vận chuyển
+ Các công ty cung cấp dịch vụ khai thác cảng
+ Các công ty môi giới vận tải
* Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối. Bao gồm:
+ Các công ty cung cấp dịch vụ kho bãi
+ Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối .
* Các công ty cung cấp dịch vụ hàng hóa. Bao gồm:
+ Các công ty môi giới khai thuê hải quan
+ Các công ty giao nhận, gom hàng lẻ
SV: Nguyễn Thành Luân

11

Lớp: QTKD Thương mại 53A



+ Các công ty chuyên ngành hàng nguy hiểm
+ Các công ty dịch vụ đóng gói vận chuyển.
* Các công ty cung cấp dịch vụ logistics chuyên ngành. Bao gồm:
+ Các công ty công nghệ thông tin
+ Các công ty viễn thông
+ Các công ty cung cấp giải pháp tài chính, bảo hiểm
+ Các công ty cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo.
Phân loại theo hình thức khai thác hoạt động logistics:
- Các công ty Logistics thứ nhất (1PL - First Party Logistics): người chủ sở
hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng nhu
cầu của bản thân. Theo hình thức này, chủ hàng phải đầu tư vào phương tiện vận
tải, kho chứa hàng, hệ thống thông tin, nhân công để quản lý và vận hành hoạt động
logistics. First Party Logistics làm phình to quy mô của doanh nghiệp và thường
làm giảm hiệu quả kinh doanh vì doanh nghiệp không có đủ quy mô cần thiết, kinh
nghiệm và kỹ năng chuyên môn để quản lý, vận hành hoạt động logistics.
- Các công ty Logistics bên thứ hai (2 PL - Second Party Logistics) – người
cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho một hoạt động
đơn lẻ trong chuỗi các hoạt động logistics (vận tải, kho bãi, thủ tục Hải quan, thanh
toán,…) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng ḿ chưa tích hợp hoạt động logistics. Loại
hình này bao gồm các hãng vận tải đường biển, đường bộ, đường hàng không, các
công ty kinh doanh kho bãi, khai thuê hải quan, trung gian thanh toán…
- Các công ty Logistics bên thứ 3 (3 PL - Third Party Logistics) – là người
thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho từng bộ phận
chức năng, ví dụ như thay mặt cho người gửi hàng thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu
và vận chuyển nội địa hoặc thay mặt cho người nhập khẩu làm thủ tục thông quan
và vận chuyển hàng đến địa điểm đến quy định, … Do đó 3PL bao gồm nhiều dịch
vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thông tin,
… và có tính tích hợp vào dây chuyền cung ứng của khách hàng.

- Các công ty Logistics bên thứ tư (4 PL - Fourth Party Logistics) – là người
tích hợp (intergrator) – người hợp nhất, gắn kết các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở
vật chất khoa học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và
SV: Nguyễn Thành Luân

12

Lớp: QTKD Thương mại 53A


vận hành các giải pháp chuỗi logistics. 4PL chịu trách nhiệm quản lý dòng lưu
chuyển logistics, cung cấp giải pháp dây chuyền cung ứng, hoạch định, tư vấn
logistics, quản trị vận tải, … 4 PL hướng đến quản trị cả quá trình logistics, như
nhận hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất, nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ
cuối cùng.
- Gần đây cùng với sự phát triển của Thương mại điện tử, người ta đã nói
đến khái niệm công ty Logistics bên thứ 5 (5 PL). 5 PL phát triển nhằm phục vụ cho
Thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ 5 PL là các 3 PL và 4 PL đứng ra
quản lý toàn chuỗi phân phối trên nền tảng thương mại điện tử.
Vì vậy các doanh nghiệp với vai trò là nhà cung cấp dịch vụ logistics không
bao gồm nhà cung cấp logistics bên thứ nhất vì đó chính là bản thân doanh nghiệp
tự cung ứng mà không thuê bên ngoài 2,3,4,5PL
1.5. Những nhân tố cơ bản và sự tác động đến hoạt động các Doanh nghiệp
logistics Việt Nam hiện nay.
1.5.1. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động logistics, trong đó hệ
thống giao thông và hạ tầng thông tin có vai trò hết sức quan trọng. Chi phí vận tải
giao nhận thường chiếm hơn 1/3 tổng chi phí của logistics và là yếu tố không thể
thiếu được trong logistics , yêu cầu này xuất phát từ xu hướng chuyên môn hóa
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Giao nhận vận tải đảm nhận việc di chuyển

nguyên vật liệu vào doanh nghiệp sau đó phân phối sản phẩm từ doanh nghiệp ra thị
trường tạo thành một vòng tuần hoàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Do đó, vai trò của yếu tố cơ sở hạ tầng, bao gồm hệ thống hạ tầng
giao thông, kho bãi nhà xưởng, phương tiện vận tải, cơ sở hạ tầng thông tin,… là rất
quan trọng, là một trong những bộ phận cấu thành hoạt động cung ứng dịch vụ
logistics. Nó là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp logistics hoạt động kinh
doanh tốt trong lĩnh vực của mình.
Lãnh thổ toàn vẹn của Việt Nam bao gồm diện tích đất liền, theo tổng điều
tra đất năm 2002 là 329,297 km2 và vùng biển rộng hơn 1 triệu km2. Việt Nam có
vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế, nằm ở khu vực chiến lược trong vùng
Đông Nam Á. Bờ biển Việt Nam dài hơn 3260km. Trung bình khoảng 20km chiều
SV: Nguyễn Thành Luân

13

Lớp: QTKD Thương mại 53A


dài bờ biển có một cửa sông thông ra biển, có nhiều cảng nước sâu, các sân bay
quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng lưới giao thông là tiền đề khả
quan để phát triển Logistics. Các cảng biển tự nhiên, ví dụ như vịnh hay các cảng
nước sâu…là một trong những đặc điểm địa lý rất có giá trị trong việc phát triển vận
tải sông, biển mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong có được.
Điều kiện địa lý thuận lợi là một trong những yếu tố để phát triển logistics.
Việc có được điều kiện địa lý thuận lợi sẽ mở ra khả năng phát triển mô hình
Logistics. Đặc biệt gần hai năm khi Việt Nam gia nhập WTO thì vốn đầu tư nước
ngoài đã tạo ra bộ mặt mới cho hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam. Đã có rất
nhiều các dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng đang được thực hiện.
Hệ thống cảng biển Việt Nam đã được quy hoạch và đang hình thành và phát
triển đa dạng, phong phú. Các loại hình cảng mới như cảng nước sâu, cảng

container chuyên dụng…với vốn đầu tư lên đến hàng chục, trăm triệu USD đã được
xây dựng, đang phát huy tác dụng…Lượng hàng hóa vận chuyển thông qua cảng
hàng năm đều tăng về mọi chỉ tiêu kể cả hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như hàng
hóa vận chuyển nội địa.
1.5.2. Công nghệ thông tin.
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự ra đời của thương mại điện tử
hơn bao giờ hết đã mở ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp trong ngành giao nhận
vận tải và logistics nói riêng khả năng tinh giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh
doanh và sức cạnh tranh của mình trên thương trường.
Công nghệ thông tin và thương mại điện tử tại Việt Nam còn mới mẻ, song
lại có tốc độ phát triển rất nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với hiện trạng va xu hướng phát triển công nghệ thông tin cũng như thương
mại điện tử của Việt Nam sẽ tạo ra nhiều cơ hội và khả năng áp dụng công nghệ
Logistics trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vị trí của
Logistics trong toàn bộ quá trình phân phối vật chất thực chất là sử dụng và xử lý
thông tin để tổ chức và quản lý chu trình di chuyển hàng hóa qua nhiều cung đoạn,
chặng đường, phương tiện, địa điểm khác nhau đáp ứng yêu cầu kịp thời, đúng lúc.
Sự tham gia của công nghệ thông tin trong ngành logistics đã thúc đẩy quản lý có
hiệu quả các hoạt động logistics và giúp các công ty logistics đáp ứng được yêu
SV: Nguyễn Thành Luân

14

Lớp: QTKD Thương mại 53A


cầu của chủ hàng. Hầu hết các công ty lớn đều có phần mềm như hệ thống quản lý
kho (WMS) và hệ thống quản lý vận tải để quản lý hệ thống kho, hoạt động vận
tải và các hoạt động khác của mình. Chuyển giao dữ liệu điện tử (EDI) và Internet
đã cho phép các công ty 3PL cung cấp các dịch vụ giá trị lớn hơn cho khách hàng

của họ, họ có thể thấy được nguyên liệu, hàng hoá của họ đang ở đâu trên thế giới
từ đó phục vụ cho quản lý chuỗi cung ứng ngày càng hiệu quả hơn. Các dịch vụ
cung cấp công cụ tìm kiếm (track and trace) đã xác lập giá trị cho khách hàng trong
việc lên kế hoạch hoạt động của họ tốt hơn và giảm vốn lưu động do tồn kho và các
hoạt động vận tải khác.
Do vậy trong xu hướng cạnh tranh hiện nay, ứng dụng công nghệ thông
tin đóng vai trò hết sức quan trọng trong ngành công nghiệp logistics, có quyết
định đến sự tồn tại của doanh nghiệp logistics.
1.5.3. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành
Trong kinh doanh việc tạo ra cạnh tranh là việc rất dễ hiểu, các doanh nghiệp
logistics cạnh tranh để dành thị phần cho mình, nhằm tạo ta lợi nhuận và uy tín cho
doanh nghiệp.
Logistics được quan tâm ở các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kinh
doanh từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 và có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở các
nước phát triển. Logistics ở Việt Nam mới xuất hiện từ những năm 90 của thế kỷ XX
và hiện nay vẫn đang đước đi những bước đi đầu tiên trong lĩnh vực này. Bước vào
hội nhập, các doanh nghiệp Logistics trong nước sẽ gặp không ít sự cạnh tranh.
Tại hội thảo về phát triển dịch vụ logistics, do Hiệp hội Giao nhận kho vận
Việt Nam phối hợp với báo Thương mại tổ chức, Thứ trưởng Bộ Thương mại
Lương Văn Tự nói rằng các doanh nghiệp dịch vụ logistics sắp tới sẽ đối mặt với áp
lực cạnh tranh lớn, khi Việt Nam thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ này
cho nhà đầu tư nước ngoài. Ông nói: “Trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta đã cam kết cho nước ngoài được thiết lập
ngay các doanh nghiệp liên doanh, với tỷ lệ góp vốn 49-51%, để thực hiện kinh
doanh các dịch vụ vận tải, giao nhận, kho bãi... Ba năm sau, tỷ lệ góp vốn của phía
nước ngoài sẽ tăng lên và họ có thể thiết lập các công ty 100% vốn sau 5-7 năm”.

SV: Nguyễn Thành Luân

15


Lớp: QTKD Thương mại 53A


Đến nay, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ logistics
trong lĩnh vực vận tải biển còn gặp nhiều khó khăn thì các tập đoàn hàng hải lớn thế
giới đã và đang từng bước thâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước và
ngày càng khẳng định vị trí lớn mạnh của mình như APL, Mitsui OSK, Maersk
Logistics , NYK Logistics … Đây là những tập đoàn hùng mạnh, tính cạnh tranh rất
lớn với bề dày kinh nghiệm, năng lực tài chính khổng lồ, có mạng lưới đại lý, hệ
thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông
tin kết nối rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao và đảm bảo khép kín quy trình
hoạt động vận chuyển hàng hóa toàn cầu, đòi hỏi các doanh nghiệp Logistics trong
nước phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện mình để không bị lép vế ngay trên “sân
nhà” và vươn ra thế giới.
1.5.4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
Về chính sách hội nhập, Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế
thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây dựng hệ
thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế.
Việc trở thành thành viên chính thức của WTO đã đưa Việt Nam thành một
quốc gia mở cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư từ đó nguồn cầu
logistics sẽ tăng lên nhanh chóng:
-

Vốn đầu tư nước ngoài.

Kể từ khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực (1988), FDI vào VN
ngày càng tăng cả về dự án, vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh thổ. Tính đến hết
năm 2012, tổng vốn FDI đăng ký là 242.613 triệu USD, vốn thực hiện là 102.551
triệu USD.

Nguồn vốn ODA nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và các nguồn vốn từ các tổ
chức phi chính phủ hỗ trợ cho Việt Nam ngày càng tăng. Tính từ năm 1993 đến hết
năm 2012, tổng vốn ODA cam kết đạt 76,176 triệu USD, giải ngân đạt 35,967 triệu
USD, tương đương với 3,36% GDP. Thương mại quốc tế liên tục tăng đã thúc đẩy
cho các doanh nghiệp Logistics phát triển hoạt động.
- Thương mại quốc tế liên tục tăng đã thúc đẩy cho các doanh nghiệp
logistics phát triển hoạt động. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1991, đặc

SV: Nguyễn Thành Luân

16

Lớp: QTKD Thương mại 53A


biệt là từ năm 1995 đến nay đã không ngừng tăng trưởng và thực sự trở thành động
lực chính, quan trọng của sự phát triển kinh tế.
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu tương đối cao, giá trị kim ngạch xuất khẩu
tăng mạnh, nếu so sánh năm 2012 với năm 1986, thì kim ngạch xuất khẩu tăng gấp
khoảng 145 lần (114.529 triệu USD/789,1 triệu USD)
Hình 1.1

(Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Tuy nhiên, Việt Nam gia nhập WTO cũng mang lại nhiều thách thức khi
doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp nước ngoài.
Nhiều năm trước các doanh nghiệp logistics Việt Nam được chính phủ bảo hộ khá
kỹ thông qua các biện pháp ngăn chặn doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận thị trường
trong nước, ngoại trừ một số doanh nghiệp logistics nước ngoài được thành lập
trước năm 2005 khi luật Thương mại sửa đổi có quy định về ngành nghề logistics và
các doanh nghiệp được thành lập với Hiệp định thương mại song phương. Tuy

nhiên khi gia nhập WTO tồn tại và phát triển được hay không gần như tùy thuộc
vào khả năng cạnh tranh của chính doanh nghiệp. Thực trạng này đặt các doang
SV: Nguyễn Thành Luân

17

Lớp: QTKD Thương mại 53A


nghiệp Việt Nam trước nhiều thách thức hơn cơ hội, buộc các doanh nghiệp phải tự
củng cố mình khi mà ngành nghề liên quan đến logistics đã mở cửa hoàn toàn.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, thời gian, lưu trữ và vận chuyển
các tài nguyên từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng đến tay người tiêu dùng,
thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Ngày nay vì tính hiệu quả mà các doanh
nghiệp chuyển dần các hoạt động logistics không phải là thế mạnh của mình sang
cho các doanh nghiệp logistics thực hiện. Như vậy dịch vụ logistics là những hoạt
động giúp cho hoạt động logistics của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được tiến
hành liên tục mà không nhất thiết phải do chính doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
thực hiện. Ban đầu do doanh nghiệp không đủ khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt
động của mình khi qui mô mở rộng buộc doanh nghiệp phải thuê bên ngoài thực
hiện các hoạt động trong chuỗi logistics. Dần dần, các doanh nghiệp phát hiện
hiệu quả hơn nên đã chuyển sang thuê các doanh nghiệp dịch vụ tiến hành thực
hiện thay mình các hoạt động logistics. Xu hướng trên thế giới cho thấy càng ngày
các dịch vụ logistics càng đi sâu vào quá trình logistics của doanh nghiệp và dần dần
trở thành đối tác không thể thiếu khi đảm nhận nhiệm vụ giá trị gia tăng liên quan
đến thanh toán, dịch vụ khách hàng,… dần đi đến quản trị cả quá trình logistics.
Vai trò của dịch vụ logistics đã được khẳng định rõ với những đóng góp cho
ngân sách quốc gia, giúp tăng năng lực cạnh tranh của quốc gia nói chung của

doanh nghiệp nói riêng…. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp
logistics Việt Nam phải đối mặt với những thách thức nhiều hơn cơ hội, đâu là
những thế mạnh doanh nghiệp Việt Nam cần khai thác để tận dụng cơ hội, vượt qua
thách thức cho sự cạnh tranh và phát triển của mình. Phân tích thực trạng hoạt động
của họ sẽ giúp chúng ta tìm ra những giải pháp thiết thực nhất.

SV: Nguyễn Thành Luân

18

Lớp: QTKD Thương mại 53A


CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CÁC DOANH NGHIỆP
LOGISTICS Ở VIỆT NAM.
Trong vòng 5 năm trở lại đây ở Việt Nam ngành logistics tuy đã có tốc độ
phát triển nhanh nhưng vẫn chưa có số liệu thống kê đầy đủ, chính thức từ các ban
ngành và tổ chức Nhà nước. Do vậy phần thực trạng kinh doanh của các doanh
nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu dựa trên số liệu được tác giả thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau. Trước tiên, chúng ta đi vào tìm hiểu
1. Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của các doanh nghiệp logistics trong
nước.
Hoạt động vận tải và giao nhận thông thường với danh nghĩa là công ty
logistics, các công ty cũng chỉ mới đáp ứng được 25% nhu cầu vận tải và giao nhận
của thị trường, 75% còn lại đành phải nhường cho phía các công ty nước ngoài. Các
doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dành được một phần rất nhỏ trong thị trường dịch
vụ logistics.
Theo tính toán mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng
nhất trong logistics là vận tải biển thì các doanh nghiệp hay các công ty vận tải biển
chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn

lại đang bị chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này thực sự là một sự
thua thiệt lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi có 90% hàng hóa xuất nhập khẩu
được vận chuyển bằng đường biển, sản lượng vận tải biển của Việt Nam những năm
gần đây có sự giảm nhẹ nhưng đây vẫn là một thị trường mơ ước của các tập đoàn
nước ngoài. Trong thời kỳ hội nhập, nếu chúng ta không có những biện pháp kịp
thời thì nguy cơ bị thâu tóm là không thể tránh khỏi.

SV: Nguyễn Thành Luân

19

Lớp: QTKD Thương mại 53A


Triệu tấn

Hình 2.1. Khối lượng hàng hóa vận tải biển
70
60
50
40
30
20
10
0

42.693

2006


48.976

2007

55.696

55.79

2008

2009

61.593

63.904

61.694

58.501

2010

2011

2012

Sơ bộ
2013

Năm


Nguồn: Niên giám thống kê 2013
Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu thị
trường cả về quy mô thị trường lẫn dịch vụ cung ứng. Hiện nay các mặt hàng xuất
nhập khẩu chính của Việt Nam là thủy sản, giày dép, may mặc, đồ gỗ, trang thiết bị
máy móc, hàng điện tử… thì chưa có một doanh nghiệp nào có khả năng phục vụ
chủ yếu những dịch vụ theo từng ngành hàng mà hầu như thị phần này nằm trong
tay các doanh nghiệp nước ngoài. Nguyên nhân là do các mặt hàng như dày dép và
may mặc hầu như do bên Việt Nam gia công nên quyền quyết định chọn nhà cung
cấp dịch vụ Logistics thuộc về người mua ở nước ngoài. Còn về mặt hàng thủy sản
thì rất hiếm doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng như kho lạnh để thực hiện dịch vụ và
cũng chưa có nghiên cứu vận chuyển hàng tươi sống để tư vấn, tiếp thị cho khách
hàng. Còn đối với thị trường hàng nhập khẩu , tập quán mua CIF bán FOB nên các
chủ hàng Việt Nam chưa chủ động giành quyền lựa chọn nhà cung ứng.
Xét về thị trường FDI, thị phần có nhu cầu rất lớn về dịch vụ logistics cả cho
hàng nhập lẫn hàng xuất. Tuy nhiên lợi thế tiếp cận nguồn khách hàng này thuộc về
các doanh nghiệp ở các nước đầu tư vào Việt Nam. Đối với khách hàng này nguồn
cầu về hành lý cá nhân phục vụ cho nguồn nhân lực quản lý và hàng công trình
phục vụ cho thiết lập, vận hành cơ sở sản xuất kinh doanh rất lớn. Có 19% doanh
nghiệp khảo sát có cung ứng dịch vụ hàng công trình tuy nhiên phần lớn lại gia
công cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như Nippon
Express, một doanh nghiệp chuyên cung ứng hàng công trình và hàng cá nhân cho
SV: Nguyễn Thành Luân

20

Lớp: QTKD Thương mại 53A


các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật như Canon, Fujitsu, Mabuchi Motor…

nhưng dịch vụ lại do công ty Transimex thực hiện với hợp đồng thầu phụ. Vì đối
với hàng hóa này hầu như đều do sự phân phối từ các tập đoàn là công ty mẹ từ
nước ngoài hoặc được các cá nhân và tổ chức mua với giá EXW để hạn chế rủi ro
khi vận hành nên mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam là người cung ứng dịch vụ
trực tiếp nhưng danh nghĩa lại là của các doanh nghiệp nước ngoài. Nếu tiếp cận
trực tiếp được nguồn khách hàng này thì thương hiệu sẽ được củng cố và lợi nhuận
cũng gia tăng.
Về khía cạnh dịch vụ cung ứng, hiện nay các doanh nghiệp Logistics Việt
Nam chủ yếu thực hiện dịch vụ ở đầu Việt Nam và các dịch vụ cơ bản mặc dù đã có
khả năng cung ứng những dịch vụ giá trị gia tăng như đóng gói, dịch vụ khách
hàng, thanh toán tuy nhiên những dịch vụ này vẫn chưa đến được với khách hàng.
Điều này là do khách hàng Việt Nam thì chưa chú ý nhiều đến hiệu quả của thuê
ngoài dịch vụ gia tăng trong khi các doanh nghiệp nước ngoài chú ý nhiều đến thuê
ngoài các dịch vụ này thì họ thường không chọn các doanh nghiệp Việt Nam chưa
có có uy tín khi quy mô còn nhỏ.
2. Thực trạng hệ thống doanh nghiệp Logistics của Việt Nam
2.1. Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh tuy nhiên đa số trong đó là doanh
nghiệp nhỏ, chưa thiết lập được hệ thống mạng lưới toàn cầu
Hiện chưa có thống kê chính thức về số lượng doanh nghiệp logistics tại Việt
Nam. Theo Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2011, cả nước có 17876 doanh
nghiệp làm dịch vụ vận tải, kho vận, xét về số lượng không thua kém các nước
trong khu vực. Tuy nhiên,
Về quy mô, rất ít công ty giao nhận Việt Nam có đủ năng lực tài chính để
phát triển logistics. Đa số các công ty giao nhận của Việt Nam có quy mô vừa và
nhỏ (hình 2.2). Một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động logistics toàn
cầu là công ty phải có tiềm lực mạnh về tài chính, và phải có uy tín trên thương
trường nghĩa là phải đủ mạnh để áp đặt hoạt động của mình lên các đại lý. Nhưng
phần lớn các doanh nghiệp logistics Việt Nam chưa thật sự có tiềm lực như vậy.
Hiện nay, doanh nghiệp tư nhân chiếm 80% tổng số doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ logistics ở Việt Nam, đa số các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ và vừa (theo

SV: Nguyễn Thành Luân

21

Lớp: QTKD Thương mại 53A


Trung tâm Xúc tiến đầu tư phía Nam (IPCS), Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư). Trong khi chỉ tính riêng về doanh thu thì các đối thủ nước ngoài cũng
đạt gần, bằng và thậm chí hơn GDP của Việt Nam.
Với quy mô tài chính như vậy, doanh nghiệp kinh doanh logistics thật khó
lòng giữ được thị phần trong nước chứ đừng nói gì đến mở rộng hoạt động ra nước
ngoài.Lấy một ví dụ, nếu muốn ký vận đơn vào Hoa Kỳ thì phải ký quỹ tới 150.000
USD. Với quy vốn như hiện nay, các doanh nghiệpViệt Nam khó có thể đáp ứng
được yêu cầu khi gia nhập thị trường logistics thế giới.
- Các doanh nghiệp trong nước chưa thiết lập được hệ thống mạng lưới
toàn cầu, hoạt động cung ứng ở nước ngoài chủ yếu thông qua đại lý.
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam cung ứng dịch vụ ở nước ngoài
thông qua đại lý mà chưa chú trọng đến đầu tư ra nước ngoài thành lập văn phòng
đại diện hoặc chi nhánh. Ngay cả các công ty có vốn nhà nước với quy mô lớn như
Gemadept, Sotrans cũng chỉ có đại lý chứ chưa thực hiện đầu tư ra nước ngoài với
hình thức chi nhánh hoặc công ty con. Điều này là một bất lợi cho các doanh nghiệp
Việt Nam vì mối quan hệ với đại lý rất lỏng lẻo làm cho thông tin không kịp thời,
các doanh nghiệp không thể có được đầy đủ các thông tin quy định ở nước ngoài
đều dẫn đến chi phí phát sinh ngoài dự toán gây khó chịu cho khách hàng và khi có
sự cố xảy ra khả năng xúc tiến khắc phục chậm, không đáp ứng yêu cầu của khách.
Trong khi tầm bao phủ của các công ty Việt Nam chỉ trong phạm vi nội địa
hoặc một vài nước trong khu vực thì tầm hoạt động của các công ty nước ngoài hầu
hết đều bao phủ khắp thế giới. Điều này là một rào cản khi các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ trọn gói cho khách hàng, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, các chủ

hàng thường có xu hướng tìm nguồn cung cấp từ rất nhiều quốc gia và lãnh thổ trên
thế giới.

SV: Nguyễn Thành Luân

22

Lớp: QTKD Thương mại 53A


Hình 2.2. Số lượng các doanh nghiệp vận tải, kho vận đang hoạt động tại
thời điểm 31/12/2011 phân theo quy mô lao động (biểu đồ 1) và phân theo quy
mô vốn (biểu đồ 2)

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Niên giám thống kê 2012
2.2. Hoạt động ở các doanh nghiệp còn manh mún, thiếu kinh nghiệm,
chuyên nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, số lượng doanh nghiệp đang hoạt động logistics tuy
lớn nhưng đa phần các doanh nghiệp chưa kinh doanh logistics theo đúng nghĩa mà
mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ
mà thôi. Các doanh nghiệp trên danh nghĩa là kinh doanh logistics nhưng chỉ tham

SV: Nguyễn Thành Luân

23

Lớp: QTKD Thương mại 53A


gia vào một phần công việc của chuỗi dịch vụ như là doanh nghiệp chỉ đảm nhiệm

làm thủ tục thanh toán, làm thủ tục hải quan, hoặc doanh nghiệp chỉ cho thuê
phương tiện vận tải, kho bãi. Trong khi đó, hoạt động của logistics trong vận tải và
giao nhận phải là một quá trình kết hợp một cách hoàn hảo và đồng bộ giữa việc
thiết kế các tuyến đường, quản trị quá trình vận chuyển và dự trữ, cùng với quá
trình phân phối trên cơ sở kết hợp luồng thông tin đầu vào để quản lý, xử lý một
cách nhanh chóng và điều chỉnh kịp thời để quá trình lưu chuyển tài nguyên, hàng
hóa từ nhà cung cấp đến cơ sở sản xuất của doanh nghiệp và đến tay khách hàng
cuối cùng đúng thời hạn với chi phí thấp nhất và hiệu quả cao nhất. Nếu xét trên
tiêu chí “logistics là việc điều chỉnh một tập hợp các hoạt động của nhiều ngành
nghề, công đoạn trong một quy trình hoàn chỉnh và doanh nghiệp nào được ủy thác
toàn bộ các công việc liên quan đến cung ứng, vận chuyển theo dõi sản xuất, kho
bãi, thủ tục phân phối… mới được công nhận là nhà cung cấp dịch vụ logistics” thì
hiện nay ở Việt Nam chưa có một doanh nghiệp nào đủ sức để tổ chức, điều hành
toàn bộ quy trình thoạt động logistics.
Doanh nghiệp logistics Việt Nam hiện nay hầu như chưa cung ứng tích hợp
các dịch vụ giá trị gia tăng, chủ yếu cung cấp các dịch vụ cơ bản như giao nhận ,
vận chuyển,…Mặc dù có một số doanh nghiệp cung ứng các được giá trị gia tăng
như hàng công trình, dán nhãn, hàng trả về, thanh toán và dịch vụ khách hàng tuy
nhiên các dịch vụ này cũng chỉ được cung ứng một cách riêng lẻ khi khách hàng có
nhu cầu chứ không có được hợp đồng theo thời hạn và tích hợp vào chuỗi cung ứng.
Chưa có một doanh nghiệp Việt Nam nào đủ sức cung ứng dịch vụ 4PL, ngay cả đối
với những doanh nghiệp nhà nước lớn với số vốn hàng tram tỷ đồng như Gemadept,
Vietfratch, Sotrans. Trong khi các tập đoàn Logistics nước đã liên kết rất chặt chẽ
các tập đoàn đa quốc gia hàng đầu thế giới như Nippon với Honda. IBM,
Mitsubishi, Toyota ; Maersk Logistics với Adidas. Nike, Wall mart.

SV: Nguyễn Thành Luân

24


Lớp: QTKD Thương mại 53A


×