Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm SKKN khai thác hình thức phát vấn học sinh trong dạy học môn lịch sử ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.63 KB, 29 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"KHAI THÁC HÌNH THỨC PHÁT VẤN HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT"

1


PHẦN THỨ NHẤT - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc dạy và học Lịch sử hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng được xã hội đặc
biệt quan tâm. Những lỗ hổng lớn về kiến thức lịch sử của giới trẻ đang rung lên những
hồi chuông cảnh báo về nguy cơ lịch sử vẻ vang của một dân tộc sẽ bị chôn vùi trong làn
sóng kinh tế thị trường.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử ở một trường trung học phổ thông
(THPT), bản thân tôi luôn trăn trở, day dứt về hiện tượng học sinh từ chối và miễn cưỡng
học môn Lịch sử. Tôi từng cố gắng thuyết minh với các em học Sử là rất cần thiết, vì Sử
không chỉ giúp các em làm nghề Sử, mà còn có thể làm báo, làm chính trị, kể cả làm
khoa học mà có tư duy về Sử thì cũng có lợi. Thế nhưng, không thể thuyết phục được vì
không nhìn đâu xa, các em cũng hiểu gần mình nhất là cô giáo dạy Sử luôn là người
nghèo nhất, ít cơ hội nhất. Mặc dù bộ môn Lịch sử luôn giữ vị trí quan trọng trong
chương trình đào tạo học sinh THPT và rất có ưu thế trong việc giáo dục đạo đức và lý
tưởng sống cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy đủ hoặc phiến diện về vai
trò, ý nghĩa, chức năng của bộ môn Lịch sử nên chúng ta không đối xử với bộ môn này
như bộ môn khác. Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời kỳ khoa học công nghệ (KHCN)
đang phát triển nhanh chóng, Sử học cũng như các môn khoa học nhân văn khác, không
thể có vị trí ngang hàng với khoa học tự nhiên - kĩ thuật. Trong khi đó, ở phương Tây đã
có ý kiến về việc "Khai tử khoa học Lịch sử" và biến môn học này trong nhà trường
thành việc kể chuyện Lịch sử.
Ở Việt Nam, việc dạy và học Lịch sử trong các trường THPT lâu nay vẫn theo


phương pháp truyền thống. Chỉ là những bài giảng suông với hàng loạt những sự kiện và

2


con số khô khan được nhồi nhét vào đầu học sinh. Chính điều này đã gây nên sự chán nản
và đối phó của học sinh trong việc học Sử.
Lịch Sử là cái hồn của dân tộc, là nguồn cội của sự phát triển đi lên, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng dạy:
"Dân ta phải biết Sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"
Vậy làm thế nào để học sinh thích Sử và làm thế nào để phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học môn Lịch sử? Đây là những vấn đề luôn day dứt những nhà giáo
dạy Sử. Có rất nhiều biện pháp đã được các thầy cô giáo sử dụng và phát huy như: Sử
dụng công nghệ thông tin (CNTT), đồ dùng trực quan, khai thác kênh hình trong sách
giáo khoa, kết hợp văn thơ, kể chuyện trong dạy học môn Lịch Sử hay tiến hành các hoạt
động ngoại khóa về Lịch sử...
Việc khai thác triệt để hình thức phát vấn học sinh qua từng tiết học, bài giảng là
một trong những biện pháp rất quan trọng, rất có ưu thế để phát huy tư duy và trí lực của
học sinh. Quá trình hoạt động chung, sự thống nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng sẽ làm
cho học sinh nắm vững kiến thức và nội dung bài học.
Mặt khác, nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và phát huy
hết năng lực của các em khá giỏi có thể nắm chắc kiến thức bài học và hiểu sâu hơn các
sự kiện, hiện tượng, nhân vật Lịch sử... Cũng để góp phần vào việc đổi mới phương pháp
dạy học nói chung, dạy học môn Lịch Sử nói riêng, bản thân tôi mặc dù là một giáo viên
ít kinh nghiệm cũng xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề về phương pháp dạy học đó là:
"Khai thác hình thức phát vấn học sinh trong dạy học môn Lịch sử ở trường THPT"
làm tên cho đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.

3



Tuy nhiên, do hạn chế về mặt kiến thức cũng như kinh nghiệm giảng dạy nên đề
tài của tôi sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của đồng nghiệp để đề tài của tôi có giá trị thực tiễn hơn. Xin chân thành cảm ơn!
2. Mục đích nghiên cứu
Việc dạy như thế nào và học như thế nào để đạt được hiệu quả tốt nhất là mong muốn
của tất cả các thầy cô giáo chúng ta. Vì vậy, đại đa số giáo viên đều cố gắng thay đổi
phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông
qua các phương pháp dạy học như: phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn
đề, nêu tình huống, miêu tả, kể chuyện...
Đối với phương pháp "phát vấn học sinh" cũng là một trong những phương pháp có
nhiều ưu điểm mới.
Việc sử dụng phương pháp này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tích cực
thảo luận nhóm để bổ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những học sinh
yếu kém cũng được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các
học sinh khác. Đặc biệt đối với học sinh khá giỏi, việc giáo viên sử dụng phương pháp
này sẽ giúp các em nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của các sự kiện, hiện
tượng lịch sử... Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của đề tài.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số bài học Lịch sử ở lớp 11, 12 (chương trình
cơ bản).
4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu

4


Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: "Khai thác hình
thức phát vấn học sinh trong dạy học môn Lịch sử" ở một số bài học cụ thể trong
chương trình THPT.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, bản thân tôi đã phải làm các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các tài liệu về "phương pháp dạy học Lịch sử''
- Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng bộ môn Lịch sử và
các tài liệu liên quan bộ môn này.
- Tích cực thao giảng và dự giờ đồng nghiệp, trao đổi và nghiêm túc rút kinh nghiệm qua
từng tiết dạy.
- Thường xuyên kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh từ đó có sự điều chỉnh,
bổ sung kịp thời và hợp lý.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài sáng kiến này, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp Lịch sử kết hợp với
các phương pháp đặt tình huống nêu vấn đề rồi phân tích, giải thích, so sánh, tổng hợp và
khái quát… nhằm giúp học sinh nắm vững, hiểu rõ bản chất của các sự kiện, hiện tượng
lịch sử mà giáo viên đưa ra.
7. Thời gian nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm được thực hiện trong thời gian từ tháng 9.2010 đến tháng
2.2013

5


PHẦN THỨ HAI - NỘI DUNG
CHƯƠNG I - CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận của đề tài
Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo học sinh trở thành những con người
năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học hiện đại, biết chủ
động lĩnh hội kiến thức và vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn là điều mong
muốn của tôi khi thực hiện đề tài này.
2. Cơ sở khoa học
Nhà Sử học Dương Trung Quốc cho rằng nếu chúng ta coi Lịch sử chỉ là một bộ nhớ

theo kiểu đánh đố trí nhớ thì hiệu quả của việc dạy và học sẽ không cao. Lịch sử không
phải chỉ là nhớ, vì bây giờ chúng ta có quá nhiều phương tiện, chúng ta có thể tra cứu bất
cứ lúc nào. Chúng ta không thể dạy theo kiểu nhồi nhét mà phải đảm bảo học sinh biết
vận dụng kiến thức, tiềm năng của mình như thế nào vào thực tiễn để các em sống có
hoài bão, có chí mưu sinh.
Như vậy, mục đích của việc dạy học Lịch sử ở trường THPT là người giáo viên không
chỉ giúp cho học sinh hình dung được những kết quả của quá khứ và ghi nhớ các sự kiện,
hiện tượng của lịch sử mà quan trọng hơn là phải hiểu được lịch sử tức là nắm được bản
chất của sự kiện. Trong phát triển tư duy của học sinh, việc sử dụng các thao tác lôgic có
ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường người giáo viên thường sử dụng các thao tác chủ
yếu như: so sánh để tìm ra sự giống và khác nhau về bản chất các sự kiện; hay phân tích
và tổng hợp giúp học sinh khái quát các sự kiện. Để thực hiện được các thao tác như vậy
có thể dùng nhiều cách, nhiều phương tiện khác nhau (đồ dùng trực quan, tài liệu giải
thích...), song việc hỏi và trả lời phù hợp với trình độ, yêu cầu của học sinh sẽ đưa lại kết
quả rất khả quan. Hỏi và trả lời chính là đặt tình huống có vấn đề rồi tìm cách giải quyết

6


vấn đề. Hỏi và trả lời không phải là sự đánh đố mà là giúp học sinh hiểu sâu sắc Lịch sử
hơn. Vì vậy, việc hỏi và trả lời câu hỏi có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển lớn.
Đây cũng là một trong những biện pháp rất quan trọng trong giờ dạy học Lịch sử vì nó
phát huy tối đa trí và lực của học sinh.
CHƯƠNG II - THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mong muốn tìm ra những con đường, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học bộ
môn Lịch sử ở trường THPT là vấn đề chung của những nhà giáo dục - đào tạo và nhiều
tổ chức ban ngành có liên quan. Đã có nhiều bài viết, nhiều sáng kiến kinh nghiệm
nghiên cứu về vấn đề này. Tất cả những bài viết, những sáng kiến kinh nghiệm ấy đều
hướng tới việc tìm hiểu thực trạng của việc dạy và học Lịch sử hiện nay. Từ đó đi tìm ra

nguyên nhân và cuối cùng nêu ra những đề xuất, giải pháp nhằm khắc phục thực trạng
của việc dạy và học bộ môn Lịch sử ở trường THPT.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Lịch
sử ở trường THPT, tác giả mạnh dạn chọn đề tài này làm sáng kiến kinh nghiệm dạy học
của mình.
2. Tình hình đề tài hiện nay
Vấn đề tác giả nghiên cứu tuy không mới mẻ nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc
nâng cao ý thức của học sinh trong việc chủ động lĩnh hội kiến thức. Qua đó giúp các em
yêu thích học bộ môn Lịch sử hơn.
Mặc dù hiện nay một thực tế rất phổ biến ở các trường THPT đó là học sinh chỉ trả lời
được câu hỏi của giáo viên thông qua nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, thậm chí một số
học sinh còn đọc nguyên xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi. Hoặc các em chỉ trả lời

7


được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày) còn một số dạng câu hỏi tổng hợp, phân
tích, giải thích tại sao hay so sánh ... thì các em còn rất lúng túng hay trả lời mang tính
chung chung. Vì thế, việc khai thác tốt hình thức phát vấn đối với học sinh sẽ khơi dậy
tinh thần tự giác và khả năng sáng tạo của học sinh. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên
trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên.
CHƯƠNG III - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khai thác hệ thống câu hỏi mở
1.1. Thiết kế câu hỏi gợi mở để nêu vấn đề trọng tâm của bài học
Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì một sự
kiện, hiện tượng lịch sử nào cũng đều xuất phát trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, đều có
nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy của Lịch sử cần hình
thành từng bước cho học sinh.
Vì vậy, trước khi vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận
thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ có tác dụng thu hút sự chú

ý, tập trung cao của học sinh đồng thời huy động năng lực nhận thức của học sinh vào
việc theo dõi bài giảng để tìm câu trả lời. Thường những câu hỏi này sẽ là vấn đề cơ bản
của bài học mà học sinh phải nắm được. Tuy nhiên, khi đặt ra loại câu hỏi này chưa thể
yêu cầu học sinh trả lời đầy đủ mà mục đích là nhằm khắc sâu một hiện tượng lịch sử
đáng chú ý của bài sắp học. Với loại câu hỏi này giáo viên cũng có thể sử dụng khi dẫn
dắt mở đầu cho bài học mới.
Cụ thể:
Khi dạy Bài 1 "Nhật Bản" (Lịch Sử 11), giáo viên nêu câu hỏi khi mở đầu bài học: Vì
sao cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, hầu hết các quốc gia ở Châu Á đều trở thành thuộc

8


địa và phụ thuộc của các nước tư bản phương Tây còn Nhật Bản vẫn giữ được độc lập
và trở thành cường quốc duy nhất ở khu vực?
Để làm rõ được vấn đề này, thầy trò sẽ phải cùng nhau tìm hiểu về bối cảnh lịch sử
của Nhật Bản, về cuộc Duy tân Minh Trị, đặc biệt học sinh phải rút ra được kết quả, ý
nghĩa và tính chất của cuộc Duy tân Minh Trị qua đó sẽ làm sáng tỏ được vấn đề giáo
viên nêu ra ở đầu bài học.
Hoặc khi dạy Bài 4 "Các nước Đông Nam Á từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX" (Lịch
sử 11), giáo viên sử dụng cách nêu vấn đề như sau:
Vào cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển mạnh như vũ bão và chuyển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Đến giai đoạn này chúng đã lộ nguyên hình là
những tên kẻ cướp chuyên nghiệp rất tham lam và tàn bạo. Để thỏa mãn cơn đói khát về
thị trường, nguyên liệu, nhân công, chúng đã hướng mũi nhọn của những cuộc chiến
tranh xâm lược vào các quốc gia ở Châu Á. Vậy trong bối cảnh lịch sử như thế, số phận
của các quốc gia Đông Nam Á sẽ ra sao?
Với việc sử dụng loại câu hỏi nêu vấn đề này sẽ làm cho học sinh dễ nhận thấy bản
chất của những sự kiện, hiện tượng lịch sử hay của một giai đoạn Lịch sử mà các em thấy
cần phải chú ý.

1.2. Thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức
Ở bài 17 "Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2 - 9 - 1945 đến trước ngày
19 - 12 - 1946" (Lịch sử 12).
Khi dạy mục III - Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách
mạng. Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hòa hoãn giữa quân Trung Hoa
Dân quốc và Pháp thông qua Hiệp ước Hoa - Pháp (28.2.1946). Theo Hiệp ước này Pháp

9


nhường cho Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc.
Ngược lại Pháp sẽ đưa quân ra Bắc thay thế quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải
giáp quân đội Nhật Bản. Điều này đã vi phạm trắng trợn đến chủ quyền của dân tộc Việt
Nam. Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ ta phải có chủ trương, sách lược mềm dẻo
để đối phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức sau:

10


C©u hái nhËn thøc

Vì sao Đảng, Chính
phủ và Hồ Chí
Minh kí với thực
dân Pháp Hiệp định
Sơ bộ 6.3.1946?.

Một là: Đánh
Pháp trước khi

Pháp đưa quân ra
Bắc. Như vậy
cùng một lúc phải
đánh cả Pháp lẫn
Tưởng
(cộng với quân
Anh, Mỹ nên đây
sẽ là cuộc chiến
rất bất lợi cho
quân ta)

Dù kiÕn tr¶ lêi

C©u hái gîi më

Vì Pháp và Trung
Hoa Dân quốc đã
kí thỏa hiệp chính
trị (28.2.1946).
Việc làm này buộc
Đảng ta phải lựa
chọn 1 trong 2 con
đường hành động

1. Việc Pháp và
Tưởng kí hiệp
định chính trị Hoa
- Pháp đặt ra cho
Đảng ta lựa chọn
1 trong 2 con

đường nào?
2. Đảng ta lựa
chọn con đường
nào? Vì sao?

Hai là: Hòa với
Pháp để đuổi
Tưởng về nước,
loại bớt một kẻ
thù nguy hiểm,
kéo dài thời gian
hòa bình để chuẩn
bị lực lượng về
mọi mặt chống
Pháp sau này

Đảng ta đã lựa
chọn con đường
thứ 2 vì đất nước
ta lúc này vô
cùng khó khăn
không thể một
lúc đánh nhau với
nhiều kẻ thù.Bởi
lúc này Pháp đã
đưa quân ra Bắc
với danh nghĩa
chính thống

2. Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến phát triển của sự kiện, hiện tượng lịch sử


11


Ví dụ:
- Hãy trình bày diễn biến của chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950.
(Lịch sử 12)
- Nêu diễn biến của cách mạng tháng Tám năm 1945. (Lịch Sử 12)
Tuy đây là loại câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ của học sinh. Người giáo
viên phải biết nhiều sự kiện, địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ. Đối
với loại câu hỏi này cũng nên cần chia câu hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các
bảng niên biểu và mối liên hệ giữa các sự kiện để học sinh thuận lợi trong việc theo dõi
bài học.
Ở loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa lịch sử
của sự kiện.
Đây là dạng câu hỏi dùng cho đối tượng học sinh trung bình. Tuy nhiên, qua quá trình
thảo luận nhóm loại câu hỏi này cũng có thể áp dụng cho đối tượng học sinh yếu, kém.
Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục, đan xen nhau giữa các sự kiện hoặc một
hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Giáo viên cần cho học sinh thấy rõ được kết
quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối với
quá trình phát triển của lịch sử.
Ví dụ:
- Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và
Binh biến Đô Lương (Lịch sử 12)
- Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 (Lịch Sử 12)

12


- Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975 (Lịch

Sử 12)
Để trả lời tốt những câu hỏi này, học sinh sẽ dựa vào sách giáo khoa và sử dụng ngôn
ngữ của mình để trả lời chứ không phải đọc nguyên xi sách giáo khoa.
Tóm lại, các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh, giúp cho
học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý
nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng
nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ giúp cho các em biết được các sự kiện mà còn
có thể đi sâu hiểu bản chất của sự kiện. Hơn nữa, để trả lời tốt các dạng câu hỏi đó nó
không chỉ đòi hỏi học sinh nhớ các sự kiện cơ bản mà phải suy nghĩ để nhận thức sâu sắc
bản chất của sự kiện.
3. Loại câu hỏi so sánh, đối chiếu và liên hệ
Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp
học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt
nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, có tác dụng kích
thích tư duy phát triển. Đồng thời với việc hỏi và trả lời câu hỏi phải tạo ra được mối liên
hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là khi mỗi câu hỏi đưa ra,
mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được? Vì sao không trả lời được?
Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời. Và lúc đó người giáo viên
phải làm nhiệm vụ hướng dẫn học sinh, khơi gợi tư duy cho học sinh về câu hỏi đưa ra.
Làm được điều này cũng là thành công của người giáo viên trong việc phối hợp nhịp
nhàng và hiệu quả của quá trình làm việc tích cực giữa thầy và trò.
Cụ thể

13


Khi dạy bài 3 "Trung Quốc" (Lịch sử 11), giáo viên đưa ra câu hỏi so sánh: Tại sao
trong cùng bối cảnh lịch sử mà Nhật Bản tiến hành Duy tân thành công, còn Trung Quốc
Duy tân thì thất bại?
Với câu hỏi này học sinh sẽ chưa thể trả lời đầy đủ, giáo viên phải định hướng, khơi

gợi kiến thức đã học ở bài Nhật Bản:
- Nhật Bản tiến hành cuộc Duy tân Minh Trị trong hoàn cảnh đất nước chưa bị Đế
quốc xâm lược. Minh Trị là người đứng đầu chính phủ đã thực hiện Cải cách triệt để, táo
bạo... Sau đó, học sinh sẽ nhớ lại nội dung của cuộc Cải cách Minh Trị.
- Trung Quốc tiến hành Duy tân trong hoàn cảnh đất nước đang bị Đế quốc tăng
cường sâu xé. Chủ trương Duy tân của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi không những
không nhận được sự đồng thuận của cả triều đình mà còn vấp phải sự chống đối quyết liệt
của phái thủ cựu trong triều đình phong kiến đứng đầu là Thái hậu Từ Hi.
Với cách giải quyết câu hỏi đó học sinh phần nào đã lí giải được nguyên nhân thất bại
của cuộc vận động Duy tân năm Mậu Tuất (1898) ở Trung Quốc.
Đồng thời khi dạy đến phần Duy tân ở Việt Nam dưới triều Nguyễn, giáo viên có thể
liện hệ đến Duy tân ở Nhật Bản và Duy tân ở Trung Quốc để các em có cái nhìn đúng
đắn, có đánh giá khách quan về các nhà Duy tân ở Việt Nam và triều Nguyễn lúc đó.
Hơn nữa, trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài đều có từ 1 đến 5 câu
hỏi, những câu hỏi này phải là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trọng tâm của phần
học, bài học. Đồng thời trên cơ sở của những câu hỏi đó, giáo viên xây dựng thêm hệ
thống câu hỏi của bài học. Để làm được điều này, giáo viên phải có sự chuẩn bị từ khâu
soạn giáo án, phải có dự kiến nêu ra khi nào? Học sinh sẽ trả lời được đến mức độ nào?
Giáo viên phải định hướng và giải thích cụ thể ra sao? Như vậy, rõ ràng việc khai thác
hình thức phát vấn trong dạy học còn là một nghệ thuật.

14


Ví dụ: Sau khi dạy xong bài 19 "Nhân dân Việt Nam chống Pháp xâm lược" (Lịch Sử
11) giáo viên yêu cầu học sinh so sánh tinh thần và thái độ chống Pháp của triều đình
phong kiến với cuộc kháng chiến của nhân dân.
Giáo viên có thể dùng bảng so sánh:
Nội dung


Triều đình

Nhân dân

Tinh thần

Cách đánh

Lực lượng
Hoặc dùng sơ đồ:

TRIỀU ĐÌNH

15


Tinh thần
Hoang

mang,

Cách đánh
dao Phòng ngự, bị động

động

Lực lượng
Dựa vào quân đội
chính qui và thành
lũy


NHÂN DÂN

Tinh thần

Cách đánh

Lực lượng

Chủ động, kiên quyết Sáng tạo bằng nhiều Đông đảo quần chúng
hình thức...

nhân dân

Sau khi khai thác bảng so sánh và sơ đồ giáo viên giúp học sinh tổng kết như sau:
Trong khi các đội quân chính qui trên các mặt trận chủ yếu: "Án binh bất động'' (như ở
phòng tuyến Chí Hòa), thì các đội nghĩa quân họ chỉ với một ngọn tầm vông, một hỏa
mai đánh bằng rơm con cúi, hay một dao phay cũng có thể:
"Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không
Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có"
(Trích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu)

16


Qua cách so sánh và tổng kết như thế giáo viên sẽ giúp học sinh nắm vững, hiểu rõ
nội dung của bài học, thậm chí của cả một vấn đề lịch sử lớn.
4. Loại câu hỏi phân tích, giải thích
Đây là loại câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử
bao gồm sự giải thích, phân tích có thêm cả những đánh giá nhận định của học sinh đối

với sự kiện hiện tượng lịch sử nào đó. Loại câu hỏi này thường áp dụng cho những học
sinh khá giỏi. Đặc biệt trong quá trình thảo luận để đưa ra ý kiến, những học sinh khá giỏi
có thể bổ trợ kiến thức cho đối tượng học sinh trung bình và yếu kém.
Ví dụ: Ở bài 11 "Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
(1918 - 1939)" (Lịch sử 11). Sau khi dạy xong mục II - Thiết lập trật tự thế giới mới theo
hệ thống Véc xai - Oasingtơn, giáo viên đưa ra câu hỏi:
Tại sao trật tự thế giới mới vừa được thiết lập thì mâu thuẫn mới lại tiếp tục nảy sinh
trong thế giới TBCN?
Với câu hỏi này học sinh sẽ phải phân tích được đặc điểm của trật tự thế giới mới
theo hệ thống Véc xai - Oasinhtơn đó là:
- Mang lại đặc quyền, đặc lợi cho các nước thắng trận.
- Xác lập sự nô dịch đối với các nước bại trận, đặc biệt là Đức.
Giáo viên có nhiệm vụ chỉ rõ những đặc quyền, đặc lợi mà các nước thắng trận có
được sau các Hiệp ước ở Véc Xai và Oasinhtơn cùng với những thảm họa mà các nước
bại trận phải gánh chịu, đặc biệt là nước Đức. Từ những kiến thức đó giáo viên giúp học
sinh giải thích được vì sao trật tự thế giới mới này chỉ có thể tồn tại tạm thời, vì sao mâu
thuẫn mới giữa các nước TBCN lại tiếp tục phát sinh và nó chính là mầm mống của cuộc
chiến tranh thế giới thứ II.

17


Ở bài 17 "Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945),, (Lịch sử 11), khi dạy mục I,
giáo viên nêu câu hỏi sau: Vì sao Đức chủ động kí với Liên Xô Hiệp ước không xâm
phạm lẫn nhau vào ngày 23.8.1939 trước khi chiến tranh thế giới thứ hai chính thức
bùng nổ?
Với câu hỏi này, giáo viên giúp học sinh nhận thức rõ âm mưu nham hiểm của phát
xít Đức, kí hiệp ước này để phòng khi chiến tranh bùng nổ, Đức không phải cùng lúc
chống lại cả 3 cường quốc trên 2 mặt trận (Anh, Pháp ở mặt trận phía Tây, Liên Xô ở mặt
trận phía Đông) điều mà Đức đã gặp phải trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 1918).

Ở bài 15 "Phong trào dân chủ 1936 - 1939", ngoài việc giúp học sinh trả lời được
những câu hỏi trong sách giáo khoa như: Nhận xét về qui mô, lực lượng tham gia và hình
thức đấu tranh trong phong trào dân chủ 1936 - 1939. Giáo viên có thể hỏi thêm: Phong
trào dân chủ 1936 - 1939 có mang tính dân tộc không? Vì sao?
Bằng những kiến thức của bài học giáo viên định hướng để học sinh hiểu:
Phong trào dân chủ 1936 - 1939 mặc dù mục tiêu trước mắt của nó là chống chiến
tranh, chống phát xít, chống bọn phản động thuộc địa giành tự do, cơm áo và hòa bình
nhưng nó vẫn mang tính dân tộc sâu sắc vì:
- Đặc điểm của lịch sử và xã hội Việt Nam lúc này là xã hội thuộc địa nửa phong
kiến với hai mâu thuẫn cơ bản và hai nhiệm vụ cần giải quyết đó là: dân tộc và dân chủ,
cứu nước và cứu dân và đây cũng là hai nhiệm vụ gắn liền với nhau không thể tách rời.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời cũng đã xác định trong Cương lĩnh là
phải gắn liền 2 nhiệm vụ này.

18


- Nhiệm vụ nào được thực hiện trước là do hoàn cảnh lịch sử ở mỗi thời kì, mỗi
giai đoạn khác nhau nhưng không bao giờ Đảng ta sao lãng cả hai nhiệm vụ đó.
- Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thời kì 1936 - 1939 mà Đảng ta đề ra
mục tiêu dân chủ nhưng không quên mục tiêu dân tộc, vẫn giải quyết những vấn đề lớn
của dân tộc như: truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, chủ nghĩa yêu nước, tập hợp lực
lượng, lãnh đạo và tổ chức quần chúng đấu tranh với nhiều hình thức khác nhau. Thông
qua các phong trào đấu tranh này đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và ngày càng
trưởng thành. Vì thế, phong trào dân chủ 1936 - 1939 thực sự là một cuộc diễn tập, chuẩn
bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này, nó cũng mang mục tiêu dân tộc sâu sắc.
Hay ở bài 17 "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2 - 9 - 1945 đến
trước ngày 19 - 12 - 1946" (Lịch sử 12). Khi dạy mục III - Đấu tranh chống ngoại xâm và
nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng. Giáo viên nên đưa ra câu hỏi: Trong số các kẻ
thù có mặt trên đất nước ta lúc này thì đâu là kẻ thù nguy hiểm nhất. Vì sao?

Khi đưa ra câu hỏi này giáo viên có thể cho học sinh thời gian để thảo luận và hỏi
nhiều học sinh để lấy các câu trả lời và giải thích khác nhau của các em. Tuy nhiên, sau
đó giáo viên phải phân tích giúp các em hiểu được:
- Đối với 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc: Vào nước ta với danh nghĩa quân đội
Đồng minh để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản. Vì thế, chúng không dám công
khai đánh ta mà chỉ mượn tay sai Việt Quốc, Việt Cách để kiếm cớ lật đổ chính quyền và
tiêu diệt Đảng Cộng sản của ta. Đặc biệt, trong thời gian này Trung Hoa Dân quốc cũng
đang phải lo đối phó với Đảng Cộng sản Trung Quốc và phong trào cách mạng trong
nước nên sớm muộn cũng muốn rút quân về nước. Vì thế, dù đông nhất nhưng Trung
Hoa Dân quốc không phải là kẻ thù nguy hiểm nhất của cách mạng nước ta lúc này.

19


- Đối với 6 vạn quân đội Nhật Bản: dù lúc này chúng còn nguyên vũ khí nhưng tinh
thần rệu rã, tê liệt như rắn mất đầu nên cũng không phải là kẻ thù nguy hiểm nhất.
- Hơn 1 vạn quân Anh ở miền Nam đã đồng lõa và tạo điều kiện cho quân Pháp tìm
mọi cách quay trở lại xâm lược nước ta. Vì vậy, Pháp chính là kẻ thù nguy hiểm nhất của
cách mạng nước ta sau năm 1945.
5. Loại câu hỏi tổng hợp, đánh giá
Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi tổng kết một bài học, một chương hay một
giai đoạn lịch sử cụ thể. Đây cũng loại câu hỏi khó dùng cho học sinh khá, giỏi hay quá
trình ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi. Với những dạng câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải
độc lập tư duy để tìm ra hướng giải quyết. Với việc sử dụng loại câu hỏi này sẽ phát huy
được tối đa năng lực sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài 16 "Các nước Đông Nam Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới
1918 - 1939,, (Lịch Sử 11). Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi để củng cố, kết thúc bài học:
Trong khoảng thời gian giữa hai cuộc đại chiến thế giới, tình hình các quốc gia Đông
Nam Á có những mặt chuyển biến nào?
Sau khi học sinh trả lời những chuyển biến của các nước Đông Nam Á, giáo viên có

thể dùng sơ đồ để hệ thống hóa nội dung của bài học.

20


Hay khi dạy bài 11 "Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000,,.
(Lịch sử 12), giáo viên nêu câu hỏi: Căn cứ vào quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới
thứ hai đến nay thì lịch sử thế giới được phân chia làm mấy thời kì. Đặc điểm nổi bật của
từng thời kì.
Với câu hỏi này học sinh phải nắm vững kiến thức sau:

21


- Thời kì thế giới trong "Chiến tranh lạnh" từ 1945 - 1989: Đây là thời kỳ trên thế giới
hình thành trật tự hai cực Ianta và từ năm 1947 là thời kỳ chiến tranh lạnh do Mỹ phát
động với Liên Xô và các nước XHCN làm cho thế giới luôn trong tình trạng đối đầu,
căng thẳng với các cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh giữa hai cực
đối lập Xô - Mỹ; Đông - Tây.
- Thời kì sau "Chiến tranh lạnh" từ sau năm 1989: Là thời kỳ một trật tự thế giới mới
đang hình thành theo chiều hướng đa cực, nhiều trung tâm. Từ xu thế đối đầu chuyển
sang xu thế đối thoại. Thời kỳ này lại chia làm hai giai đoạn:
+ Giai đoạn từ cuối năm 1989 đến năm 1991
+ Giai đoạn từ 1991 đến 2000.
Như vậy, để trả lời tốt những dạng câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải nắm vững kiến
thức của nhiều bài học, thậm chí nhiều chương học.
Ở bài 23 "Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
đến chiến tranh thế giới thứ nhất 1914,, (Lịch sử 11). Để tổng kết và đánh giá những hoạt
động cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, giáo viên có thể nêu câu hỏi:
Phân tích những điểm giống và khác nhau trong tư tưởng và hoạt động cứu nước của

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh?
Đây là dạng câu hỏi mang tính phân tích và tổng hợp cao vì vậy để phát huy được
tính sáng tạo của học sinh vừa đồng thời giúp học sinh hiểu rõ bản chất của mỗi sự kiện,
hiện tượng và nhân vật lịch sử thì cần có sự phối hợp làm việc thống nhất giữa thầy và
trò. Người giáo viên phải có sự hướng dẫn, gợi ý cho học sinh để đạt được câu trả lời như
sau:
- Về điểm giống nhau:

22


+ Cả hai phong trào đều là những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản ở nước ta, đều do các văn thân sĩ phu yêu nước tư sản hóa khởi xướng và lãnh đạo.
Hai phong trào này đã đoạn tuyệt với con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
lỗi thời, đều tiếp thu và ảnh hưởng của các con đường cứu nước mới trên thế giới đầu thế
kỷ XX. Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh – những người lãnh đạo phong trào đều đỗ
đạt cao ở chế độ phong kiến đương thời nhưng lại chịu tác động và ảnh hưởng của tư
tưởng cứu nước mới, của Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản, của Duy tân Mậu Tuất ở Trung
Quốc.
+ Cả hai phong trào đều tập hợp và lôi kéo được một bộ phận đông đảo quần chúng nhân
dân, diễn ra sôi nổi trên phạm vi cả nước, thậm chí Đông Du còn lan ra cả nước ngoài
như Nhật Bản nên nó đều thể hiện tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân.
+ Cả hai phong trào đều thống nhất ở mục đích cách mạng là cứu nước, cứu dân giải
phóng dân tộc
+ Cả hai phong trào đều không đáp ứng được yêu cầu mà lịch sử Việt Nam đặt ra, đều bế
tắc và lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước sau đều thất bại.
- Về điểm khác nhau:
+ Mục tiêu trước mắt của hai phong trào là khác nhau: Nếu mục tiêu trước mắt của phong
trào Đông Du là đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục lại chế độ phong kiến theo tư tưởng
quân chủ lập hiến thì phong trào Duy tân của Phan Châu Trinh lại muốn đánh đổ chế độ

phong kiến sau đó mới đánh đuổi thực dân Pháp.
+ Từ mục tiêu khác nhau nên hình thức đấu tranh, phương pháp đấu tranh của hai phong
trào cũng khác nhau. Phong trào Đông Du thì lấy đấu tranh bạo động, khởi nghĩa vũ
trang, dựa vào Nhật Bản cầu viện, đưa người sang Nhật học hỏi rồi về cứu nguy cho Tổ
quốc. Còn phong trào Duy tân của Phan Châu Trinh lại phản đối bạo động, đi theo con

23


đường canh tân, cải cách: "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh,,. Phan Châu Trinh
cho rằng: "Bất bạo động, bạo động tắc tử,,
"Bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu,,.
+ Cơ sở xã hội của hai phong trào: Lực lượng tham gia hai phong trào là khác nhau. Nếu
phong trào Đông Du dựa vào tầng lớp bên trên của xã hội, những người giàu có để tham
gia phong trào, không kêu gọi người nông dân thì phong trào Duy tân lại lấy nông dân
nhất là nông dân nghèo làm cơ sở. Gần 200 thanh niên tham gia phong trào Đông Du
sang Nhật Bản học tập đều thuộc gia đình giàu có: phú nông, địa chủ, tiểu tư sản, tư sản.
Còn phong trào Duy tân là cơ sở của cuộc kháng thuế ở Trung kì năm 1908.
Hay để củng cố bài học này, giáo viên có thể nêu câu hỏi mang tính khái quát sau:
Rút ra đặc điểm của phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX?
Sau khi cho học sinh thảo luận, giáo viên định hướng học sinh trả lời để đạt nội
dung:
- Phong trào diễn ra sôi nổi theo khuynh hướng dân chủ tư sản mang nhiều màu sắc
(bên cạnh đấu tranh vũ trang đã có từ trước còn xuất hiện nhiều hình thức mới như lập
hội yêu nước, mở trường dạy học, ra sách báo, biểu tình, diễn thuyết, bình văn...)
- Lãnh đạo: Là những sĩ phu có nguồn gốc phong kiến nhưng chịu ảnh hưởng của
trào lưu dân chủ tư sản ở bên ngoài. Hoặc những trí thức tiểu tư sản vươn lên đảm nhiệm
sứ mệnh lãnh đạo phong trào.
- Lực lượng tham gia: được mở rộng hơn so với trước, không chỉ có nông dân mà
có cả tư sản, tiểu tư sản và công nhân.

Mặc dù phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX diễn ra rất sôi nổi trên
phạm vi rộng lớn nhưng tất cả các phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp thất bại.

24


Tuy nhiên, phong trào đã đạt một bước tiến mới, nó cũng biểu lộ sâu sắc tinh thần yêu
nước của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân
tộc.
6. Kết quả và bài học kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy ở học kì I năm học 2011 - 2012, tôi đã mạnh dạn vận
dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả rất khả quan.
Trước hết bản thân tôi nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương
trình sách giáo khoa mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú
học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh
hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí
học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng việc áp
dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ
yêu thích môn học này hơn.
* Kết quả cụ thể của học kì I năm học 2011 - 2012:

Líp

SLHS

Giái

Kh¸

Tb


YÕu

SL

%

SL

%

SL

%

11b1 36

2

5,56 14

39

20

12b1 34

1

3,4


38,2 20

13

SL

KÐm
%

SL

%

55,4 0

0

0

0

58,4 0

0

0

0


* Bài học kinh nghiệm:

25


×