Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Kiến trúc và lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ tứ pháp tại trung tâm phật giáo luy lâu bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo xuất hiện ở Việt Nam từ thế kỷ thứ III sau Công nguyên “lịch sử tư
tưởng Việt Nam ngay từ buổi đầu ta thấy Sĩ Nhiếp (178 – 266) đã tổng hợp Nho giáo
chính thống từ phương Bắc xuống với Phật giáo của Khương Tăng Hội từ phương Tây
Bắc Ấn Độ đến Giao Chỉ thế kỷ thứ III đem theo thiền học Đại Thừa Phật giáo”1.
Trung tâm Phật giáo Luy Lâu là một trung tâm của Phật giáo Việt Nam được hình
thành từ rất sớm tại vùng đất Giao Chỉ, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Để có được một trận mưa, phải có ít nhất bốn hiện tượng thiên nhiên hợp lại, đó
là: Mây, sấm, gió, mưa. Và, người nông dân cho rằng, mỗi hiện tượng mưa xuất hiện
được làm ra bởi pháp thuật của một vị thần. Người làm nông cần có nước để tưới cây
hoa màu, cần mưa hòa gió thuận. Lúc bấy giờ, người nông dân trồng trọt hoa màu phụ
thuộc vào thời tiết và xem tự nhiên thiên nhiên như những bậc siêu nhiên, con người
không thể khống chế vào lực siêu nhiên ấy. Trước khi Phật giáo du nhập vào nước ta,
người nông dân Việt đã sẵn có các thần: Mây, mưa, sấm, gió mang tính bản địa của
mình, bởi trong thế giới quan của những cư dân trồng lúa nước không thể vắng bóng
những lực lượng siêu nhiên có khả năng tác động đến sự thành bại của một vụ gieo
trồng, nhất là với điều kiện canh tác của người Việt khi ấy còn phải phụ thuộc rất nhiều
vào tự nhiên.
Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp được hình thành khi đạo Phật du nhập vào
nước ta, là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước ta mang đậm màu sắc của nền văn
minh lúa nước kết hợp với Phật giáo tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ. Hình
thái thờ thần Tứ Pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ
sơ khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên.
Tứ Pháp bao gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Bốn Pháp này
tượng trưng cho những thế lực thiên nhiên như: mây, mưa, sấm, chớp. Tứ Pháp được
hình thành là sự kết hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian của những người nông
dân cầu mong mưa thuận, gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng thịnh vượng …các ngôi
1

Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam I- II- III, Nxb TP. HCM, Tr 17.



1


chùa thờ Tứ Pháp cũng ra đời để đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân qua việc thờ
cúng. Những lễ hội và kiến trúc của các ngôi chùa thờ Tứ Pháp cũng được xuất hiện từ
đây. Trải qua hơn hai ngàn năm, giá trị văn hóa ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp vẫn
còn bảo tồn và gìn giữ.
Để bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa ấy, học viên chọn đề tài “Kiến trúc
và lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu Bắc Ninh” với mong muốn tìm hiểu, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa vật thể và
phi vật thể tại đây.
Với đề tài này, học viên sẽ đi sâu nghiên cứu lĩnh vực lễ hội và kiến trúc ở
những ngôi chùa thờ Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tương ứng
với bốn ngôi chùa: Chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn tại trung tâm Phật giáo
Luy Lâu, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chùa Dâu nói riêng cũng như trung tâm Phật giáo Luy Lâu là trung tâm Phật
giáo sớm nhất ở Việt Nam, có vị trí, vai trò quan trọng đối với đạo Phật nói chung và
tín ngưỡng thờ cúng của dân tộc Việt Nam nói riêng. Vì vậy hệ thống những ngôi chùa
thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu đã thu hút các các nhà khoa học nghiên
cứu từ các sử liệu.
Có rất nhiều đề tài được nghiên cứu xung quanh về chùa Dâu cũng như những
ngôi chùa thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu thông qua lễ hội, kiến trúc. Có
thể nói cho đến nay chùa Dâu vẫn lưu giữ được nhiều bản ghi chép về kiến trúc và lễ
hội, trong đó đáng chú ý nhất là kho ván in kinh gồm hơn 100 ván, chia ra làm mười
hai bộ sách khác nhau như: Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngũ lục, Cổ Châu Phật
bản hạnh ngữ lục, Hiến Cổ Châu Phật tổ Nghi, Nhân quả kinh quốc ngữ, Kỳ vũ kinh,
Tam giáo kinh… Đó là di sản Hán – Nôm quý hiếm ít nơi có2. Cuốn sách Cổ Châu
Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục là cuốn sách song ngữ Hán Nôm, còn cuốn Cổ
Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngũ Lục là cuốn truyện thơ lục bát nôm. Hai cuốn này

đều nói về sự tích Man Nương được coi là biên soạn vào khoảng từ thế kỷ 15 đến thế
2

Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, Nxb Thanh niên, tr. 70

2


kỷ 18. Cuốn thứ ba là Hiến Cổ Châu Phật Tổ Nghi nói về các nghi thức tế lễ. Như vậy
ba cuốn sách này được xem là những tài liệu cổ xưa nhất, còn được lưu giữ tại nhà
chùa. Trong cuốn sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp cũng nói về truyện
Man Nương nhưng so với Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh ngữ lục thì Trần Thế
Pháp đã rút ngắn truyện lại còn khoảng một phần ba. Đến đầu đời Lê, khi nền Phật giáo
dân tộc phục hưng mạnh mẽ, Phật Pháp Vân được nhiều lần thỉnh lễ về Hà Nội để cầu
đảo và tôn thờ, Lý Tử Tấn (1378 – 1460) đã viết một bài ký về đức Phật Pháp Vân với
nhan đề: Pháp Vân Cổ Tự Bi ký chép trong Toàn việt thi lục và Kiến văn tiểu lục 9, cả
2 đều do Lê Quý Đôn biên soạn. Về mặt chính sử thì Phật Pháp Vân xuất hiện lần đầu
tiên vào năm 1073 dưới thời vua Lý Nhân Tông, khi vua mới lên ngôi.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống Tứ
Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Một trong những tác giả có nhiều công trình
nghiên cứu nhất phải kể đến là tiến sĩ sử học Trần Đình Luyện. Cuốn sách thứ nhất:
Luy Lâu lịch sử và văn hóa, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh, xuất bản năm 1999;
cuốn thứ 2 Lễ Hội Bắc Ninh – Sở Văn Hóa Thông tin Bắc Ninh, xuất bản năm 2003.
Đặc biệt trong đó phải kể đến cuốn sách: chùa Dâu và lễ hội rước Phật Tứ Pháp,
Phòng Văn hóa Thông tin Thể thao huyện Thuận Thành, 2000. Trong các cuốn sách
này Trần Đình Luyện đã nghiên cứu rất kỹ về kiến trúc và lễ hội chùa Dâu, nhưng chủ
yếu nhìn dưới góc độ sử học, và tác phẩm ấy vẫn chưa nêu lên tổng quan của bốn ngôi
chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Cuốn sách Chùa Dâu – Cổ Châu, Pháp Vân, Diên Ứng Tự tác giả Nguyễn
Quang Khải – Nxb Tôn giáo, năm 2011, tác giả cũng trích dẫn truyền thuyết chùa Dâu

dựa theo bản: Cổ Châu pháp Vân bản hạnh.
Cuốn sách: Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, tác giả: Nguyễn Hữu – Nxb
Thanh niên, 2010. Trong cuốn sách này nhà văn Nguyễn Hữu đã viết khá kỹ càng về
lịch sử Chùa Dâu, đặc biệt mô tả về lễ hội Chuà Dâu. Tuy nhiên tác phẩm vẫn chưa
nêu lên được giá trị kiến trúc của ba ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp còn lại.
Ngoài ra, các cuốn sách Chùa Dâu và nghệ thuật Tứ Pháp, của tác giả Phan Cẩm
Thượng, xuất bản năm 2002, Nxb Mỹ Thuật, và cuốn Sự tích Đức Phật chùa Dâu,
3


Nguyễn Quang Hồng, Nxb Văn hóa Thông tin, 1994 cũng chưa đề cập đến nhiều về lễ
hội và kiến trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Như vậy, vấn đề nghiên cứu về lễ hội và kiến trúc Chùa Dâu chưa từng được
nghiên cứu một cách hệ thống, nói cách khác chưa nghiên cứu dưới góc độ Việt Nam
học. Đề tài này, người viết sẽ kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu
trước đó và khảo sát thực tiễn để làm rõ những giá trị văn hóa qua kiến trúc và lễ hội ở
những ngôi chùa cổ thờ tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu về lễ hội và những kiến trúc điêu khắc nghệ thuật độc đáo ở những
ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh nhằm mục đích
hệ thống lại kiến thức lịch sử về bốn ngôi chùa Tứ Pháp, ý thức việc bảo tồn và phát
huy những lễ hội nhằm nâng cao tính giáo dục, tính đoàn kết của con người Thuận
Thành nói chung và người con Việt Nam nói riêng, bảo tồn những kiến trúc độc đáo ở
những ngôi chùa này thông qua việc tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao giá trị văn hóa.
Mục tiêu cụ thể
Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
những ngôi chùa cổ thông qua những di tích lịch sử có tính chất giáo dục và vẫn còn
phát huy đến ngày hôm nay, những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở những lễ hội

và các loại hình nghệ thuật kiến trúc tại đây.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Những kiến trúc và lễ hội của bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp: Chùa Dâu thờ Pháp
Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi, chùa Dàn thờ Pháp Điện tại
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian
Đề tài tập trung vào không gian nghiên cứu ở bốn chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung
tâm Phật giáo Luy Lâu - Bắc Ninh:
 Chùa Dâu: Thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh.
 Chùa Đậu: Thôn Đông Cốc, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh.
 Chùa Tướng: Thôn Thanh Tương, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh.
 Chùa Dàn: Thôn Phương Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh.
Về thời gian
Đề tài sẽ nghiên cứu về Kiến trúc, lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ở thời gian hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
Với tinh thần kế thừa và phát huy những gì mà những nhà nghiên cứu đi trước,
thông qua việc sưu tầm các tài liệu, tiến hành phân tích để tìm ra những mặt mạnh,
những mặt hạn chế trong việc bảo tồn, giữ gìn kiến trúc, lễ hội có tính văn hóa. Từ đó,

tổng hợp những điểm mạnh và sắp xếp vào luận văn một cách có hệ thống.
Tham khảo một số sách về văn hóa, lễ hội, tôn giáo, lịch sử, nghệ thuật kiến
trúc cũng như tham khảo một số luận án tiến sĩ, các luận văn thạc sĩ, các bài báo cáo
khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị
5


văn hóa qua những lễ hội, các công trình kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật tại chùa Dâu,
chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn để nêu lên được giá trị văn hóa lễ hội, nghệ thuật
kiến trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc
Ninh.
Phƣơng pháp so sánh lịch sử
So sánh những lễ hội tại những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp trước và sau khi Phật
giáo mới du nhập cho đến ngày nay. Những kiến trúc của các ngôi chùa thờ Tứ pháp từ
khi được thành lập cho đến hiện nay thông qua việc kế thừa, bảo tồn, phát huy của hậu
thế và biến đổi kiến trúc theo thời gian và tàn tích của chiến tranh.
Khảo sát thực địa.
Học viên sẽ trực tiếp đến huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh để khảo sát thực
tế, thu thập thông tin từ một số vị trụ trì ở bốn ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp: Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu.
Quan sát tham dự.
Học viên đi đến vùng đất Luy Lâu xưa – nay là huyện Thuận Thành vào hai thời
gian diễn ra các lễ hội nhiều nhất trong năm đó là:
Tháng Giêng Âm lịch (tức là tháng 2 Dương lịch) để quan sát những sinh hoạt
tín ngưỡng tôn giáo của người dân thông qua hình thức lễ Phật đầu năm, mong sự bình
an, có nhiều sức khỏe, hạnh phúc đến với gia đình, cầu nguyện mưa hòa gió thuận, làm
ăn phát đạt trong công việc.
Từ ngày mùng 05 đến ngày mùng 10 tháng tư Âm lịch (tức là tháng 5 Dương
lịch). Thời gian này, học viên có cơ hội xem được tiến trình diễn ra lễ hội nổi tiếng
nhất trong năm là lễ hội chùa Dâu tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Thông qua việc khảo sát này, học viên sẽ càng hiểu sâu hơn về lịch sử, kiến trúc
từng ngôi chùa, hiểu được tín ngưỡng thờ Tứ Pháp ảnh hưởng bởi khí hậu, tự nhiên của
đồng bằng Bắc Bộ, chính những lễ hội này đã làm cho con người đoàn kết hơn, biết
yêu thương nhau, con cháu nhớ về cội nguồn, quê hương tổ quốc.

6


Ngoài Bốn phương pháp nghiên cứu nêu trên, tác giả còn sử dụng phương pháp
tiếp cận, phương pháp liên ngành Văn hóa học, và phương pháp Mỹ thuât học cho việc
nghiên cứu đề tài của học viên.
6. Ý nghĩa đề tài
6.1. Về khoa học
Củng cố cơ sở lý luận, các khái niệm về lễ hội, kiến trúc, Tứ Pháp, giá trị văn hóa,
nêu tổng quan về Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Sau khi nghiên cứu tìm hiểu lịch sử, văn hóa, tác giả sẽ đưa ra những thông tin thiết
thực để phát huy những văn hóa có giá trị cho nhà chùa, và có thể cung cấp những
thông tin mới cho những người yêu thích nghiên cứu về những lễ hội và kiến trúc
những ngôi chùa cổ tại trung tâm Luy Lâu trong việc làm bài luận văn hay khảo luận
của các học viên cao học hoặc sinh viên Việt Nam học trong lĩnh vực khu vực học.
6.2. Về thực tiễn
Người viết sẽ tư vấn cho việc xây dựng mô hình kiến trúc của các ngôi chùa thờ Tứ
Pháp tại Bắc Ninh, truyền đạt những thông tin để bảo tồn kiến trúc, giữ gìn bản sắc văn
hóa thông qua những lễ hội của những ngôi chùa cổ tại vùng đất Luy Lâu xưa, và xa
hơn nữa, sẽ truyền đạt những thông tin các giá trị này cho các thế hệ sau.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học và thực tiễn, tham mưu cho các cơ
quan chức năng, trước hết là của tỉnh Bắc Ninh trong việc bảo tồn, phát huy những giá
trị văn hóa lễ hội và kiến trúc. Mặt khác, đề tài cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm tìm hiểu về những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh.

7. Bố cục của Luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, và Kết luận, Phụ lục, Nội dung chính của luận văn phân
bố trong ba chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Trong chương này, Học viên trình bày một số vấn đề mang tính lý thuyết. Đó là
các khái niệm liên quan đến đề tài: Kiến trúc, lễ hội, văn hóa, giá trị văn hóa, Tứ Pháp,
tổng quan về huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh và lịch sử ra đời, hình thành và phát
7


triển, đối tượng thờ cúng tại những ngôi chùa thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy
Lâu xưa, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Chƣơng 2. Kiến trúc của những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật
giáo Luy Lâu.
Nghiên cứu làm rõ văn hóa dân gian dân tộc với sự ảnh hưởng của Phật giáo
qua nghệ thuật kiến trúc, trang trí của Tứ pháp. Chương này đi sâu vào tính bản địa, và
những sản phẩm của văn hóa trong nghệ thuật kiến trúc, phân bố cách thờ phượng,
không gian thờ cúng, nghệ thuật trang trí để từ đó nêu lên giá trị văn hóa qua nghệ
thuật kiến trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp, nêu ra một số giải pháp, kiến nghị
để bảo tồn và phát huy giá trị của những ngôi chùa cổ tại vùng đất huyện Thuận Thành
– Bắc Ninh.
Chƣơng 3. Lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo
Luy Lâu.
Trong chương này, Học viên sẽ nêu lên những nghi lễ và hội thi trong những
ngày diễn ra lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, để từ đó khái quát được giá trị văn hóa của các lễ hội bởi giá trị cố kết cộng
đồng, giá trị tâm linh, giá trị giáo dục.

8



CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN
VỀ NHỮNG NGÔI CHÙA CỔ THỜ TỨ PHÁP
1.1.

Cơ sở ý luận

1.1.1. Khái niệm Văn hóa
Khái niệm Văn hoá được hình thành từ khi loài người xuất hiện, văn hóa là sản
phẩm do con người sáng tạo ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”3.
Ông Federico Mayor - Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một
số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và
sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc
này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động”4.
Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và luôn thay
đổi theo thời gian. Trong tác phẩm Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc
Thêm cho rằng:
Từ "văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa);
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn)... Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm
tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động... Chính với cách

3
4

Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 431.
UNESCO (1989), Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989, Tr. 5

9


hiểu rộng này, văn hoá mới làđối tượng đích thực của văn hóa học. Tuy nhiên,
ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm định nghĩa khác
nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết cần xác định được những đặc trưng
cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt khái
niệm (sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích các cách tiếp cận văn hóa
phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thống, như giá trị, như hoạt
động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội...), có thể xác
định được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn
hoá như sau:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạovà tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội5.
1.1.1.1. Khái niệm giá trị
Trong Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Niên, Hà Nội của tác giả Trương Văn Hùng
cho rằng: “Giá trị là cái gì làm cho một vật nào đó trở nên ích lợi, cần dùng và có trao
đổi cho một vật khác: Giá trị cần dùng. Giá trị trao đổi”6.
Tác giả Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính
chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần,
là tốt, là hay, là đẹp, nói cách khác đó chính là những cái được con người cho là chân,
thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Do vậy, giá trị văn hoá nói ở
đây là giá trị xã hội, nó gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người, sự tồn tại

và phát triển của mỗi xã hội”7.
Giá trị cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá trình tư
duy, sản xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hoá. Giá trị, giá

5

Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Tr. 10
Trương Văn Hùng (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Hà Nội, Tr 485
7
Ngô Đức Thịnh (2009), “Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội
nhập”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình
đổi mới và hội nhập.
6

10


trị văn hoá là một hình thái của đời sống tinh thần, nó phản ánh và kết tinh đời sống
văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người.8
1.1.1.2. Giá trị văn hóa
Là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội trở nên lợi ích, có giá trị giữa con người với con người, giữa
con người với môi trường, giữa con người với xã hội.
Trong bài viết của tác giả Ngô Đức Thịnh ở Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập cho
rằng: “Giá trị văn hoá (Cultural Value) do con người trong mỗi xã hội sáng tạo ra
trong quá trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hoá đã hình thành thì nó lại có vai
trò định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con người trong các
xã hội ấy. Nó chính là một thứ vốn xã hội (Social Capital). Như thế, khi nói bản chất

của giá trị hay nói tới vai trò định hướng, chi phối, điều tiết của hệ giá trị thì về thực
chất chúng ta đang nói tới mối quan hệ đa chiều của con người. Cũng như văn hoá,
giá trị được sản sinh từ các mối quan hệ con người với tự nhiên, với xã hội”9.
1.1.2. Khái niệm lễ hội
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc biệt có tính tập thể, phản ánh tín
ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất, hay trong việc hình dung
lại các sự kiện lịch sử. Lễ hội ở mỗi quốc gia lại có những nét độc đáo riêng, mang
đậm dấu ấn riêng của quốc gia đó. Vì thế lễ hội giữ một vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần và đời sống xã hội, nó chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống
như: Kinh tế - xã hội, văn hóa, tâm lý và tôn giáo tín ngưỡng tộc người.

8

(truy cập 20/4/2019)
9
Ngô Đức Thịnh, 2009, Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội
nhập, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình
đổi mới và hội nhập

11


- Lễ
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, cuốn sách được
xuất bản năm 2010 tại nhà Nxb Từ điển Bách Khoa cho rằng: “Lễ là phép tắc phải theo
khi thờ cúng hay giao thiệp trong xã hội, trong lễ có lễ bái và lễ giáo”10.
Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con
người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc
sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.
Ngoài ra theo bài viết “Giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa của lễ hội” của tác

giả Nguyễn Hùng Vĩ - Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian được đăng trên webside Học
viện Báo chí và Tuyên truyền ngày 14/5/2016 cho rằng: “Lễ là cử chỉ của con người
để tỏ thái độ tôn trọng với nhau, cũng như với các biểu trưng của tín ngưỡng. Các cử
chỉ đó tạo thành phong tục trong đời sống hoặc các nghi thức trong tín ngưỡng, tôn
giáo, các nghi chế trong thiết chế xã hội”11.
- Hội.
Bài viết: “Giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa của lễ hội” được đăng trên
webside của Học viện Báo chí và tuyên truyền ngày 8/5/2016, Nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian Nguyễn Hùng Vĩ cho rằng: “Hội là sự tập hợp đông người để thực hành diễn
xướng, trình diễn các phong tục, tín ngưỡng, các hình thức văn hóa, tôn giáo, nghệ
thuật, các sinh hoạt tinh thần xã hội”12.
Từ điển tiếng Việt, do Viện Ngôn ngữ học tổ chức biên soạn, Hoàng Phê chủ
biên, được Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2003, đã
đưa ra định nghĩa như sau:
- Hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc
nhân dịp đặc biệt.
Ví dụ: Hội mùa. Ngày hội xuống đồng. Lòng vui như mở hội;
10

Ngôn ngữ học Việt Nam (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa, Tr. 275
/>12
(Truy cập
12/4/2016)
11

12


Tổ chức quần chúng rộng rãi của những người cùng chung một nghề nghiệp
hoặc có chung một hoạt động.

Ví dụ: Hội nghề nghiệp. Hội từ thiện13.
- “Lễ hội”: Cuộc vui tổ chức chung, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn
hóa truyền thống của dân tộc
Ví dụ: Hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống. Tổ chức lễ hội đón xuân14.
- Lễ hội.
Khái niệm lễ hội dùng để chỉ những sinh hoạt gồm cả lễ và cả hội, điều thường
thấy trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Lễ hội truyền thống là những lễ
hội đã trường tồn trong lịch sử cộng đồng xã hội, được bảo lưu, phát triển, lặp lại và
quảng bá không ngừng.
Vậy “Lễ hội” là gì?
Mỗi vùng miền, một quốc gia lại có hình thức tổ chức Lễ hội khác nhau. Chính vì thế
mà đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hình thái sinh hoạt văn hóa này. Sau đây là
một số khái niệm điển hình về “Lễ hội” như:
Khi nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “Lễ hội” ở nước Nga, M.Bachie cho
rằng: “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu diễn, đó là
cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể
thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế
giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương
tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại
hữu hiện, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh,
siêu việt và cao cả”15.
13

Hoàng Phê chủ biên (2003) do Viện Ngôn ngữ học tổ chức biên soạn, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Tr.
459.
14
Hoàng Phê chủ biên (2003) do Viện Ngôn ngữ học tổ chức biên soạn, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Tr.
561
15
(Truy cập 12/4/2016)


13


Nếu theo như định nghĩa này thì một sự kiện hay một cuộc chiến đấu của người
dân sẽ không được tưởng nhớ khi không có sự tác động và ảnh hưởng của con người.
Ở Việt Nam, khái niệm này đều là từ gốc Hán được dùng để gọi một nhóm loại
hình phong tục, chẳng hạn như: Lễ Thành Hoàng, Lễ gia tiên..., cũng như vậy trong hội
cũng có nhiều hội khác nhau như: Hội Gióng, Hội Lim, Hội chọi trâu. Thêm chữ “Lễ”
cho “Hội”, thời nay mong muốn gắn hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng này có ít
nhất hai yếu tố cũng là hai đặc trưng đi liền với nhau. Trước hết là lễ bái, tế lễ thần
linh, cầu phúc và sau là thăm thú vui chơi ở nơi đông đúc, vui vẻ (hội).
Hội là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu
cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân,
hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của
gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào
bốn chữ "Nhân khang, vật thịnh".
Hội và lễ là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hội và lễ có
sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội cũng tham gia để trở thành một nhu
cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ.
Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” – Phan Đăng Nhật cho rằng “Lễ hội là một kho
lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật
và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc...lễ hội còn là nơi bảo tồn,
tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử trong quá khứ dồn nén lại
cho tương lai”16.
Như vậy ta thấy “Lễ hội” là một thể thống nhất không thể tách rời. Lễ là phần
đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con người. Hội là các trò diễn
mang tính nghi thức, gồm các trò chơi dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật của
người dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm một sự kiện quan trọng với cả
cộng đồng.


16

Phan Đăng Nhật "Lễ hội cổ truyền", NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, Tr. 53

14


1.1.3. Kiến trúc
Ông Vitruvius - Một kiến trúc sư Roma trước công nguyên, tác giả của 5 bộ
sách về kiến trúc nổi tiếng đã nêu ba tiêu chí trong định nghĩa về kiến trúc: “Kiến trúc
phải hữu dụng, gây thích thú và phải là một tác phẩm nghệ thuật. Cụ thể hơn nữa, khi
lật giở những trang từ điển Đông – Tây”17.
Người Mỹ thì định nghĩa “Kiến trúc là nghệ thuật và khọa học thiết kế, xây
dựng các công trình hay các nhóm lớn công trình tuân thủ các tiêu chí thẩm mỹ và
công năng”18.
Người Pháp nói “Kiến trúc là nghệ thuật và khọa học xây dựng và trang trí các
ngôi nhà”19.
Người Australia thì xác định kĩ hơn: “Kiến trúc là nghệ thuật và khọa học xây
dựng, bao gồm quy họạch, thiết kế, cấu tạo và xử lý trang trí; là chuyên môn nghề
nghiệp của KTS”20.
Còn ở Việt Nam, xin trích ngang từ Từ điển bách khọa Việt Nam (tập 2): “Kiến
trúc là nghệ thuật thiết kế và xây dựng các công trình, tổ chức các môi trường không
gian, phục vụ cho cuộc sống và họạt động của con người”21.
Trong Từ điển Tiếng Việt, của Nxb Thanh Niên – Hà Nội, năm 2007, tác giả
Trương Văn Hùng cho rằng: “Kiến trúc là xây đắp, xây cất vật liệu kiến trúc, kiến trúc
bằng vật liệu nhẹ”22.
1.1.4. Tứ pháp
“Tứ” là bốn. “Pháp”, trong Phật giáo, tiếng Phạn là Dharma, tiếng Pali là Dhamma,
tiếng Việt có nghĩa là chân lý, thiện pháp, là những sự vật hay hiện tượng được dùng

để tín ngưỡng trong tôn giáo. Pháp ở đây có nghĩa là: Mây, mưa, sấm, chớp được hóa
thành các vị Phật: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.

17

(truy cập 22/3/2016)
(truy cập 22/3/2016)
19
(truy cập 22/3/2016)
20
(truy cập 22/3/2016)
21
(truy cập 22/3/2016)
22
Trương Văn Hùng, 2007, Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Hà Nội, Tr 627
18

15


Tứ pháp là danh từ để chỉ các nữ thần bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian – thờ các
vị thần thiên nhiên gồm: Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có
vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì
nhóm các nữ thần này được biến Tứ pháp thành bốn vị Phật: Phật Pháp Vân, Phật Pháp
Vũ, Phật Pháp Lôi, Phật Pháp Điện.
Pháp Vân được thờ ở chùa Dâu (tên chữ Hán là Diên Ứng, Cổ Châu, Thiền Định),
chùa tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, nên gọi là bà Dâu. Pháp Vân
tượng trưng cho thần Mây.
Pháp Vũ được thờ ở chùa Đậu, và ngày nay mọi người thường hay gọi là Thành
Đạo Tự, tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Pháp Vũ

tượng trưng cho thần mưa. Mỗi khi trời hạn hán, dân làng thường hay lập bàn hương án
đối trước trượng Phật Pháp Vũ để cầu mưa.
Pháp Lôi được thờ ở chùa Tướng hay còn gọi là chùa Phi Tương, Phi Tướng Đại
Thiền Tự, chùa tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, Pháp lôi tượng trưng
cho thần sấm, nên gọi là bà Tướng.
Pháp Điện được thờ ở chùa Dàn, ngày nay được gọi là chùa Xuân Quang, chùa tọa
lạc ở thôn Phương Quan, xã Trí Quả. Pháp Điện tượng trưng cho thần Sấm nên gọi là
bà Dàn.

16


Bảng 1.1. Những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp ở trung tâm Phật giáo Luy Lâu, Bắc Ninh
Địa danh

STT

Tên cũ
Xã Thanh Khương, huyện

1

Đối tƣợng thờ

Tên chùa

Dâu

Tên ngày nay
Diên


Ứng,

Cổ Pháp Vân

Châu, Thiền Định

Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh
Xã Thanh Khương, huyện

2

Đậu

Thành Đạo

Pháp Vũ

Tướng

Phi Tương

Pháp Lôi

Xuân Quang

Pháp Điện

Thuận Thành, tỉnh Bắc

Ninh
Xã Thanh Khương, huyện

3

Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh
Thôn Phương Quan, xã

4

Dàn

Trí Quả, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh
Nguồn: Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, Nxb. Thanh Niên.
Ngoài một số ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp ở trung tâm Phật giáo Luy Lâu, ở vùng
Thuận Thành23 còn có một số ngôi chùa khác cũng thuộc về nhóm di tích các chùa Tứ
Pháp. Những ngôi chùa này có một số điểm chung sau đây: Đối tượng thờ chính hoặc
là Tứ Pháp, hoặc là chi nhánh của Tứ Pháp, "Học trò" của Tứ Pháp; cách bài trí Phật
điện tương tự Phật điện các chùa Tứ Pháp, ngày hội chùa trùng với những ngày lễ hội ở
những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu - Bắc Ninh (mồng
Tám tháng Tư Âm lịch)... Tiêu biểu là:
- Chùa Huệ Trạch ở làng Xuân Quan (Dàn Chợ), xã Trí Quả. Đây là nơi thờ
Phật Pháp Thông (Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật), một "Học trò” của Tứ Pháp).
- Chùa Đại Trạch ở làng Đại Trạch, xã Đình Tổ, cũng là nơi thờ Phật Pháp
Thông.
23

Huyện nằm trong trung tâm Phật giáo Luy Lâu - Bắc Ninh.


17


- Chùa Hà ở làng Công Hà, xã Hà Mãn, là nơi thờ Bà Hà, một "Chi cành" của bà
Dâu (Pháp Vân).
- Chùa Ngọc Trì (ở làng Ngọc Trì), chùa Ngọc Nội (ở làng Ngọc Nội), chùa
Thuận An (ở làng Thuận An), chùa Đức Nhân (ở làng Đức Nhân), chùa Nghi An (thuộc
làng Nghi An) - đều thuộc xã Trạm Lộ - cũng là những nơi thờ Tứ Pháp.
Sự xuất hiện các ngôi chùa Tứ Pháp kể trên đã minh chứng cho sự lan toả và
ảnh hưởng sâu rộng của trung tâm Phật giáo Luy Lâu tới đời sống tôn giáo, tín ngưỡng
của nhân dân các vùng gần xa. Các di tích này chính là những bổ sung quan trọng cho
nhóm di tích chùa Tứ Pháp tại trung tâm vùng Dâu.
Bảng 1.2. Hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp ở các địa phương
ngoài trung tâm Luy Lâu- Bắc Ninh.
Địa danh

STT
1

2

3

Tên chùa

Đối tƣợng thờ

Xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, Thái Lạc


Pháp Vân

tỉnh Hưng Yên

Hồng Cầu

Pháp Vũ

Nhạc Miếu

Pháp Lôi

Hồng Thái

Pháp Điện

Xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Thôn Cầu

Pháp Vân

Hưng yên

Hoằng

Pháp Vũ

Hướng Đạo

Pháp Lôi


Tân Nhuế

Pháp Điện

Quế Lâm

Pháp Vân

Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam

Do Lễ
Thôn Bốn
Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam

Bà Đanh

Huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam

Trinh Sơn

Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam

Đặng Xá

Huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam

Nứa

Pháp Vũ


Pháp Lôi

18


4

TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Bà Bầu

Pháp Điện

Thi Sơn, Kim Bảng, Hà Nam

Quyển Sơn

Thờ cả Tứ Pháp

Thanh Sơn, Kim Bảng, Hà Nam

Thanh

Nộn,

Phú

Viên, đình làng Lạt
Sơn


5

6

Văn Xá, Kim Bảng, Hà Nam

Chanh Thôn

Thường Tín, Hà Nội

Pháp Vân

Pháp Vân

Đậu

Pháp Vũ

Phường Giáp Lục, quận Hai Bà Sét (Đại Bi)

Thờ cả Tứ Pháp

Trưng, Hà Nội
7

Xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Keo (Sùng Nghiêm) Pháp Vân
Nội


Ninh


Hiệp,

huyện Gia Chùa Nành

Lâm, Hà Nội
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn sách liên quan đến những ngôi chùa thờ Tứ Pháp
1.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp
tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh
1.2.1. Khái quát về huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Trong vùng văn hóa cổ, phong phú và độc đáo ở tỉnh Bắc Ninh. Thuận Thành là
một địa bàn có vị trí hết sức đặc biệt, nơi đây từng giữ vai trò thủ phủ đất nước, kinh tế,
văn hóa phát triển rực rỡ; là một trong những quê hương của các huyền tích về tổ tiên
mở nước; là nơi sản sinh ra các tài danh trên các lĩnh vực học hành, cầm, kỳ, thi, họa;
là quê hương của những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng.
Đất Thuận Thành hôm nay là địa bàn chính của một bộ lạc thời các vua Hùng, là
địa bàn chính huyện Luy Lâu thời thuộc Hán và các đế chế Trung Hoa trong suốt 10
thế kỷ đầu Công nguyên. Thời Lý, Trần, là trung tâm của phủ Siêu Loại. Thời Lê là
trung tâm của phủ Thuận An. Sang thời Nguyễn, vào năm 1862, đổi tên là phủ Thuận
Thành, vẫn bao gồm 5 huyện: Siêu Loại, Gia Bình, Lang Tài, Văn Giang, Gia Lâm.
19


Huyện Thuận Thành ngày nay cơ bản là phần đất của huyện Siêu Loại thuộc phủ
Thuận An xưa kia.
Tên gọi qua nhiều lần thay đổi, song lịch sử miền đất này là một dòng chảy liên
tục. Trước hết, Thuận Thành là miền đất xuất hiện khá sớm, một trung tâm tụ cư của
dân Việt cổ trong quá trình từ miền cao tiến xuống, từ miền biển ngược lên, khai phá
đồng bằng. Trước đây, dù lăng tổ Kinh Dương Vương từ nghìn xưa đã được đặt tại
thôn Á Lữ (xã Đại Đồng Thành), dù dân gian còn truyền lưu rộng rãi câu chuyện về

những ông tổ Việt cổ: Đế Minh - Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân, Âu Cơ. Nhưng
chứng tích vật chất Việt Cổ ở đây vẫn chưa được phát hiện, nên những hiểu biết về đất
Thuận trước Bắc thuộc, không phải không có những chỗ chưa rõ ràng. Cuối năm 1990,
nhờ người dân giúp đỡ, cán bộ ngành văn hóa Bắc Ninh đã phát hiện một khu mộ Việt
cổ (hiện biết 2 mộ) tại thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, với những bộ hài cốt khá hoàn
chỉnh và hàng loạt đồ tùy táng đặc sắc: trống đồng minh khí, tấm che ngực, rìu giáo,
dao găm, mũi lao,... bằng đồng. Kết quả giám định ban đầu cho biết chủ nhân của
những hiện vật này là những người sáng tạo ra văn minh Đông Sơn rực rỡ, cách ngày
nay chừng 2300 - 2500 năm. Như vậy, có thể khẳng định rằng, ít nhất là từ thời Hùng
Vương dựng nước, đất Thuận Thành đã hình thành và là một địa bàn tụ cư khá lớn
dưới thời các vua Hùng.
Về mặt địa lý - cảnh quan, Thuận Thành là một vùng có ý nghĩa khá đặc biệt.
Theo trục Bắc - Nam, đây là vùng chuyển tiếp giữa miền cao Vĩnh Phú (mà Tiên Sơn,
với những núi sót là điểm cuối) với miền đồng bằng phía Nam. Theo trục Đông - Tây,
Thuận Thành là vùng chuyển tiếp giữa miền đồng bằng lưu vực sông Hồng, với miền
đồng bằng lưu vực sông Thái Bình - hai miền đồng bằng quan trọng nhất hợp thành
châu thổ Bắc Bộ. Sông Dâu, sau này là sông Đuống, cùng với các tuyến đường bộ dọc
theo hệ thống các tuyến sông ấy, chính là mạch máu giao thông giữ vai trò giao lưu chuyển tiếp cực kỳ quan trọng và sinh động của miền đất này.
Nhờ điều kiện thuận lợi, nên ngay sau khi được khai mở, Thuận Thành đã trở
thành địa bàn có sức hút mạnh mẽ cư dân Việt cổ từ các miền về đây tụ cư, xây dựng,
đưa vùng đất này từ rất sớm, trở thành một trung tâm kinh tế văn hóa phát triển. Điều
20


đó cắt nghĩa vì sao, ngay sau khi xâm lược nước ta, nhà Hán đã dựng tại đây trung tâm
cai trị - thủ phủ của chính quyền đô hộ dù có qua nhiều lần dịch chuyển cũng vẫn cứ
quanh quẩn ở miền đất này. Bước sang thời kỳ đất nước độc lập tự chủ, vai trò trung
tâm của đất Thuận Thành vẫn không hề suy giảm. Chính vì vậy, trong giai đoạn 12 sứ
quân, đất Thuận Thành và miền phụ cận đã được hai thủ lĩnh Lý Khuê và Lữ Đường
chọn làm nơi xây dựng địa bàn của mình. Dưới các thời Lý - Trần - Lê, kinh đô đất

nước đã định vị tại Thăng Long, song đất Thuận vẫn được các vị vua cùng các đại thần
và cả triều đình hết sức chú ý bởi vai trò phên dậu - cửa ngõ, một trung tâm kinh tế văn hóa phồn hưng của đất này.
Cũng chính do vai trò quan trọng của miền đất Thuận Thành, mà trong mắt kẻ
xâm lược, nơi đây trở thành một mục tiêu chiếm đóng hàng đầu. Vì vậy, từ rất sớm,
người dân Thuận Thành luôn phải đối mặt với kẻ xâm lược và đã góp nhiều công lớn
với dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước. Có thể kể tới cuộc nổi dậy quật cường của
Hai Bà Trưng, xóa sạch trung tâm đô hộ nhà Hán tại Luy Lâu; cuộc kháng chiến vĩ đại
chống Nguyên Mông của quân dân thời Trần - mà sông Dâu, đất Thuận là cầu nối giữa
Thăng Long - kinh đô với Lục Đầu giang - nơi tập kết của giặc, nơi đón địch của ta.
Trong các cuộc nổi dậy và kháng chiến lớn ấy, nhân dân Thuận Thành vừa là lực lượng
tại chỗ, vừa đóng góp cho nghĩa quân nhiều tướng tài, binh giỏi, mà ngày nay, hàng
loạt đình đền trong địa phương còn hương khói thờ phụng tưởng nhớ họ.
Thuận Thành cũng là miền đất có sự phát triển kinh tế khá sớm với tốc độ hưng
khởi nhanh, mạnh. Buổi đầu khai mở đất này, cư dân ở đây chủ yếu hoạt động trong
các lĩnh vực đánh bắt cá, trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm (với nghề trồng dâu nuôi tằm
mà Ỷ Lan nguyên phi, thời Lý, người con gái của đất này, như một biểu tượng của sự
tiếp tục truyền thống). Kết quả đợt khai quật khảo cổ học, xuân 1986, đã phát hiện tại
trung tâm Dâu, trên bãi Đồng Dâu, di chỉ làng chài khá lớn, buổi đầu công nguyên với
hàng trăm chì lưới, bằng đất nung, đủ các cỡ, chứng tỏ một nghề chài lưới thực sự
thịnh đạt tại đây.
Đồng thời với sự hình thành một trung tâm chính trị, kinh tế, là trung tâm văn
hóa Thuận Thành.
21


Trước hết, đất Thuận là một trung tâm văn hóa dân gian khá tiêu biểu và phong
phú. Đây là nơi sản sinh và lưu giữ lâu đời tín ngưỡng cư dân nông nghiệp Việt cổ,
biểu hiện qua việc thờ các nữ thần mây, mưa, sấm, chớp (sau này được hệ thống hóa
thành hệ thống Tứ pháp); biểu hiện qua tín ngưỡng phồn thực, mà việc thờ Thạch
Quang tại đền Dâu xưa, chùa Dâu nay, là nét điển hình. Đây cung là nơi sản sinh

chuyện tổ tiên mở nước (Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Âu Cơ), sản sinh
những sinh hoạt văn nghệ dân gian đặc sắc (múa rối nước Đồng Ngư, Bùi Xá (xã Ngũ
Xá), hát ả đào, hát trống quân...). Trung tâm văn hóa - tín ngưỡng dân gian Việt cổ,
vùng Dâu, trong những thế kỷ đầu công nguyên, đã hòa nhập với Phật giáo từ Ấn Độ
truyền sang, đưa tới sự xuất hiện một trung tâm Phật giáo đầu tiên ở nước ta, mà hình
ảnh người con gái Việt (Man Nương) gắn chặt với sự gia đời hệ thống chùa thờ Tứ
pháp và trung tâm Phật giáo Dâu. Toàn bộ đặc điểm chùa chiền và hệ thống tượng
Phật, cách bài trí tượng Phật, cùng những sinh hoạt Phật giáo tại đây, đều được bắt
nguồn từ thực tế ấy. Điều đáng quan tâm ở đây là, ngay từ những thế kỷ đầu công
nguyên, trung tâm Phật giáo Dâu đã hình thành và ngày càng phát triển, có tác động
sâu rộng tới đời sống nhân dân trong vùng. Trải qua các triều đại Lý - Trần - Lê sau
này, Thuận Thành vẫn là một quê hương chùa tháp và Phật giáo nổi tiếng24.
Để phục vụ âm mưu đồng hóa, ngay từ thời thuộc Hán, các thái thú Tích Quang,
Nhâm Diêm, đặc biệt là thái thú Sĩ Nhiếp sau này, đã đẩy mạnh việc mở trường dạy
chữ Nho. Vì lẽ ấy, Dâu – Luy Lâu không chỉ là nơi đan xen khá phức tạp văn hóa Việt
– Hán, mà còn sớm hình thành một trung tâm Nho học lớn. Những chùa Bình, chùa
Định, đền Lũng, ở vùng Dâu đến ngày nay vẫn được giải thích là nơi bình văn, định
văn, là trường học.
Mặt khác, cũng từ trong trường kỳ tiếp biến và phát triển văn hóa đặc biệt, Thuận
Thành là nơi sản sinh và ngày nay đang lưu giữ những di sản văn hóa dân tộc vô cùng
quý báu. Trở về Thuận Thành là trở về một vùng của những lễ hội văn hóa cổ truyền
rực rỡ và sinh động. Tại đây, ta sẽ được dạo thăm một hệ thống di tích lịch sử, văn hóa,
24

Dưới thời Lý - Trần, đặc biệt là thời Lý, nhiều lần các vị vua đã tổ chức viếng thăm và làm
lễ (cầu đảo, cầu tự...) tại các chùa vùng Dâu.

22



khép kín về hành trình nhưng mở rộng về những hiểu biết, thẩm nhận kho tàng văn hóa
dân tộc. Đặt biệt là khu di tích những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Luy lâu là tên gọi một toà thành cổ - thành Luy Lâu, nơi đặt lỵ sở của chính
quyền đô hộ nhà Hán trên đất nước ta vào buổi đầu Công nguyên, nay thuộc xã Thanh
Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Luy Lâu cũng là tên một huyện - huyện
Luy Lâu thời thuộc Hán và các đế chế Trung Hoa trong nhiều thế kỷ dưới thời Bắc
thuộc. Luy Lâu cũng còn là một vùng văn hoá cổ, trung tâm của vùng văn hoá này cơ
bản là vùng đất thuộc huyện Thuận Thành ngày nay.
1.2.2. Tổng quan về những ngôi chùa cổ thờ tứ pháp

Hình 1.1. Sơ đồ các chùa thờ Tứ Pháp tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (nay là huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tại chùa Dâu ngày 22/2/2016
1.2.2.1. Chùa Dâu
Chùa Dâu còn gọi là chùa Pháp Vân, còn gọi là chùa Diên Ứng, hay Cổ Châu
tự. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226 là ngôi chùa lâu
đời được tọa lạc trên khu trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Nơi đây là thủ phủ của quận

23


Giao Chỉ (năm 203 đổi thành Giao Châu25) có từ thời của Sĩ Nhiếp, được vua nhà Hán
phong làm Thái thú tại quận này, đóng ở Luy Lâu – Dâu từ năm 187 đến 226.
Chùa Dâu là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, từ Ấn Độ sang và từ
phương Bắc xuống, chủ yếu bằng đường thủy theo dòng sông Dâu. Vào buổi đầu Công
Nguyên, các tăng sỹ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu-đà-la đã tới đây truyền bá đạo Phật đầu
tiên. Cuối thế kỷ VI, nhà sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này và lập nên
một phái thiền ở Việt Nam. Chùa Dâu trở thành trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi,
nơi trụ trì của nhiều cao tăng Việt Nam, Ấn Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên
soạn, phiên dịch kinh Phật, đào tạo tăng ni.

Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, những tài
liệu, cổ vật còn lại ở chùa Dâu, đặc biệt là bản khắc “Cổ Châu Pháp vân Phật bản
hạnh”, cùng kết quả nghiên cứu về lịch sử Phật Việt Nam của các nhà sử học và Phật
học đã khẳng định “Chùa Dâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam”, được nhà nước xếp
hạng di tích lịch sử ngày 28/4/1962.
Năm 1313, chùa được xây dựng lại và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp
theo. Đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông đã sai Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến
thiết lại chùa Dâu thành “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp”. Trải qua bao
thăng trầm và chiến tranh tàn phá nhưng chùa Dâu với tháp gạch cao sừng sững, với
tòa ngang, dãy dọc nguy nga, cổ kính vẫn còn đó.
Truyền thuyết dân gian ghi nhận người xây dựng lại chùa tháp ở Luy Lâu là ông
Mạc Đỉnh Chi, còn gọi là ông Điểm Chi (1272 – 1346). Sách Đại Nam nhất thống chí,
phần tỉnh Bắc Ninh ghi: “Đời Trần, Mạc Đỉnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín
tầng và cầu chín nhịp, nền cũ nay vẫn còn”26.
Chùa Dâu vào thời Trần được trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu mở rộng
với quy mô rất lớn theo kiểu “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp”. Đến thời
Lê Trung Hưng và thời Nguyễn, chùa Dâu tiếp tục được trùng tu và mở rộng.

25
26

Nguyễn Hữu, Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, NXB Thanh niên, 2014, Tr 6
Đại Nam nhất thống chí, Tập V, 1971, Bản dịch – Nxb Khoa học xã hội, Tr 109

24


Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, Chùa Dâu đã bị giặc Pháp - Nhật
chiếm đóng, phá phách, chứa thóc để phục vụ chiến tranh.
Đến năm 2011, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Chùa Dâu đã được

trùng tu tôn tạo với quy mô lớn.
Từ năm 2001, tỉnh Bắc Ninh ra được “Quy chế quản lý và sử dụng di tích Lịch
sử - Văn hoá”, đã phân cấp quản lý về nhà nước về di tích.
Chùa Dâu gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và tứ Pháp (Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), là biểu hiện sinh động sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo khi mới du nhập. Tương truyền, nàng
Man Nương, cô gái Kẻ Mèn (nay thuộc xã Hà mãn, Thuận Thành) dốc tâm học đạo
Phật, một hôm nằm ngủ quên, sư Khâu Đà La vô tình bước qua mà bỗng nhiên mang
thai. Kết quả đến giờ Ngọ ngày 08 tháng 4 (Âm lịch) thì sinh một nữ nhi. Nàng liền
đem con đến trả cho sư Khâu-đà-la. Nhà sư mang đứa bé đến gốc cây dung thụ gõ cây
đọc kệ. Cây dung thụ bỗng nứt toác ra ôm đúa bé vào lòng. Rồi Khâu-đà-la cho Man
Nương cây tích trượng và dặn khi nào có đại hạn cứ cắm xuống đất và ước nguyện thì
sẽ có nước để cứu dân. Thế rồi vào năm Giáp Tý, mưa bão đánh đổ cây dung thụ trôi
theo dòng sông Dâu về đến thành Luy Lâu thì quẩn không trôi được nữa. Bao nhiêu
chàng trai trong vùng được huy động đến kéo cây vào bờ nhưng cây không hề nhúc
nhích. Vừa lúc đó, Man Nương vô tình ra sông rửa tay, bỗng dưng cây dập dình như
con tìm thấy mẹ. Man Nương ném dải yếm ra thì cây dung thụ trôi ngay vào bờ. Cũng
khi ấy Sỹ Nhiếp trong thành Luy Lâu được mộng phải tạc cây dung thụ thành tượng Tứ
Pháp để thờ. Sỹ Nhiếp cho ngay thợ xẻ cây dung thụ tạc tượng Tứ Pháp. Khi tượng đã
làm xong, làm lễ đặt tên cho pho thứ nhất thì bỗng thấy trời nổi mây ngũ sắc liền đặt
tên là Pháp Vân, thờ ở chùa Dâu, dân gian gọi là bà Dâu. Khi đặt tên cho Pho thứ hai
thì bỗng thấy trời nổi gió lớn liền đặt tên là Pháp Vũ, thờ ở Chùa Thành Đạo (tức chùa
Đậu) dân gian gọi là bà Đậu. Đến khi đặt tên cho pho thứ ba thì bỗng thấy trời nổi sấm
ầm ầm thì liền đăt tên là Pháp Lôi thờ ở chùa Phi Tướng (tức chùa Tướng) dân gian gọi
là bà Tướng. Đến khi đặt tên cho pho thứ tư thì bỗng thấy trời nổi chớp, liền đặt tên là
Pháp Điện thờ ở chùa Phương Quan (tức chùa Dàn) dân gian gọi là bà Dàn. Nhưng khi
25



×