Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín chi nhánh Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.74 KB, 90 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
---------

CÙ XUÂN CHỈNH

GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY KHÁCH HÀNG
CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN
THƯƠNG TÍN CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số:

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Đỗ Văn Đức

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
-

TCTD

: Tổ chức tín dụng


-

TCKT

: Tổ chức kinh tế

-

NHTM

: Ngân hàng thương mại

-

Sacombank

: Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn Thương tín

-

Sacombank Đống Đa

: Chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn
Thương tín Đống Đa

-

PGD

: Phòng giao dịch


-

KHCN

: Khách hàng cá nhân

-

CBQHKHCN

: Cán bộ quan hệ khách hàng cá nhấn

-

QTTD

: Quản trị tín dụng

-

CBDVKHCN

: Cán bộ dịch vụ khách hàng cá nhân

-

CBQTTD

: Cán bộ quản trị tín dụng


-

LĐPQHKHCN

: Lãnh đạo phòng quan hệ khách hàng cá nhân

-

LĐPGD

: Lãnh đạo phòng giao dịch

-

SIBS

: Phân hệ phần mềm

-

DPRR

: Dự phòng rủi ro

-

CBCNV

: Cán bộ công nhân viên


-

TKTG

: Tài khoản tiền gửi

-

DNBL

: Dư nợ bán lẻ

-

SXKD

: Sản xuất kinh doanh

-

QHKH

: Quan hệ khách hàng


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế và gia nhập WTO, nền kinh tế
Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ, GDP luôn đạt ở mức trung bình 7.0%
và dự báo tiếp tục tăng trưởng. Các ngành kinh tế của đất nước đang phát
triển thuận lợi, cơ hội được tiếp cận những quan điểm, mô hình kinh doanh
mới từ các nước phát triển, từ các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động
tại Việt nam. Đi tiên phong trong đó là ngành ngân hàng tài chính. Với vai trò
là huyết mạch của nền kinh tế, ngành ngân hàng đang đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã
làm rất tốt trong quá trình lưu thông tiền tệ đối với nền kinh tế, thực hiện tốt
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy mọi thành phần
của nền kinh tế phát triển. Đối với ngành ngân hàng của chúng ta vẫn tập
trung tới hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp, chiểm tỷ lệ chủ yếu
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chưa chú trọng nhiều tới nhu cầu
của cá nhân. Một nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp tập trung huy động
vốn thông qua thị trường chứng khoán hay phát hành trái phiếu, cổ phiếu…
hạn chế vay vốn từ các ngân hàng. Hệ thống ngân hàng chủ yếu cung cấp các
dịch vụ phi tín dụng cho doanh nghiệp và chú trọng tới cung cấp các sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu của cá nhân, doanh thu từ hoạt động này là từ 3560% tổng doanh thu.
Chính vì lẽ đó, trong xu hướng phát triển tất yếu của ngành ngân hàng
Việt Nam trong thời gian tới sẽ phát triển theo mô hình ngân hàng bán lẻ. Nhận
thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngân hàng bán lẻ trong xu thế hiện
nay, các ngân hàng trong nước đã đưa ra các chính sách, sản phẩm và định
hướng lâu dài. Thể hiện rõ nhất là các ngân hàng ACB, ngân hàng Đông Á,
Sacombank, Techcombank….. Các ngân hàng nước ngoài như ANZ, HSBC,
CitiBank… sau khi thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài cũng muốn tham



2

gia thị trường còn sơ khai này. Các ngân hàng quốc doanh, hay chuyển đổi cổ
phần hoá cũng đã có nhứng chiến lược lâu dài, thời kỳ cho phát triển ngân hàng
bán lẻ.
Hoạt động cho vay cá nhân là một phần trong hoạt động của ngân hàng
bán lẻ, nó tạo ra khoản thu nhập lớn và ổn định dựa trên số đông người sử dụng,
đồng thời tăng hình ảnh của ngân hàng trong con mắt người dân, góp phần vào
sự phát triển bền vững, lâu dài của ngân hàng. Hoạt động cho vay đối với khách
hàng cá nhân tại Việt Nam vẫn còn khá nhỏ bé so với tiềm năng của nó và chưa
được các ngân hàng thương mại khai thác triệt để, chỉ tính con số 90,5 triệu dân,
trong đó 2/3 là dân số trong độ tuổi lao động và chỉ mới khoảng 20% dân số có
tài khoản và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Trước đây, hoạt động cho vay khách hàng cá nhân còn hạn chế xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, như công nghệ kém không đáp ứng các yêu cầu của sản
phẩm; nhận thức của ngân hàng đối với các khoản vay cá nhân còn hạn chế
được nhìn dưới góc độ rủi ro…dẫn đến các sản phẩm chưa đa dạng. Các ngân
hàng vẫn chỉ tập trung tới cho vay các doanh nghiệp, thị phần cho vay cá nhân
rất thấp.
Tại Sacombank Đống Đa, hoạt động cho vay KHCN trong những năm gần
đây đã bắt đầu được chú trọng, nhận thức được hoạt động bán lẻ là xu thế phát
triển chung của các ngân hàng trên thế giới, Sacombank Đống Đa đã bước đầu
định hướng phát triển rõ ràng hoạt động ngân hàng bán lẻ với mục tiêu cụ thể
phấn đấu trở thành ngân hàng có thị phần bán lẻ hàng đầu tại địa bàn.
Nhân thức được lợi ích mở rộng cho vay khách hàng cá nhân và qua quá
trình công tác tại Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín- Chi nhánh Đống Đa
(Sacombank Đống Đa) đề tài: “Giải pháp mở rộng cho vay khách hàng cá
nhân tại Ngân hàng TMCP Sài gòn Thương tín chi nhánh Đống Đa” được
chọn để nghiên cứu.



3

2. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu của đề tài tập trung vào các nội dung:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cho vay khách hàng cá nhân tại các
ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực trạng cho vay khách hàng cá nhân tại chi nhánh Đống Đa
trong các năm 2012, 2013, 2014.
Đưa ra các giải pháp mở rộng cho vay khách hàng cá nhân tại Chi
nhánh Đống Đa.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic, phương
pháp so sánh thống kê, toán học, phân tích kinh tế …khi nghiên cứu đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi thực hiện đề tài
Đối tượng của đề tài: hoạt động cho vay khách hàng cá nhân của NHTM.
Phạm vi thực hiện đề tài: Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại
Sacombank chi nhánh Đống Đa từ năm 2012-2014 và định hướng các giai đoạn
tiếp theo.
5. Kết cấu luận văn
Phần mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết cơ bản về cho vay khách hàng cá nhân
của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP
Sài gòn Thương tín- Chi nhánh Đống Đa.
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng
TMCP Sài gòn Thương tín- Chi nhánh Đống Đa.
Kết luận



4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ CHO VAY CÁ
NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm cho vay khách hàng cá nhân
Cho vay khách hàng cá nhân là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho các
khách hàng cá nhân với những điều kiện nhất định được thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng nhằm phục vụ mục đích của khách hàng.
1.1.2 Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
Cho vay KHCN có những đặc điểm riêng thể hiện sự khác biệt với các loại
hình cho vay khác như sau:
Đối tượng cho vay: là cá nhân và các hộ gia đình.
Quy mô khoản vay: hầu hết các khoản vay cho KHCN có quy mô nhỏ
những số lượng khoản vay lớn, do cho vay KHCN đáp ứng nhu cầu của cá nhân
và các hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh, nên quy
mô một khoản vay tương đối nhỏ so với tài sản của một ngân hàng, số lượng
khoản vay lại rất lớn do đối tượng của cho vay là các cá nhân và hộ gia đình với
số lượng nhiều và nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng.
Mục đích cho vay: Nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất
kinh doanh của cá nhân, hộ gia dình. Do đó, nhu cầu vay vốn phụ thuộc vào tâm
lý khách hàng và chu kì kinh tế của người đi vay . Khi nền kinh tế có sự tăng
trưởng cao và ổn định, KHCN sẽ có thái độ lạc quan hơn về tương lai, họ kì
vọng sẽ có khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai và thúc đẩy sự chi tiêu
cho tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh ở hiện tại. Ngược lại khi nền kinh tế
suy thoái người dân thường có xu hướng giảm tiêu dùng, giảm đầu tư vào sản
xuất kinh doanh, thay vào đó là tăng cường tiết kiệm và hạn chế vay mượn từ
ngân hàng.



5

Nhu cầu cho vay thường kém nhạy cảm với lãi suất, thông thường người
đi vay quan tâm đến số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ phải chịu.
Mức thu nhập và trình độ dân trí là hai nhân tố tác động rất lớn đến nhu cầu
vay của khách hàng.
Rủi ro đối với cho vay KHCN: mức độ rủi ro lớn và được coi là tài sản rủi
ro nhất trong danh mục tài sản của ngân hàng. Xuất phát từ bản thân khách hàng
vay vốn có thể có sự biến động về tình hình tài chính dẫn đến mất khả năng chi
trả hay khi khách hàng cố tình không chịu trả nợ hoặc do sự biến động về tình
trạng sức khỏe, công việc. Việc thẩm định khả năng trả nợ của các cá nhân hoặc
hộ gia đình cũng hết sức khó khăn. Ngoài ra để có được khoản vay nhiều khách
hàng giấu các thông tin về tình hình sức khỏe và công việc trong tương lai của
mình nên các ngân hàng dễ gặp phải rủi ro đạo đức khi cho vay. Do khoản cho
vay khách hàng cá nhân có độ rủi ro cao nhât nên các ngân hàng thường yêu cầu
phải có tài sản đảm bảo khi cho vay và yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm
thất nghiệp, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm hàng hóa.
Lãi suất cho vay: do quy mô của các khoản vay thường nhỏ (trừ các khoản
vay để mua bất động sản), dẫn đến chi phí cho vay (về thời gian, nhân lực đi
thẩm định, quản lí các khoản cho vay này) cao đồng thời rủi ro của các khoản
vay này cũng rất cao. Do vậy lãi suất cho vay KHCN thường cao hơn lãi suất các
khoản cho vay khác của NHTM.
Từ trước đến nay, cho vay KHCN vẫn được các ngân hàng coi là khoản
mục mang lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là nó
đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản
cho vay khác hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như vậy
với cho vay KHCN ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động
vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao (vì đã

bao hàm cả một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn
trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các


6

khoản cho vay KHCN mới không mang lại lợi nhuận. Nguồn thu nhập càng ổn
định, ngân hàng có khả năng kiểm soát thì lãi suất áp dụng cho khách hàng sẽ
giảm đi, do rủi ro từ việc cho vay đã được hạn chế.
Hạn mức cho vay KHCN: là số tiền tối đa mà ngân hàng cho khách
hàng vay. hạn mức cho vay KHCN được xác định dựa trên các yếu tố như:
nhu cầu vốn của khách hàng, số vốn tự có của khách hàng, giá trị của tài sản
đảm bảo. Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các hạn
mức khác nhau dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc nhu cầu vay hợp lý.
Thông thường, cho vay cầm cố có hạn mức cao nhất, chẳng hạn như nếu
khách hàng cầm cố sổ tiết kiệm, trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi có thể
được cấp một hạn mức bằng 100% giá trị tài sản cầm cố. Để có thể xác định
được hạn mức tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo của khách hàng, các ngân
hàng cần phải định giá chính xác tài sản đó. Nếu định giá quá thấp sẽ làm
giảm số tiền vay của khách hàng, nếu định giá quá cao sẽ dẫn đến rủi ro cho
ngân hàng.
1.1.3 Vai trò của cho vay khách hàng cá nhân
Hoạt động trước kia của các ngân hàng thương mại chủ yếu tập trung vào
đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp lớn, các tổ chức kinh tế có những
khoản vay lớn mà ít chú trọng đến đối tượng khách hàng là các cá nhân, dẫn đến
những lãng phí trong khai thác tiềm năng cũng như lợi ích từ nhóm đối tượng
khách hàng này.
Những năm gần đây, các NHTM cũng đã có những điều chỉnh trong hoạt động
của mình, chú trọng nhiều hơn đến đối tượng khách hàng là các cá nhân, hộ gia
đình …. Các sản phẩm cho đối tượng khách hàng này ngày một đa dạng, phong

phú, đáp ứng được phần nào nhu cầu của từng đối tượng khách hàng.
Đối tượng khách hàng cá nhân không chỉ là đối tượng có nhu cầu vay vốn.
Mà những đối tượng này còn là một lực lượng cung cấp cho các ngân hàng một
lượng vốn tương đối lớn và ổn định từ các khoản tiết kiệm cá nhân vì vậy tính ổn


7

định của nó rất cao tạo thuận lợi cho việc đầu tư vào các tài sản trung và dài hạn
của ngân hàng.
Tạo dựng được mối quan hệ tốt với nhóm đối tượng khách hàng này, các
NHTM vừa tiếp cận được các món cho vay phát sinh từ nhu cầu tiêu dùng cũng
như mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng cá nhân. Bên cạnh
đó khi có những khoản tiết kiệm hình thành từ nhóm khách hàng này thì các
ngân hàng đó cũng là nơi mà khách hàng sẽ lựa chọn gửi tiền tiết kiệm và sử
dụng các dịch vụ bán chéo của ngân hàng.
Từ những lí do trên có thể khẳng định khách hàng cá nhân là nhóm khách
hàng có một ví trí quan trọng trong hoạt động của một NHTM. Vị trí này
không những được lý thuyết khẳng định mà còn được thực tế hoạt động của
các ngân hàng chứng minh.
1.1.4 Các hình thức cho vay khách hàng cá nhân
Để có thể quản lý tốt cho vay KHCN cần thiết phải phân loại cho vay. Có
nhiều tiêu thức để phân loại một khoản cho vay, dưới đây tôi xin đề cập phân
loại theo một số tiêu chí sau:
* Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích cư trú: cho vay nhằm phục vụ nhu
cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Đặc điểm
của khoản vay này là thời gian dài và quy mô vay là lớn.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng: cho vay phục vụ nhu
cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng sinh hoạt, du lịch, học

hành, giải trí, chữa bệnh,… Đặc điểm của khoản vay này là quy mô nhỏ, thời
gian ngắn, rủi ro thấp hơn cho vay phục vụ mục đích cư trú.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh: cho vay để
thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh nhỏ ở từng cá nhân, hộ gia đình,
vay để buôn bán sản xuất kinh doanh,… Đặc điểm của các khoản cho vay này là
thời hạn vay ngắn phụ thuộc vào mặt hàng kinh doanh, qui mô khoản vay tuỳ


8

thuộc vào phương án kinh doanh của khách hàng, rủi ro của khoản cho vay này
rất cao, và có khả năng xảy ra rủi ro đạo đức. Tuy nhiêu nếu ngân hàng quản lý
thường xuyên hoạt động kinh doanh của khách hàng thì rủi ro sẽ hạn chế.
*Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay KHCN trả một lần khi đáo hạn: Là các khoản vay ngắn hạn của
cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán
một lần khi khoản vay đáo hạn. Qui mô của món vay là tương đối nhỏ, các
khoản vay trả một lần thường ngắn hạn và được dùng để chi trả cho các chuyến
đi nghỉ, mua các dụng cụ gia đình hoặc sửa chữa ô tô, nhà ở… Rủi ro các món
vay này là không lớn.
Nếu quy mô khoản vay lớn sẽ có rủi ro cao, do đặc điểm của khoản vay này
là trả cuối kỳ, nguồn trả chủ yếu từ việc bán tài sản khác hoặc nguồn trả nợ khác
gặp khó khăn khi đó kế hoạch trả nợ thay đổi, điển hình khi thị trương bất động
sản biến động, hoặc nền kinh tế gặp khó khăn.
Cho vay trả góp: Là khoản cho vay ngắn hạn hoặc trung hạn được thanh
toán làm hai hoặc nhiều lần liên tiếp (thường theo tháng hoặc quý). Khoản cho
vay được trả làm nhiều lần theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng,
phương thức này được dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền
như mua ô tô, mua nhà,… hoặc để tài trợ cho các phương án sản xuất kinh
doanh, thuê cửa hàng, mua sắm các tài sản khác… Hình thức cho vay này được

chia nhỏ thành: cho vay trả gốc và lãi hàng tháng đều nhau (niên kim cố định),
trả gốc hàng tháng bằng nhau, lãi trả theo số dư gốc (niên kim không cố định),
hoặc trả lãi hàng kì, gốc trả cuối kì.
Cho vay theo thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng ngân hàng cũng như các loại thẻ
thanh toán khác đã nhanh chóng được chấp nhận sử dụng, thẻ tín dụng cung cấp
một dòng tín dụng thường xuyên và quay vòng mà khách hàng có thể sử dụng
bất cứ khi nào họ có nhu cầu. Những người sử dụng thẻ tín dụng có thể vay trả
dần hoặc trả một lần vì họ có thể tính tiền mua hàng vào tài khoản thẻ tín dụng


9

của mình. Trong tương lai thẻ tín dụng sẽ rất phát triển bởi công nghệ tiên tiến sẽ
giúp cho những người sở hữu thẻ tín dụng có thể tiếp cận đến một số lượng lớn
các dịch vụ tài chính, bao gồm cả tài khoản tiết kiệm và tài khoản thanh toán
cũng như hạn mức tín dụng.
Cho vay thấu chi tài khoản tiền gửi: Khi khách hàng có một tài khoản tiền
gửi ở ngân hàng, khách hàng có thể chi vượt một giới hạn nhất định so với số
tiền có trên tài khoản của mình trong một khoản thời gian xác định. Khi khách
hàng có tiền gửi vào tài khoản, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi của khách
hàng. Vì hoạt động kinh doanh, hay nhu cầu mua sắm của khách hàng không
phải bao giờ cũng được dự đoán trước nên hình thức thấu chi tạo ra sự thuận
lợi và linh hoạt hơn cho khách hàng trong quá trình thanh toán. Tuy nhiên
không phải khách hàng nào cũng được sử dụng dịch vụ này của ngân hàng, đó
phải là những khách hàng độ tin cậy cao, thu nhập ổn định, kì thu nhập ngắn
để ngân hàng đảm bảo khoản thấu chi được thu hồi
*Căn cứ vào hình thức cho vay
Cho vay gián tiếp
Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh
của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho

KHCN của họ, theo hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh
nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng.
Ưu điểm:
NHTM dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay, tiết kiệm và giảm được
các chi phí khi cho vay, mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng.
Hạn chế:
Các ngân hàng thương mại khi cho vay không tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ, nhất là


10

trong việc lựa chọn khách hàng, tiêu chí lựa chọn của doanh nghiệp và ngân
hàng không giống nhau. Thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng cả trước, trong và
sau khi vay vốn, khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá và dịch vụ. Kỹ
thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này rất phức tạp.
Cho vay trực tiếp
Là hình thức cho vay mà ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để
tiến hành cho vay hoặc thu nợ.
Ưu điểm:
Việc cho vay tiến hành trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng do vậy
ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm, và kĩ năng
của cán bộ tín dụng, do đó các khoản vay này thường có chất lượng cao hơn so
với cho vay gián tiếp thông qua các doanh nghiệp bán lẻ.
Cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản
vay, song doanh nghiệp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ thường coi trọng nhiều đến
việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng các khoản vay, hơn nữa các
doanh nghiệp thường đưa ra quyết định cho vay một cách nhanh chóng, nên

dẫn đến tình trạng có những khoản cho vay cấp ra không chính đáng, ngược
lại có thể từ chối khách hàng tốt của mình, như vậy hình thức này đã khắc
phục nhược điểm này nếu cho vay gián tiếp.
Hình thức cho vay trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì khi
quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh, hơn
nữa có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng.
Cho vay trực tiếp với đối tượng khách hàng là rất rộng do đó việc đưa ra
các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường và
quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng.
Hạn chế:
Việc mở rộng và tăng doanh số cho vay không thuận lợi bằng hình thức cho
vay KHCN gián tiếp. Do cán bộ ngân hàng phải làm việc trực tiếp với khách


11

hàng nên ngân hàng tốn nhiều thời gian và chi phí so với hình thức cho vay gián
tiếp, nhất là khi lượng khách hàng đến đông cùng một thời gian sẽ gây khó khăn
cho ngân hàng.
*Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay:
Cho vay có tài sản bảo đảm: tài sản đảm bảo là bất động sản, động sản…
hình thành từ vốn vay hoặc tài sản thuộc sở hữu của khách hàng trước khi vay
vốn của ngân hàng. Tài sản bảo đảm làm tăng tính an toàn cho khoản vay do
ngân hàng có thể tạo áp lực để buộc khách hàng phải trả nợ hoặc trong tình
huống xấu nhất khách hàng không trả được nợ thì việc phát mại tài sản bảo
đảm cũng giúp giảm bớt tổn thất cho Ngân hàng. Cho vay có tài sản đảm bảo
lại được chia thành hai loại:
Loại 1 bao gồm các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của chính khách
hàng. Có thể chia các hình thức đảm bảo của loại này thành hai loại nhỏ sau:
Cho vay cầm cố là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền với điều

kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân
hàng trong thời gian đã cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản cầm cố được
ngân hàng quy định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật và chính sách tín
dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố thường là các tài sản mà ngân hàng
có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng
nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của khách hàng chẳng hạn
như: các giấy tờ có giá, ngoại tệ mạnh, kim loại quý,…
Cho vay thế chấp là hình thức mà người vay phải chuyển toàn bộ các giấy
tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm
giữ trong thời gian cam kết. Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang
thế chấp thường là bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất,…hoặc là
những động sản mà người vay vẫn cần sử dụng như ô tô, xe máy,…Việc thế
chấp bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng tài sản trong
thời gian vay.


12

Loại 2 Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ tiền vay. Khi khách
hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đó không
đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu cầu khách
hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng làm
vật đảm bảo. Để đảm bảo khách hàng không bán tài sản hoặc sử dụng không cẩn
thận làm giảm giá trị của tài sản, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải
cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng, đồng
thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu cho ngân hàng.
Cho vay không có tài sản bảo đảm:Là cho vay dựa trên uy tín (tín chấp)
hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, không có tài sản bảo đảm. Ngân hàng lựa chọn các
khách hàng có uy tín và khả năng trả nợ tốt để cho vay. Ngân hàng cho khách
hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên cơ sở tín chấp lương,

chủ yếu được áp dụng đối với khách hàng có thu nhập ổn định, thu nhập ngoài
việc trang trải các chi tiêu thường xuyên còn có một phần tích luỹ để trả nợ
vay (công chức, viên chức trong biên chế nhà nước, nhân viên có hợp đồng
lao động dài hạn,…), ngoài ra thu nhập hình thành từ sản xuất kinh doanh
cũng có thể được xem xét dùng làm nguồn trả nợ. Hình thức này phù hợp với
những khoản vay giá trị không lớn, thời hạn vay ngắn
*Phân loại theo thời hạn khoản vay
Ngắn hạn: cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng
trở xuống, chủ yếu nhằm mục đích tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử
dụng vốn ngắn hạn của cá nhân, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay
trực tiếp hoặc cho vay gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc
không có đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Trung và dài hạn: cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm thì được xếp vào
danh mục khoản vay trung hạn và từ 5 năm trở nên là các khoản cho vay dài hạn.
Các khoản vay này thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng dư nợ cho vay của
các NHTM, chiếm phần lớn lợi nhuận mà hoạt động cho vay đem lại.


13

1.2 Mở rộng cho vay khách hàng cá nhân của NHTM
1.2.1 Quan niệm về mở rộng cho vay KHCN
Để tồn tại và phát triển các NHTM phải không ngừng mở rộng quy mô
loại hình sản phẩm, phạm vi ảnh hưởng và nâng cao chất lượng dịch vụ cung
cấp cho khách hàng, đặc biệt là KHCN. Mở rộng cho vay là sự gia tăng về quy
mô và nâng cao về chất lượng và hiệu quả của hoạt động cho vay của NHTM.
Hiện nay mở rộng cho vay KHCN là một xu thế tất yếu trong quá trình phát
triển kinh doanh của NHTM.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay KHCN
Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá việc mở rộng cho vay KHCN như: số lượng

các khoản cho vay KHCN, dư nợ cho vay KHCN, chất lượng cho vay KHCN,
lợi nhuận từ cho vay KHCN, số lượng các sản phẩm cho vay KHCN.
* Các chỉ tiêu phán ánh quy mô cho vay:
- Số lượng KHCN và số lượng các khoản cho vay KHCN
Số lượng KHCN tăng lên thể hiện ngân hàng đã quan tâm, trú trọng tới đối
tượng này và Số lượng các khoản cho vay tăng cho thấy ngân hàng đang gia tăng
thị phần KHCN trên địa bàn hoạt động của mình và cũng phán ánh các sản phẩm
đưa ra có tính thực tế cao, thu hút được sự quan tâm của thị trường.
- Dư nợ cho vay KHCN
Đây là chỉ tiêu hiện thực nhất để đánh giá kết quả mở rộng cho vay KHCN.
Dư nợ cho vay KHCN tăng chứng tỏ cho vay KHCN của ngân hàng đã đạt kết
quả tốt. Tuy vậy, kết quả mở rộng cho vay KHCN chỉ thực sự đạt hiệu quả nếu
dư nợ cho vay KHCN tăng cả về số lượng tuyệt đối, lẫn số lượng tương đối (tỷ
trọng dư nợ cho vay KHCN so với tổng dư nợ).
Dư nợ cho
vay năm nay

=

Dư nợ cho vay

+

Doanh số cho

-

Doanh số thu nợ

năm trước

vay năm nay
cho vay năm nay
Tổng dư nợ cho vay tại thời điểm này
Tốc độ tăng trưởng
=
x 100%
Tổng dư nợ cho vay tại thời điểm trước
- Tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN


14

Tỷ trọng cho vay

Tổng dư nợ cho vay KHCN
x 100%
Tổng dư nợ cho vay
KHCN
Chỉ tiêu này cho thấy sự tăng trưởng của cho vay KHCN so với sự tăng
=

trưởng cho vay chung của cả ngân hàng. Tỷ trọng càng lớn thì quy mô càng
được mở rộng và cho vay KHCN càng chiếm vị trí cao trong hoạt động của
ngân hàng.
* Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay:
- Lợi nhuận từ cho vay KHCN
Đây cũng là một chỉ tiêu để đánh giá kết quả việc mở rộng cho vay KHCN.
Mở rộng cho vay KHCN của NHTM với mục tiêu lớn nhất là gia tăng lợi nhuận
cho ngân hàng trong xu thế cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Việc
tăng doanh số cho vay KHCN phải có kết quả là tăng lợi nhuận trên tổng doanh

số cho vay thì mở rộng cho vay mới được coi là đạt hiệu quả. Lợi nhuận cho vay
KHCN năm sau phải cao hơn năm trước.
Lợi nhuận cho vay
KHCN
Doanh thu cho vay

=

Doanh thu cho vay
KHCN
Dư nợ cho vay

-

Chi phí cho vay
KHCN
Lãi suất cho vay

=
X
KHCN
KHCN
KHCN
Chi phí cho vay KHCN là phần chi phí bao gồm: Lãi suất huy động vốn để

đáp ứng nhu cầu vay cho các kỳ hạn vay, chi phí quảng cáo, chi phí hoạt động…
Chi phí này được phân bổ trong từng thời kỳ.
Dư nợ cho vay là số tiền khách hàng nhận nợ tại ngân hàng.
Lãi suất cho vay ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu cho vay KHCN. Lãi suất
cho vay được áp dụng cho các khoản vay và thay đổi từng thời kỳ căn cứ vào

chính sách tín dụng của ngân hàng. Lãi suất cho vay KHCN còn phụ thuộc thời
hạn vay vốn, thời hạn vay càng cao thì lãi suất cho vay càng cao, do ngân hàng
phải bù đắp rủi ro và chi phí khi cho vay như: Ngân hàng huy động vốn ngắn hạn
để cho vay trung hạn; chi phí thẩm định khách hàng; Chi phí quản lý khoản vay
trong thời gian dài…. Do những đặc điểm về chi phí và rủi ro trên nên lãi suất


15

cho vay cá nhân thường được định giá cao hơn lãi suất cho vay doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên thực tế, người vay thường quan tâm đến số tiền phải thanh toán
hơn là lãi suất phải trả cho món vay đó. Khi cho vay ngân hàng cũng phải tính
toán mức lãi suất tối thiểu để áp dụng cho các khoản vay, mức lãi suất này đảm
bảo ngân hàng bù đắp chi phí cho vay và có lãi một chút.
Tỷ lệ lợi nhuận cho

Lợi nhuận cho vay KHCN
x 100%
Tổng lợi nhuận
vay KHCN
Chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận cho vay KHCN trong năm so với Tổng lợi
=

nhuận của ngân hàng và đồng thời phản ánh qua các năm, tỷ lệ đó là bao nhiêu
%, tỷ lệ đó tăng lên bao nhiêu phản ánh lợi nhuận cho vay KHCN tăng lên và
hiệu quả đạt được gắn liền hiệu quả việc mở rộng KHCN.
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu
Ngân hàng hoạt động với mục đích an toàn và hiệu quả do đó việc mở rộng
cho vay đối với ngân hàng cũng phải đảm bảo hiệu quả. Chỉ tiêu này không phản
ánh trực tiếp mở rộng cho vay KHCN nhưng rất quan trọng để đánh giá sự an

toàn và hiệu quả mở rộng cho vay KHCN.
Nợ xấu KHCN
Dư nợ KHCN
Tỷ lệ nợ xấu theo sản
Nợ xấu theo sản phẩm
=
Dư nợ KHCN
phẩm KHCN
(Đối với tỷ lệ này tính toán theo thời điểm cụ thể)
Tỷ lệ nợ xấu KHCN

=

x 100%
x 100%

Nếu tỷ lệ này ở mức quá cao chứng tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng là
thấp kém. Có thể ngân hàng đã vi phạm một số nguyên tắc cơ bản khi cấp tín
dụng là cho vay không phân tích kỹ khả năng trả nợ của khách hàng, tài sản thế
chấp không đúng quy định, thiếu kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ…và nhất là vi
phạm các nguyên tắc về phân tán rủi ro tín dụng, tập trung vốn quá quy định vào
một nhóm khách hàng hoặc một ngành kinh tế.
Nếu tỷ lệ này ở mức quá thấp so với định mức của ngân hàng, thể hiện quan
điểm của ngân hàng khi cho vay là nếu không đủ tin tưởng thì không cho vay,
cho vay đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc tín dụng, nguyên tắc phân tán


16

rủi ro, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của khách hàng.

Nếu tỷ lệ này ở mức vừa phải, thể hiện chiến lược kinh doanh táo bạo của
ngân hàng là chấp nhận rủi ro trong một chừng mực nhất định để có thể đạt được
lợi nhuận cao. Ngân hàng thực hiện chiến lược này đã thể hiện khả năng quản lý
cao trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng của mình. Như vậy để hoạt động cho vay
đem lại lợi nhuận cao đồng thời hạn chế được rủi ro cho ngân hàng thì các ngân
hàng thương mại cần khống chế tỷ lệ này ở mức nào đó có thể chấp nhận được.
- Phát triển các sản phẩm cho vay KHCN
Để mở rộng cho vay KHCN, ngân hàng cần thiết phát huy thế mạnh những
sản phẩm đã có và tìm kiếm những sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu và thị
hiếu của khách hàng.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay KHCN của NHTM
Mở rộng cho vay KHCN thì việc đa dạng hoá sản phẩm, tăng qui mô cho
vay là một hoạt động rất cần thiết và ngân hàng cần phải đầu tư tiền bạc, công
sức nhằm đa dạng hoá các sản phẩm cho vay KHCN.
Hoạt động cho vay KHCN của NHTM chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
bao gồm các nhân tố khách quan như môi trường hoạt động của ngân hàng, các
yếu tố thuộc về khách hàng và các nhân tố chủ quan thuộc về chính ngân hàng.
* Nhóm nhân tố chủ quan thuộc về phía Ngân hàng
Đây là các nhân tố thuộc về chính ngân hàng, gây tác động trực tiếp tới
việc mở rộng cho vay KHCN của ngân hàng. Việc mở rộng cho vay KHCN
phụ thuộc rất lớn vào chính sách cho vay, năng lực tài chính của ngân hàng,
chất lượng cho vay KHCN, số lượng, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân
hàng, hoạt động marketing của ngân hàng và mạng lưới của ngân hàng.
Thứ nhất: Chính sách cho vay của ngân hàng
Chính sách cho vay của ngân hàng là hệ thống các chủ trương, quy định
trong hoạt động cho vay đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ


17


cho các doanh nghiệp, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Chính sách cho
vay là cẩm nang hướng dẫn chung cho các cán bộ tín dụng và các nhân viên
ngân hàng tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích cho vay, tạo sự thống
nhất chung trong hoạt động cho vay nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả
năng sinh lời.
Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến tài trợ một khoản vay nói chung đều
được xem xét và đưa ra trong chính sách cho vay của ngân hàng như: Đối
tượng khách hàng, mục đích cho vay, chính sách quy mô và giới hạn cho vay,
thủ tục cho vay, lãi suất và phí suất cho vay, thời hạn cho vay và kì hạn nợ,
các khoản đảm bảo.
Những yếu tố trong chính sách cho vay đều tác động một cách mạnh mẽ
tới việc mở rộng cho vay nói chung và hoạt động cho vay KHCN nói riêng.
Một ngân hàng chỉ có thể mở rộng hoạt động cho vay KHCN khi nó có mục
tiêu mở rộng rõ ràng được thể hiện như một định hướng trong chính sách cho
vay. Và khi ngân hàng đó xác định mở rộng cho vay KHCN thì ngân hàng
mới dồn nỗ lực và khả năng để tập trung phát triển lĩnh vực này. Mặt khác,
khi một ngân hàng đã có sẵn các hình thức cho vay KHCN đa dạng thì việc
mở rộng cũng dễ dàng và thuận lợi hơn là các ngân hàng mới chỉ có các sản
phẩm đơn giản.
Thứ hai: Năng lực tài chính của ngân hàng và khả năng quản lí của ngân hàng
Một ngân hàng có quy mô vốn chủ sở hữu lớn, khả năng huy động vốn
trong ngắn hạn lớn, danh mục tài sản thanh khoản nhiều, nợ quá hạn ít thì ngân
hàng đó có thể gọi là có sức mạnh về tài chính và ngân hàng đó có thể đầu tư vào
các danh mục mà ngân hàng hướng tới và hoạt động cho vay được mở rộng
trong đó cho vay KHCN sẽ được phát triển, ngược lại ngân hàng mà năng lực tài
chính thấp thì sẽ không có đủ số vốn để tài trợ cho các danh mục mà ngân hàng
quan tâm, do đó hoạt động cho vay sẽ bị hạn chế, cho vay KHCN sẽ không được
mở rộng. Vì vậy, đây là một nhân tố giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng xem xét



18

khi đưa ra quyết định mở rộng hay hạn chế việc cho vay trong đó có hoạt động
cho vay KHCN.
Thứ ba: Số lượng, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc và đưa ra quyết định cho vay đối
với khách hàng, vì vậy có thể coi họ chính là hình ảnh của ngân hàng. Đội ngũ
cán bộ tín dụng với phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn tốt chính là yếu
tố có tác động tích cực đối với hoạt động cho vay KHCN, thúc đẩy hoạt động
cho vay trở nên nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chất lượng cho vay cao,
hạn chế được rủi ro tạo ấn tượng cho khách hàng, nhờ đó thu hút khách hàng,
mở rộng được cho vay KHCN. Đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên nghiệp cũng
góp phần tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nói chung
và hoạt động cho vay KHCN nói riêng.
Thứ tư: Hoạt động Marketing của ngân hàng
Hoạt động marketing là hoạt động giới thiệu, quảng bá về hình ảnh cũng
như các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Đây cũng là một hoạt động quan trọng
góp phần mở rộng cho vay KHCN. Từ hoạt động marketing, khách hàng sẽ
hiểu về ngân hàng cũng như các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp nhiều hơn. Từ
đó KHCN sẽ tìm đến ngân hàng vay vốn nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho
ngân hàng mở rộng cho vay KHCN. Thị trường cho vay KHCN còn rất tiềm
năng ở Việt nam, vì vậy, công tác marketing tốt và phù hợp sẽ quyết định đến
việc ngân hàng đó có một miếng bánh thị phần lớn ở thị trường màu mỡ này.
Hoạt động marketing một mặt phải luôn luôn thích ứng với sự thay đổi của thị
trường và môi trường nhưng đảm bảo có lợi cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nhằm mục tiêu cuối cùng là an toàn, lợi nhuận và sức mạnh trong
cạnh tranh.
Thứ năm: Mạng lưới của ngân hàng
Số lượng các chi nhánh, phòng giao dịch nói lên quy mô của một ngân
hàng, để thuận lợi cho việc giao dịch giữa khách hàng với ngân hàng, các ngân



19

hàng thường mở rộng các chi nhánh và các phòng giao dịch, nhằm thu hút sự
quan tâm của khách hàng đối với ngân hàng, việc mở rộng cho vay đối với
KHCN càng trở nên thuận lợi. Ngân hàng dễ dàng đáp ứng được nhu cầu vay
vốn của khách hàng, đồng thời ngân hàng nắm bắt được thông tin từng khách
hàng trên cơ sở đó tiến hành thẩm định, giải ngân và thu hồi nợ. Do đó, việc
mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch là nhân tố ảnh hưởng đến
việc mở rộng cho vay KHCN của NHTM.
* Nhóm nhân tố khách quan
Thứ nhất: Nhân tố thuộc về khách hàng
Khách hàng là người lựa chọn và ra các quyết định vay vốn từ ngân hàng
nên các yếu tố thuộc về bản thân khách hàng có tác động rất lớn đến khả năng
mở rộng cho vay KHCN của ngân hàng.
Nhu cầu vốn của khách hàng: là yếu tố quyết định các hình thức cho vay
KHCN, là căn cứ để xây dựng và phát triển sản phẩm cho vay KHCN của ngân
hàng. Tuỳ từng giai đoạn, thời điểm mà xuất hiện các nhu cầu cần tài trợ, ngân
hàng phải phát hiện những nhu cầu đó nhanh nhất để đáp ứng kịp thời. Những
khách hàng có nghề nghiệp khác nhau, tình trạng gia đình và hôn nhân, độ tuổi
khác nhau sẽ có những nhu cầu được tài trợ khác nhau. Ví dụ, những khách hàng
trẻ tuổi (20- 30 tuổi) năng động, trẻ trung ưa thích các sản phẩm thẻ tín dụng
nhằm phục vụ nhu cầu mua sắm, đi chơi,…Như vậy, xác định được nhu cầu vốn
của khách hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng cho
vay KHCN.
Khả năng đáp ứng các điều kiện khi vay của khách hàng: Đó là các yếu tố
về tài chính, thu nhập, đạo đức, tài sản đảm bảo, tình hình kinh doanh của khách
hàng để thoả mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng đảm bảo an toàn cho
khoản cho vay, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Khách hàng có trình độ văn

hoá, sự hiểu biết về cho vay thì họ sẽ có trách nhiệm với các khoản nợ và có ý
thức trả nợ đối với ngân hàng. Nếu khách hàng là người có đạo đức tốt, có ý thức


20

với khoản nợ đối với ngân hàng, trả nợ đúng hạn và đầy đủ thì rủi ro của món
vay là thấp, khách hàng sẽ tạo được niềm tin với ngân hàng, do vậy ngân hàng sẽ
có điều kiện để mở rộng cho vay KHCN.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác như: quy mô gia đình, đặc điểm, tính
cách của khách hàng, khả năng đáp ứng các điều kiện vay của khách hàng
như tài sản bảo đảm, các giấy tờ về quyền sở hữu cũng ảnh hưởng đến nhu cầu
vay vốn của khách hàng.
Thứ hai: Nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của ngân hàng
Môi trường hoạt động của ngân hàng cũng gây ra các tác động lớn đến mở
rộng cho vay đối với khách hàng nói chung và đối với KHCN nói riêng. Bao
gồm: môi trường kinh tế, môi trường luật pháp, môi trường văn hoá – xã hội, sự
phát triển của khoa học – công nghệ và đối thủ cạnh tranh.
Môi trường kinh tế: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan
trọng nhất đối với nền kinh tế. Vì vậy, bất kỳ sự biến động của nền kinh tế đều
ảnh hưởng đến các hoạt động cho vay của ngân hàng trong đó có cho vay
KHCN. Khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao, hoạt động cho vay KHCN
có xu hướng tăng lên bởi vì thu nhập và mức sống của người dân được cải thiện,
hơn nữa sẽ có nhiều cá nhân vay vốn ngân hàng nhằm phục vụ mục đích sản xuất
kinh doanh, tiêu dùng của họ. Từ đó, sẽ tạo điều kiện mở rộng cho vay KHCN
một cách có hiệu quả. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất
ổn định, khiến thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng trở nên bấp bênh,
người dân sẽ lựa chọn tiết kiệm hơn là vay tiêu dùng hay vay vốn để sản xuất kinh
doanh, từ đó sẽ hạn chế việc mở rộng cho vay KHCN của ngân hàng.
Môi trường luật pháp: Hoạt động ngân hàng chịu sự kiểm soát chặt chẽ

của luật pháp cũng như các cơ quan chức năng. Điều này không chỉ làm đảm
bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng, mà còn tạo sự tin tưởng chi khách hàng
đến thực hiện giao dịch. Nếu các quy định đó đầy đủ, chặt chẽ, hợp lý, không
rườm rà và chồng chéo sẽ tạo điều kiện cho hoạt động của ngân hàng nói


21

chung và hoạt động mở rộng cho vay KHCN nói riêng. Hệ thống các văn bản,
các quyết định, quy định,… ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của
ngân hàng nói chung, cho vay KHCN nói riêng. Hệ thống luật pháp ổn định,
hoàn thiện sẽ thúc đẩy cho vay KHCN đồng thời là cơ sở nâng cao năng lực
cung cấp dịch vụ tài chính chất lượng cao cho dân cư, đảm bảo mối quan hệ
hợp tác giữa ngân hàng với khách hàng.
Môi trường văn hoá – xã hội: Những yếu tố của môi trường văn hoá xã hội
như: lối sống, thói quen, tập quán xã hội, thị hiếu… ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa
ra các hình thức cho vay đối với KHCN của ngân hàng. Ở những nơi mà có thói
quen chi tiêu nhiều hơn tiết kiệm thì họ thường có xu hướng vay tiêu dùng và vay
phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh nhiều hơn các nơi khác.
Sự phát triển của Khoa học – Công nghệ: Ngày nay, với sự phát triển
không ngừng của khoa học, công nghệ đã tạo điều kiện cho nhiều nghành,
lĩnh vực khác phát triển với quy mô toàn cầu, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Với sự phát triển của khoa học, công nghệ việc xử lý giao dịch của các ngân
hàng trở lên nhanh chóng, dễ dàng hơn, đồng thời các nghiệp vụ cũng được
xử lý theo một quy trình chặt chẽ do máy móc thực hiện thay cho lao động thủ
công. Từ đó, giảm bớt thời gian giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng,
tăng sự chính xác trong phân tích, thẩm định tín dụng, do đó hạn chế rủi ro
cho ngân hàng. Nhờ đó, các ngân hàng có thể mở rộng cho vay và đưa ra các
sản phẩm mới đối với cho vay KHCN.
Đối thủ cạnh tranh: Sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh trên thị trường

tài chính dẫn đến thị phần cho vay KHCN bị chia nhỏ và khiến cho ngân hàng
cần phải tìm ra các chiến lược, các chính sách đặc trưng của ngân hàng nhằm
thu hút được khách hàng đến với ngân hàng, không chỉ giữ chân khách hàng
cũ mà còn thu hút thêm khách hàng mới. Như vậy, với sự xuất hiện của các
đối thủ cạnh tranh sẽ khiến thị phần cho vay KHCN của ngân hàng bị giảm
sút, điều này sẽ gây ra sự khó khăn cho ngân hàng trong việc mở rộng qui mô


×