Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn lớp 12 ở trường THPT Châu Sa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.59 KB, 29 trang )

HUYỆN ĐOÀN LÂM THAO
BCH ĐOÀN TRƯỜNG THPT LONG CHÂU SA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN LỚP 12
Ở TRƯỜNG THPT LONG CHÂU SA

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hải Yến
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Đoàn viên chi đoàn giáo viên trường THPT Long Châu Sa

Năm 2016


HUYỆN ĐOÀN LÂM THAO
BCH ĐOÀN TRƯỜNG THPT LONG CHÂU SA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN LỚP 12
Ở TRƯỜNG THPT LONG CHÂU SA

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hải Yến

Năm 2016


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NXB
SGK
THCS
THPT




MỤC LỤC
Nội dung

Trang

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1

1. Thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 ở

3

trường THPT Long Châu Sa.
1.1.

Thuận lợi.

3

1.2.

Khó khăn.

3

2. Các biện pháp đã tiến hành để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh


4

giỏi môn Ngữ văn lớp 12 ở trường THPT Long Châu Sa.
2.1. Công tác chỉ đạo:

4

2.2. Bồi dưỡng nhận thức tư tưởng, thái độ về việc dạy và học môn Ngữ

5

văn đối với thầy và trò.
2. 3. Phát hiện, lựa chọn học sinh có năng khiếu, đam mê, yêu thích môn

6

Ngữ văn.
2.4. Xây dựng chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi.

7

2.5. Tiến hành bồi dưỡng học sinh giỏi.

8

2.6. Tổ chức các hoạt động tương tác:

20


2.7. Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác bồi dưỡng học sinh

21

giỏi.
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

21
24

1. Kết luận.

24

2. Kiến nghị.

24

2.1. Đối với nhà trường.

24

2.2. Đối với giáo viên.

24

Tài liệu tham khảo



I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự chuyển mình đi lên của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm đến sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác
định: “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước
và toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển….Phát triển giáo dục là
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…” (Trích Nghị quyết số
29-NQ/TW).
Xuất phát từ nhu cầu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, bên cạnh việc
nâng cao chất lượng đại trà thì các nhà trường đặc biệt chú trọng tới công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi. Đây là một trong những thước đo đánh giá trình độ chuyên
môn của mỗi người thầy đồng thời là khâu quan trọng đánh giá khả năng vận dụng
kiến thức, năng lực sáng tạo của học sinh. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói
chung và việc bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn nói riêng là cả một quá trình rất khó
khăn và nhiều thử thách để tìm tòi nội dung và phương pháp hiệu quả.
Kiến thức văn chương thì mênh mông, rộng lớn vô cùng, nhất là kiến thức
gắn với yêu cầu đề thi của học sinh giỏi. Vấn đề đặt ra với bất cứ ai khi tham gia
bồi dưỡng học sinh giỏi là làm thế nào để cho học sinh yêu thích văn chương, có
hứng thú, đam mê học văn từ đó có ý thức nỗ lực học tập, rèn luyện để hoàn thiện
bản thân. Làm sao để các em phát huy hết năng lực của mình để đạt được kết quả
tốt nhất trong các kì thi chọn học sinh giỏi, thi tốt nghiệp và tuyển sinh vào các
trường đại học.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao,
khó khăn nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc
biệt khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ, khả năng tư duy và
nhất là khả năng viết. Vì vậy, tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên
phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn rất nhiều tiết dạy bình thường trên lớp,
thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu
quả và thuyết phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đây



chính là cơ hội vàng để giáo viên có động lực bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao
trình độ và kĩ năng sư phạm.
Khi giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi, mỗi giáo viên có một phương pháp,
cách thức riêng của mình. Bản thân tôi cũng đã luôn lắng nghe, suy ngẫm và trao
đổi với đồng nghiệp về công tác này. Qua một số năm phụ trách đội tuyển học sinh
giỏi môn Ngữ văn của trường, tôi đã tìm tòi nghiên cứu và mạnh dạn áp dụng sáng
kiến: “Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 ở trường THPT Long Châu
Sa” với mục đích tìm ra những phương pháp, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn.


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 ở
trường THPT Long Châu Sa.
1.1. Thuận lợi:
- Hàng năm, Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Thọ có tổ chức kỳ thi học sinh giỏi
các môn văn hóa nhằm phát hiện tài năng và bồi dưỡng năng lực văn chương cho
học sinh. Đồng thời ghi nhận sự nỗ lực cố gắng của học sinh, giáo viên, và nhà
trường trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Chi bộ Đảng, Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn đã có kế hoạch chỉ
đạo bồi dưỡng, chọn học sinh giỏi ngay từ lớp 10, 11 để tạo nền móng, tạo đà cho
đội tuyển lớp 12, góp phần nâng cao kết quả thi đại học. Trong các dịp sơ kết, tổng
kết, nhà trường đã tôn vinh, trao thưởng và trao học bổng cho những học sinh đạt
giải. Qua đó nêu gương tốt để giáo dục học sinh kế thừa và phát huy truyền thống
nhà trường.
- Đội ngũ giáo viên nhà trường lớp sau noi theo lớp trước không ngừng tiến
bộ về mọi mặt. Nhiệt tình, tận tâm với học trò, tâm huyết với nghề nghiệp.
- Các cấp chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh đồng thuận với nhà

trường, quan tâm, tạo điều kiện để học sinh có điều kiện học tập tốt nhất.
- Trong xu hướng hiện nay, nhiều trường tỉ lệ học sinh ôn thi đại học khối
C,D ngày càng ít đi thậm chí còn bị coi là mất mùa thì trường THPT Long Châu Sa
số học sinh yêu thích và say mê học khối C,D (đặc biệt là môn Ngữ văn) ngày càng
tăng lên. Mỗi năm có đến 16/30 lớp đăng kí nguyện vọng học khối C,D. Do vậy,
cũng thu hút được nhiều học sinh giỏi tham gia đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ
văn. Đó là động lực, là nguồn cổ vũ rất lớn để chúng tôi tiếp tục phấn đấu vươn lên
cống hiến cho sự nghiệp trồng người cao cả.
1.2. Khó khăn:
- Theo xu thế hiện nay, nhiều phụ huynh và học sinh chỉ chú trọng học các
môn tự nhiên để thi vào các trường kinh tế, ngân hàng, thương mại…nên nhiều em


dù có năng khiếu văn chương, được giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi ở THCS
khi lên THPT lại chuyển sang học khối A. Một số em học giỏi khối C, D lại theo
đội tuyển Địa, Tiếng Anh vì các em cho rằng thi các môn đó dễ đạt giải và giải
thưởng cao hơn môn Ngữ văn.
- Học sinh lớp 12 phải chịu áp lực lớn của việc thi đại học quyết định tương
lai sau này nên các em lo học đều các môn thi đại học hơn là tập trung cao độ vào
một môn. Chính vì thế một số phụ huynh và học sinh có thái độ không thiết tha,
mặn mà với việc tham gia đội tuyển học sinh giỏi.
Từ thực tế trên, Ban giám hiệu, tổ chuyên môn, giáo viên phụ trách và các
giáo viên tham gia bồi dưỡng đã thảo luận và đưa ra những giải pháp thiết thực để
ngày càng nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.
Một số bài học kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi mà tôi rút ra qua thực tế
của bản thân và học hỏi đồng nghiệp đó là:
2. Các biện pháp đã tiến hành để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 ở trường THPT Long Châu Sa.
2.1. Công tác chỉ đạo:
- Ban giám hiệu tổ chức biên chế lớp theo nguyện vọng từng khối thi tạo điều

kiện cho học sinh có môi trường học tập phù hợp, có điều kiện phát huy khả năng,
sở trường của bản thân.
- Ban giám hiệu tổ chức hoạt động dạy bồi dưỡng học sinh giỏi một cách
nghiêm túc, bài bản, có kế hoạch, thời khóa biểu khoa học, đảm bảo yêu cầu đề ra.
- Ban giám hiệu phân công giáo viên có đủ năng lực trực tiếp giảng dạy và
tương đối ổn định trong suốt ba năm. Hạn chế việc thay đổi giáo viên. Cách phân
công này tích cực ở chỗ: Học sinh quen với phương pháp của thầy, thầy cô hiểu rõ
trò mạnh yếu như thế nào, tâm tính ra sao. Đồng thời thầy cô phải chịu trách nhiêm
về kết quả bồi dưỡng của mình mà không thể đổ lỗi cho ai được.
- Để phát huy trí tuệ tập thể và hỗ trợ nhau trong công việc, ban chuyên môn
phân công một giáo viên phụ trách chính còn có một nhóm giáo viên có kinh


nghiệm cùng tham gia bồi dưỡng và mỗi người chịu trách nhiệm một mảng kiến
thức mà mình có thế mạnh. Cách tổ chức này đã gắn được trách nhiệm của giáo
viên đối với công việc chung của trường.
- Bên cạnh đó, hoạt động của tổ chuyên môn cũng rất thiết thực trong công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Ngoài việc thống nhất nội dung, chương trình dạy học
còn có thể học tập phương pháp tốt để nhân lên trong cả tổ. Câu lạc bộ Văn học của
tổ Văn – Thể dục là một sân chơi bổ ích để giáo viên và học sinh được tham gia
viết bài, trao đổi chuyên môn, rèn kĩ năng tạo lập văn bản.
2.2. Bồi dưỡng nhận thức tư tưởng, thái độ về việc dạy và học môn Ngữ
văn đối với thầy và trò.
2.2.1. Đối với thầy:
- Trước hết, giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh giỏi cần xác định rõ đây là
nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường cần phải có sự đầu tư tối đa về tài năng và tâm
huyết. Người thầy phải nắm chắc kiến thức chương trình bộ môn như: khả năng bao
quát, tổng hợp, đào sâu, nâng cao, mở rộng, sọi rọi một đối tượng, một vấn đề ở
nhiều góc độ của văn học.
- Đồng thời, người thầy cũng phải nắm chắc và vận dụng linh hoạt các

phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để chủ động chỉ đạo, hướng dẫn học sinh
chiếm lĩnh tri thức, phát triển năng lực một cách toàn diện nhất.
- Để làm được điều đó, giáo viên dạy đội tuyển phải yêu nghề, ham học hỏi,
đam mê với công việc. Chính sự đam mê ấy giúp chúng ta khám phá ra những giá
trị đặc sắc của văn học và tìm ra phương pháp có tính khả thi để dẫn dắt học sinh
đến đích nhanh nhất.
- Trong quá trình giảng dạy, người thầy cần bồi đắp niềm yêu thích văn
chương cho các em thông qua các giờ học, các buổi ngoại khóa. Đồng thời tuyên
truyền, thuyết phục để phụ huynh và học sinh hiểu rõ ý nghĩa, vai trò quan trọng
của bộ môn Ngữ văn với việc phát triển tư duy, nhân cách của mỗi học sinh.
- Giáo viên cần xây dựng mối quan hệ thân thiện gần gũi, gắn bó giữa giáo


viên và học sinh, giữa các thành viên trong đội tuyển với nhau. Chúng ta cần lắng
nghe những tâm tư, nguyện vọng của các em, đồng thời qua các bài học chúng ta
cũng gieo vào tâm hồn các em những ước mơ, khát vọng để các em tự tin phấn đấu
đạt kết quả cao trong các kì thi.
2.2.2. Đối với trò:
- Môn Ngữ văn hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú
trọng dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Cần giúp các em hiểu rõ ý nghĩa, vai trò,
tầm quan trọng của môn Ngữ văn: giúp các em những kĩ năng sống, kĩ năng giao
tiếp, làm cho thế giới tâm hồn trở nên phong phú và nhạy cảm hơn.
- Bên cạnh đó cũng tạo cho các em niềm tự hào về bản thân khi các em tham
gia đội tuyển học sinh giỏi tức là các em đã làm rạng danh cho nhà trường, cho gia
đình, dòng tộc.
2. 3. Phát hiện, lựa chọn học sinh có năng khiếu, đam mê, yêu thích môn
Ngữ văn.
2.3.1. Biểu hiện của học sinh có năng khiếu môn Ngữ văn.
Học sinh giỏi văn là những học sinh có 5 yếu tố sau:
- Học sinh thật sự say mê văn học, yêu thích văn chương.

- Học sinh có năng khiếu văn chương, biết tiếp thu vấn đề một cách nhanh
nhạy, có trí nhớ tốt và khả năng giải quyết vấn đề một cách linh hoạt, sáng tạo.
- Học sinh có vốn tri thức phong phú, đa dạng về văn chương.
- Học sinh giàu cảm xúc, nhạy cảm, biết diễn đạt vấn đề một cách xúc động
và thấm thía.
- Học sinh có vốn từ vựng dồi dào và biết sử dụng chúng có hiệu quả trong
những hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời có một hệ thống các kĩ năng làm bài văn
nghị luận, từ kĩ năng đặt vấn đề, kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, kĩ năng lập
dàn ý, viết văn…
2.3.2. Phương pháp phát hiện, lựa chọn: Để lựa chọn được học sinh giỏi vào
đội tuyển Ngữ văn, tôi căn cứ vào ba yếu tố cơ bản:


- Thứ nhất: Căn cứ vào thành tích học tập ở lớp dưới như điểm phẩy, các giải
thưởng học sinh đã đạt được…
- Thứ hai: Lựa chọn học sinh giỏi thông qua các giờ học trên lớp. Các em có
năng khiếu, ham mê học hỏi thường chú ý nghe giảng, có ý thức, thái độ học tập
tốt, hăng hái phát biểu ý kiến, có hướng tiếp cận tác phẩm một cách chủ động, sáng
tạo, sâu sắc.
- Thứ ba: Lựa chọn học sinh giỏi qua các vòng thi như: Thi khảo sát, kiểm
tra định kì, kiểm tra đội tuyển vòng trường. Bài kiểm tra khảo sát cần bao quát được
cả ba lĩnh vực: lí luận văn học, nghị luận xã hội, nghị luận về tác phẩm văn học.
Bài làm của học sinh giỏi thường có cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt rất riêng
thể hiện được vốn tri thức phong phú, khả năng vận dụng sáng tạo những gì học
được và quan sát trong thực tế cuộc sống để vận dụng vào bài viết của mình. Nếu
một học sinh có tố chất văn học nhưng kiến thức nghèo nàn thì không thể tránh
khỏi lối viết hời hợt, đại khái. Bài văn của học sinh giỏi phải thể hiện được phương
pháp làm bài, các thao tác viết phải linh hoạt, mềm mại, tự nhiên, giản dị, ít mắc lỗi
về diễn đạt, dung từ, đặt câu, chính tả.
2.4. Xây dựng chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi.

2.4.1. Cơ sở xây dựng chương trình:
Giáo viên phụ trách bồi dưỡng đội tuyển căn cứ vào khung thời gian bồi
dưỡng học sinh giỏi của trường; thực tế nhận thức và năng lực của học sinh đội
tuyển; yêu cầu, nội dung của từng bài dạy; cấu trúc của đề thi học sinh giỏi cấp
tỉnh, cấp quốc gia để xây dựng chương trình bồi dưỡng và hệ thống các dạng bài
luyện tập cho phù hợp.
2.4.2. Phương pháp xây dựng chương trình:
Giáo viên phụ trách bồi dưỡng đội tuyển trao đổi với nhóm chuyên môn để
rà soát nội dung, chương trình bồi dưỡng hàng năm, những đúc rút kinh nghiệm, bổ
sung thay đổi để xây dựng chương trình bồi dưỡng cho phù hợp. Sau đó, thống nhất
trong tổ nhóm chuyên môn và đề nghị ban giám hiệu kí duyệt.


2.4.3. Nội dung chương trình:
- Nội dung chương trình cần đảm bảo tính hệ thống, bám sát vào chương
trình học đại trà, có mở rộng, nâng cao. Sắp xếp nội dung bồi dưỡng từ lý thuyết,
phương pháp đến rèn kĩ năng, luyện tập, luyện đề tổng hợp, có sự đan xen hợp lí ba
phân môn: đọc văn, làm văn, tiếng Việt.
- Hệ thống hóa kiến thức bồi dưỡng theo chuyên đề, chủ đề như:
+ Chuyên đề nghị luận xã hội.
+ Chuyên đề lí luận văn học.
+ Chuyên đề về văn học sử.
+ Chủ đề yêu nước.
+ Chủ nghĩa nhân đạo.
+ Tình yêu thiên nhiên.
+ Chủ đề người lính.
+ Hình tượng dòng sông Tổ quốc.
+ Hình tượng người phụ nữ...
2.5. Tiến hành bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.5.1. Soạn bài lên lớp:

* Chuẩn bị bài dạy:
- Để chuẩn bị bài dạy được tốt, trước hết thầy cô giáo phải là tấm gương về
đạo đức, tự học và sáng tạo để cho học sinh noi theo. Có như vậy các em mới thực
sự tin tưởng và kính trọng thầy cô, và làm theo những điều thầy cô nói.
- Giáo viên phải bám sát cấu trúc đề thi học sinh giỏi của Bộ Giáo dục, của
Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Thọ, đề thi, đáp án và biểu điểm của một số năm gần
đây để chuẩn bị kiến thức và kĩ năng phù hợp.
- Giáo viên phụ trách bồi dưỡng đội tuyển tập trung trí lực của nhóm giáo
viên có kinh nghiệm để liệt kê ra tất cả các dạng đề liên quan đến các tác phẩm
trong chương trình thi. Sau đó sắp xếp các dạng đề lại theo bài và theo chuyên đề
chuyên sâu để chuẩn bị bài dạy có trọng tâm, trọng điểm, đồng thời có thể hình


dung bao quát được toàn bộ chương trình cần phải dạy cho học sinh.
- Căn cứ vào năng lực bản thân, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, trên cơ sở
sách giáo khoa, tham khảo tài liệu từ sách, Internet …giáo viên đầu tư vào bài giảng
thật chu đáo, đảm bảo nội dung yêu cầu. Nội dung càng rõ ràng, mạch lạc, càng dễ
hiểu càng tốt.
* Cấu trúc bài soạn: 30% lí thuyết về phương pháp, 70% thực hành.
Cấu trúc của bài soạn cần đảm bảo cấu trúc chung của bộ môn nhưng cần chú
trọng các bước sau:
- Bước 1: Kiểm tra, nhận xét kết quả học tập ở nhà của học sinh.
- Bước 2: Cung cấp lý thuyết và phương pháp làm từng dạng bài cụ thể.
- Bước 3: Bài tập vận dụng phương pháp làm từng dạng bài ứng với từng chủ
đề, từng phân môn cụ thể. Đây là bước quan trọng nhất quyết định đến kết quả học
tập của học sinh.
- Bước 4: Củng cố và giao nhiệm vụ học tập ở nhà.
2.5.2. Khâu lên lớp
2.5.2.1. Đổi mới phương pháp giảng dạy:
- Trong giờ dạy, giáo viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng

dụng công nghệ thông tin, lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên phải biết vận dụng
linh hoạt, nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp nêu
vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp dạy học theo dự án…. Kết hợp
với các kĩ thuật dạy học tích cực như: kĩ trình bày một phút, kĩ thuật tia chớp,
khăn trải bàn, kĩ thuật 3x3x3, kĩ thuật XYZ, sử dụng sơ đồ tư duy, …để phát huy
khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức.
- Khi lên lớp, giáo viên phải tạo ra được tâm thế giờ học bằng sự nhiệt tình,
tận tâm, chủ động và thân thiện để học sinh thực sự yêu thích môn học, hăng hái
phát biểu xây dựng bài, kích thích khả năng sáng tạo bằng những câu hỏi có tính
chất khám phá, phát hiện. Thường xuyên liên hệ thực tế, vận dụng kiến thức tích
hợp liên môn để nội dung bài học trở nên gần gũi, thiết thực.


- Để đạt được kết quả cao thì trước hết giáo viên và học sinh phải bắt đầu từ
kiến thức cơ bản bởi “có thực mới vực được đạo, có bột mới gột nên hồ”. Kiến thức
này phải được truyền tải dưới hình thức ngắn gọn, rõ ràng, có hệ thống, có trọng
tâm, trọng điểm giúp các em dễ nhớ, dễ hiểu và dễ vận dụng.
- Trên cơ sở học sinh nắm vững kiến thức cơ bản, giáo viên tiếp tục bồi
dưỡng kiến thức nâng cao bằng cách mở rộng, đào sâu bằng nhiều dạng đề, nhiều
cách hỏi khác nhau trong cùng một bài để rèn năng lực tư duy cho học sinh.
2.5.2.2. Rèn các kĩ năng cơ bản cho học sinh.
* Kĩ năng nhận diện các dạng bài:
Dựa vào cấu trúc đề thi học sinh giỏi các cấp để nhận diện đề.
Dựa vào những từ ngữ yêu cầu của đề để nhận diện các dạng bài mang đặc
trưng riêng tương ứng với từng phân môn.
Cấu trúc đề thi chọn học sinh giỏi tỉnh năm học 2015 – 2016 gồm có hai câu.
Câu 1: Nghị luận xã hội (8,0 điểm); Câu 2: Nghị luận văn học (12,0 điểm).
- Về nghị luận xã hội: Có ba dạng thường gặp là:
+ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.
+ Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

+ Nghị luận về một vấn đề đặt ra trong các tác phẩm văn học.
- Về nghị luận văn học: Có hai dạng thường gặp là:
+ So sánh văn học (so sánh đoạn văn, đoạn thơ, so sánh nhân vật, chi tiết,
phong cách, …).
+ Nhận định văn học (nhận định lí luận văn học, nhận định nhận xét về tác
giả, tác phẩm, nhân vật, chi tiết…).
* Kĩ năng giải quyết các dạng bài:
- Phương pháp chung:
Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý.
Bước 2: Lập dàn ý theo bố cục ba phần: Mở bài; Thân bài; Kết bài.
Bước 3: Viết bài.


Bước 4: Đọc và sửa bài.
- Phương pháp cụ thể với từng dạng bài lại khác nhau.
Ví dụ:
+ Dạng bài ghị luận về một tư tưởng đạo lí:
I. Đặt vấn đề:
Dẫn dắt vấn đề (trực tiếp/gián tiếp)
Giới thiệu vấn đề nghị luận.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Giải thích (nghĩa gốc, nghĩa biểu tượng): từ, vế câu, câu -> rút ra nội
dung, ý nghĩa.
2. Phân tích, lấy dẫn chứng để chứng minh.
3. Bàn luận, đánh giá.
III. Kết thúc vấn đề:
Khái quát lại vấn đề
Liên hệ bản thân.
Đề minh họa: Suy nghĩ của anh/chị về sức mạnh của lời nói.
Hướng dẫn làm bài:

Ý

Nội dung

I.

Đặt vấn đề: Dẫn dắt, nêu vấn đề nghị luận.

II.

Giải quyết vấn đề:

1.

Giải thích:
- Lời nói (những phát ngôn) luôn tồn tại tất yếu trong cuộc sống của mỗi con
người. Qua lời nói ta thấy được tâm tư tình cảm, suy nghĩ, trình độ văn hóa
của người nói.
- Sức mạnh của lời nói : chủ yếu chỉ những tác động to lớn do lời nói mang
lại.

2.

Chứng minh:
a. Tác động tích cực: có thể hiệu triệu, cổ vũ, động viên, khích lệ ….


-> ảnh hưởng tốt đến các tổ chức, các cá nhân. (Phân tích dẫn chứng).
b. Tác động tiêu cực: Có thể gây hoang mang, mất niềm tin, mất đoàn
kết…-> ảnh hưởng xấu đến tập thể, người khác và chính bản thân mình.

(Phân tích dẫn chứng).
3.

Bình luận, đánh giá:
a. Mỗi người cần có ý thức trau dồi vốn ngôn ngữ để có khả năng diễn đạt
gãy gọn, có sức thuyết phục cao: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.
b. Cần thận trọng khi phát ngôn, suy nghĩ kĩ trước khi nói bởi “sẩy chân thì
dễ, sẩy miệng thì khó”, những lời đã nói ra không thu lại được. Nếu nói hồ
đồ, sai sự thật có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến mình và những người
xung quanh.
c. Cần nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng nội dung, đúng phương pháp: “Lời nói
chẳng mất tiền mua /Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đôi khi phải biết
im lặng để lắng nghe, học hỏi, chiêm nghiệm bởi “nói hay hơn là hay nói”.
d. Lời nói phải đi đôi với việc làm mới thực sự có sức mạnh thuyết phục
người nghe.
e. Phê phán hiện tượng dùng lời nói để kích bác, xuyên tạc, nói xấu sau
lưng, xúc phạm người khác gây tác động tiêu cực.
g. Người nghe phải có hiểu biết và bản lĩnh để phân biệt được đâu là lời nói
đúng, đâu là lời nói sai, đâu là lời vuốt ve nịnh bợ.

III. Kết thúc vấn đề: Khẳng định lại vấn đề, liên hệ bản thân.
+ Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống:
I. Đặt vấn đề:
Dẫn dắt vấn đề (trực tiếp/gián tiếp)
Giới thiệu vấn đề nghị luận.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Thực trạng (biểu hiện của hiện tượng trong đời sống).
2. Nguyên nhân (khách quan, chủ quan).



3. Hậu quả (hiện tượng xấu) hoặc tác dụng (hiện tượng tốt).
4. Giải pháp (vĩ mô và vi mô).
III. Kết thúc vấn đề:
Khái quát lại vấn đề.
Liên hệ bản thân.
Đề minh họa: Theo thống kê chính thức của Bộ Y tế trong 9 ngày nghỉ Tết
Nguyên đán cả nước có hơn 6.200 trường hợp nhập viện cấp cứu vì đánh nhau
trong đó có 15 trường hợp tử vong.
Trình bày suy nghĩ của em về hiện tượng trên.
Hướng dẫn làm bài:
Ý

Nội dung

I.

Đặt vấn đề: Dẫn dắt, nêu vấn đề nghị luận.

II.

Giải quyết vấn đề:

1.

Thực trạng:
- Đánh nhau là hiện tượng ngày càng phổ biến và gia tăng nhất là trong dịp
lễ tết. Hiện tượng đánh nhau xảy ra ở mọi nơi từ nông thôn đến thành thị, ở
mọi lứa tuổi nhưng nhiều nhất là thanh, thiếu niên.
- Dẫn chứng minh họa.


2.

Nguyên nhân:
- Khách quan: Sự giáo dục, quản lí của gia đình còn lỏng lẻo. Trong nhà
trường chưa chú trọng giáo dục kĩ năng sống mà chủ yếu truyền thụ kiến
thức. Sự phát tác động của các loại hình giải trí mang tính bạo lực: phim
ảnh, game onlie.... Hệ thống pháp luật chưa nghiêm minh, chặt chẽ....(lấy
dẫn chứng cụ thể).
- Chủ quan: Do ý thức chấp hành pháp luật của nhiều người còn hạn chế.
Do khả năng kiềm chế và ứng xử trước các tình huống mâu thuẫn chưa khéo
léo. Do tính sĩ diện của con người. Do sử dụng quá nhiều rượu bia và các
chất kích thích dẫn đến dễ bị kích động, mất kiểm soát hành vi...


-> tất cả đều có thể trở thành lí do dẫn đến đánh nhau (lấy dẫn chứng cụ thể)
3.

Hậu quả:
- Bản thân: bị tổn hại cả về thể xác lẫn tinh thần, nhẹ thì thương tích ảnh
hưởng sức khỏe, nặng có thể dẫn đến tàn tật thậm chí mất mạng. Để lại ấn
tượng xấu đối với mọi người, vết đen trong nhân cách...
- Gia đình: người thân lo lắng, tốn kém về kinh tế, sức khỏe, nhiều nhà rơi
vào bi kịch.
- Xã hội: mất an ninh trật tự, gánh nặng phải giải quyết, ảnh hưởng truyền
thống tốt đep của dân tộc, tạo ra hình ảnh xấu trong mắt bạn bè quốc
tế...(dẫn chứng)

4.

Giải pháp:

- Tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật.
- Cần

phê phán, lên án và ngăn chặn các hành vi bạo lực.

- Rèn luyện lối sống lành mạnh, thân thiện.
- Cần xử lí nghiêm khắc đối với những trường hợp đánh nhau.
III. Kết thúc vấn đề: Khái quát lại vấn đề. Liên hệ bản thân.
+ Dạng bài so sánh chi tiết trong các tác phẩm văn học.
I. Đặt vấn đề:
- Dẫn dắt.
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chi tiết.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Giải thích "chi tiết".
2. Phân tích làm rõ đối tượng thứ nhất.
3. Phân tích làm rõ đối tượng thứ hai.
4. So sánh:
- Tương đồng: + Nội dung.
+ Nghệ thuật.
- Khác biệt: + Nội dung.


+ Nghệ thuật.
5. Đánh giá, lí giải sự tương đồng và khác biệt.
III. Kết thúc vấn đề:
- Khái quát lại vấn đề.
- Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, liên tưởng.
Đề minh họa: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết bát cháo hành (Chí
Phèo – Nam Cao) và chi tiết nồi chè khoán (Vợ nhặt – Kim Lân).
Hướng dẫn làm bài:

Ý
I.

Nội dung
Đặt vấn đề
Dẫn dắt. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chi tiết.

II.

Giải quyết vấn đề

1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và chi tiết
2.

Giải thích
- Chi tiết: là tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và
tư tưởng.
- Chi tiết: có khả năng làm sáng rõ cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở
thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm.

3. Về chi tiết bát cháo hành:
- Ý nghĩa về nội dung:
+ Do thị Nở mang đến cho Chí Phèo đúng lúc Chí Phèo sống trong
hoàn cảnh ốm đau, cô độc.
+ Là biểu hiện của tình cảm đồng loại, tình thương mà con người
dành cho nhau.
+ Có giá trị thức tỉnh, làm hồi sinh nhân tính của Chí Phèo:
. Làm cho Chí Phèo ngạc nhiên, xúc động, sau đó bâng khuâng, vừa
vui lại vừa buồn, vừa ăn năn vừa hối hận;
. Khơi gợi trong Chí nhiều khát khao: Khát khao hạnh phúc gia đình



(Chí Phèo tỏ tình với thị Nở), khát khao lương thiện (hi vọng thị Nở sẽ là
người mở đường cho Chí Phèo trở lại xã hội bằng phẳng, thân thiện của
những người lương thiện);
. Sau khi bị thị Nở từ chối, Chí Phèo vẫn thấy thoang thoảng hơi cháo
hành – hương vị của tình người, của cuộc sống lương thiện.
- Ý nghĩa về nghệ thuật:
+ Là chi tiết quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc
họa sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của nhà văn Nam Cao: tin tưởng
vào khả năng cảm hóa của tình người.
4. Về chi tiết nồi chè khoán.
- Ý nghĩa về nội dung:
+ Chi tiết chè khoán được nhắc đến trong tác phẩm chính là nồi cháo
cám trong bữa ăn đón nàng dâu mới.
+ Nói lên tình cảnh thảm hại của người dân nghèo trong nạn đói.
+ Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít gây ra nạn đói khủng khiếp
năm 1945.
+ Thể hiện tấm lòng đôn hậu của người mẹ thương con. Với nồi cháo
cám, bà cụ Tứ đã cố gắng tạo niềm vui dù là mỏng manh cho hai con.
+ Qua chi tiết nồi chè khoán, tính cách của các nhân vật được bộc lộ:
. Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết lòng.
. Tràng: khéo léo trong cách cư xử, hiểu gia cảnh nhà mình.
. Vợ Tràng: trở nên ý tứ và biết chấp nhận hoàn cảnh.
- Ý nghĩa về nghệ thuật:
+ Là chi tiết nghệ thuật độc đáo tạo nên dư vị trong lòng người đọc về
hiện thực đói kém và tình người cảm động.
+ Góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của nhà văn Kim Lân: trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng của con người vẫn luôn bất diệt.



5. Sự tương đồng và khác biệt.
- Sự tương đồng.
+ Đó đều là những món ăn đơn sơ, dân dã của những người lao động
nghèo. Tuy đơn giản về vật chất nhưng chứa đựng tình người cao đẹp.
+ Phơi bày hiện thực xã hội đen tối, khổ cực và lên tiếng tố cáo xã hội
thực dân phong kiến trước Cách mạng (Chí Phèo); bọn thực dân, phát xít đã
gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 (Vợ nhặt).
+ Qua hai chi tiết, nhà văn muốn khẳng định niềm tin vào tình yêu
thương con người và sự đổi thay xã hội.
- Sự khác biệt.
+ Chi tiết bát cháo hành là biểu trưng cho tình yêu thương của thị Nở
dành cho Chí Phèo.
+ Chi tiết nồi chè khoán là biểu trưng cho tình yêu thương của bà cụ
Tứ dành cho các con.
+ Bát cháo hành thể hiện tình thương mộc mạc của thị Nở đã khiến
Chí Phèo thức tỉnh tính người …Qua đó, nhà văn khẳng định bản chất tốt
đẹp của người nông dân không bao giờ mất đi.
+ Nồi chè khoán của bà cụ Tứ đã góp phần tiếp sức cho cả gia đình
vượt qua đói khát. Ở người mẹ nghèo, niềm tin về hạnh phúc của con đã
biến đắng chát của cháo cám thành ngọt ngào.
6. Đánh giá.
- Hai chi tiết đều là những phát hiện độc đáo, mới mẻ, thấm đượm giá
trị nhân đạo cao cả, giá trị hiện thực sâu sắc. Tuy mộc mạc, giản dị về mặt
vật chất nhưng lại chứa đựng những giá trị tinh thần lớn lao, là biểu tượng
đẹp đẽ cho lòng trắc ẩn và tình yêu thương.
- Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu được những trạng thái tâm
lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt.
- Qua hai chi tiết, ta thấy được tài năng và phong cách hai nhà văn



Nam Cao và Kim Lân.
III. Kết thúc vấn đề: Khái quát lại vấn đề. Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ.
2.5.3. Rèn kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng.
Đây là khâu vô cùng quan trọng để các em tiếp thu bài học tốt hơn.
Trước hết, giáo viên phải hướng dẫn học sinh lập kế hoạch cá nhân, phân bố
thời gian học tập và viết bài hợp lí.
2.5.3.1. Rèn kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng qua việc làm các bài tập về nhà
ứng với từng dạng bài.
- Trước khi kết thúc bài học, giáo viên giao bài tập về nhà và yêu cầu về thời
gian hoàn thành.
- Giáo viên yêu cầu nghiêm khắc đối với học sinh về việc soạn bài ở nhà,
nắm chắc kiến thức cơ bản, thuộc dẫn chứng tiêu biểu.
2.5.3.2. Rèn kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng qua việc đọc tài liệu tham khảo.
- Giới thiệu cho các em một số cuốn sách hay như: Hệ thống đề mở (Đỗ
Ngọc Thống), Chuyên đề chuyên sâu bồi dưỡng Ngữ văn 12 (Nguyễn Tấn Huy),
Những bài văn đạt giải quốc gia, Tuyển tập đề thi Olympic 30/4, đề thi học sinh
giỏi các năm ở các tỉnh trong cả nước ...; cung cấp cho học sinh một số địa chỉ trên
mạng Internet để các em tham khảo học tập như: Trường học kết nối, Tuyển sinh
247, Họcmai.vn, Bachkim.vn...Giáo viên yêu cầu học sinh đọc chuyên sâu các bài
về lí luận văn học như: Tiếng nói của văn nghệ, Mấy ý nghĩ về thơ (Nguyễn Đình
Thi), Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh).....
- Trong quá trình học và đọc tài liệu, các em sử dụng sổ tay văn học ghi chép
chọn lọc những ý chính, những câu văn hay, nhận định đặc sắc để làm tư liệu khi
viết bài....Từ việc tự học, tự đọc tài liệu các em sẽ bổ sung cho mình những kĩ năng,
phương pháp học cũng như những kiến thức cần thiết mà mình còn khiếm khuyết.
2.5.3.3. Rèn kĩ năng tự đánh giá năng lực môn học Ngữ văn của học sinh.
- Học sinh tự đánh giá năng lực của mình thông qua việc trao đổi cặp đôi với
bạn ngồi cùng bàn, trao đổi nhóm, cho học sinh chấm chéo bài làm của bạn trong



lớp để học hỏi thêm. Đây cũng là một phương pháp học tích cực, chủ động : "Học
thầy không tày học bạn".
2.5.3.4. Rèn kĩ năng làm bài thi.
- Lập dàn ý (sơ lược hoặc chi tiết) trước khi viết thì bài viết sẽ mạch lạc, dễ
hiểu hơn và không bị sót ý.
- Cần chuẩn bị tâm lí tốt khi đi thi: chủ động, tự tin. Đọc kĩ đề bài, gạch chân
từ then chốt. Cần xác định rõ trong vấn đề nghị luận đâu là phương tiện, đâu là mục
đích cần đạt tới.
- Câu nào dễ làm trước, câu nào khó quá làm sau. Xác định thời gian làm bài
ứng với từng dạng bài cụ thể.
- Rèn chữ đẹp và tốc độ viết nhanh. Chữ đẹp sẽ đem lại thiện cảm tốt cho
người chấm. Viết nhanh giúp các em truyền tải được hết kiến thức cuả mình khi đi
thi.
- Rèn cách trình bày bài văn sao cho khoa học.
- Rèn năng lực tư duy bởi nghị luận xã hội rộng vô bờ, nghị luận xã hội thì có
nhiều dạng đề khác nhau để chống học vẹt.
- Cho học sinh viết bài thường xuyên, lúc đầu có thể là 20 phút, 60 phút, 90
phút, 120 phút sau đó tăng lên 180 phút như thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia.
Bắt đầu từ luyện viết đoạn văn mở bài, kết bài, hoặc một luận điểm trong thân bài,
sau đó viết đến một câu và cuối cùng là viết cả bài. Luyện viết nhiều giúp các em
có tâm thế và bản lĩnh làm bài, không bị mất tinh thần hay bị ngoại cảnh chi phối,
có độ ổn định và chắc chắn khi đi thi. Hiện nay thi học sinh giỏi chủ yếu là dưới
dạng viết nên học sinh luyện viết bài được càng nhiều thì càng tốt.
2.6. Tổ chức các hoạt động tương tác:
2.6.1. Hoạt động tương tác giữa thầy và trò.
- Hoạt động hỏi - đáp: nhằm củng cố, mở rộng, nâng cao kiến thức. Giáo
viên đưa ra những tình huống cụ thể yêu cầu học sinh tư duy trả lời. Hoặc học sinh
trao đổi những câu hỏi mà các em còn chưa rõ, cần giải thích, bổ sung.



- Hoạt động thực hành: Học sinh làm bài tập thực hành ở trên lớp hoặc ở
nhà, giáo viên chấm và chữa lỗi, chỉ ra điểm mạnh để phát huy, điểm hạn chế cần
khắc phục.
2.6.2. Hoạt động tương tác giữa trò và trò.
Bao gồm nhiều hoạt động nhưng nổi bật nhất là hoạt động nhóm. Giáo viên
chia đội tuyển thành nhiều nhóm nhỏ. Mỗi nhóm bốn đến năm học sinh, bầu nhóm
trưởng để cùng nhau trao đổi, thống nhất, uốn nắn, bổ sung, kiểm tra đánh giá lẫn
nhau, phát huy trí tuệ tập thể.
2.6.3. Hoạt động ngoại khóa văn học.
- Sân khấu hóa các tác phẩm văn học để học sinh hóa thân đóng vai nhân vật.
- Ngoại khóa xen lẫn bình thơ, ngâm thơ, thả thơ, hát thơ đã phổ nhạc...làm
cho các em tiếp thu tác phẩm tự nhiên mà sâu sắc.
- Tổ chức giao lưu, gặp gỡ các nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học để
hiểu rõ hơn về phương pháp sáng tác, cách cảm thụ, đánh giá tác phẩm văn chương.
2.7. Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi.
- Giáo viên chủ động khảo sát chất lượng học sinh giỏi theo từng tháng. Có
thể sử dụng nhiều hình thức kiểm tra: vấn đáp, thi viết ở lớp, ở nhà.
- Qua kết quả đạt được, đánh giá khái quát những gì đã làm được và chưa
làm được, rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch cho những năm tiếp theo.
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ngày càng tiến bộ, giáo viên phát huy
được tinh thần trách nhiệm, đem lại không khí phấn khởi trong giáo viên và học
sinh. Giáo viên có tinh thần tự giác đổi mới phương pháp giảng dạy, tay nghề mỗi
ngày được nâng lên rõ rệt. Học sinh được phân loại rõ ràng: Giỏi, khá, trung bình,
yếu, kém, học sinh ngày càng tự giác trong học tập và kiểm tra thi cử. Bởi học sinh
không còn cách để lười học mà thi điểm cao. Những học sinh có học lực yếu được
nhà trường chỉ đạo giáo viên có biện pháp dạy phụ đạo thêm để nâng chất lượng đại



trà. Những học sinh giỏi được phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo kịp thời.
Nhiều học sinh đã phát huy được tính độc lập sáng tạo và năng khiếu văn
chương, có khả năng phân tích đề nhanh nhạy, sâu sắc. Quan trọng nhất là các em
đã có hứng thú học văn, yêu văn và sống thật với văn chương, không còn sợ mỗi
khi phải viết bài. Đây cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy học sinh trýờng THPT
Long Chõu Sa ngày càng theo học khối C, D nhiều hơn.
* Kết quả cụ thể:
- Kết quả giảng dạy:
+ Năm học 2013 – 2014
Lớp

Sĩ số

Giỏi

%

Khá

%

TB

%

Yếu

%


10A3

37

3

8,11

32

86,48

2

5,41

0

0

10A4

34

3

8,83

27


79,41

4

11,76

0

0

Tổng

71

6

8,45

59

83,10

6

8,45

0

0


+ Năm học 2014 - 2015
Lớp

Sĩ số

Giỏi

%

Khá

%

TB

%

Yếu

%

11A3

41

6

14,63


35

85,37

0

0

0

0

11A4

40

11

27,50

28

70,00

1

2,50

0


0

Tổng

81

17

20,99

63

77,78

1

1,23

0

0

+ Học kì I - Năm học 2015 - 2016
Lớp

Sĩ số

Giỏi

%


Khá

%

TB

%

Yếu

%

12A3

42

22

52,38

20

47,62

0

0

0


0

12A4

36

13

36,11

23

63,89

0

0

0

0

Tổng

78

35

44,87


43

55,13

0

0

0

0

- Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh có nhiều đột phá.


×