Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Quảng Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.61 KB, 73 trang )

LUẬN VĂN:

Kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở
tỉnh Quảng Trị


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức đúng đắn về vai trò chiến lược, tầm quan trọng của kinh tế tập thể trong
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN là một vấn đề quan trọng, nhưng việc
nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình thực tế kinh tế tập thể của cả nước nói chung còn có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì, chỉ có trên cơ sở thực tế
khách quan ấy, Đảng và Nhà nước mới đề ra những giải pháp thích hợp, tích cực nhằm
đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế tập thể ngang tầm nhiệm vụ
và sứ mệnh loại hình kinh tế này. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ:
“Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể. Tổng kết thực tiễn,
sớm có chính sách, cơ chế cụ thể để khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh
tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh bao gồm
các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã cổ phần..." [8, tr.236].
Quảng Trị là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, với tiềm năng đất đai hiện có, tương
lai phát triển của ngành nông nghiệp Quảng Trị là chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với hệ sinh thái của mỗi vùng: thoát dần
độc canh cây lúa theo hướng đa dạng hóa cây trồng, tăng nhanh sản xuất cây công
nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi. Do vậy, phải quan tâm phát
triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp.
Từ sau khi thực hiện Chỉ thị 68/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa
VII về chuyển đổi hoạt động của HTX nông nghiệp theo Luật HTX. ở tỉnh Quảng Trị đã
có bước chuyển biến về số lượng và chất lượng hoạt động của HTX thích ứng với cơ chế
thị trường, góp phần phát triển kinh tế hộ, trên 90% số HTXNN kinh doanh có lãi.


Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số HTX tồn tại hình thức, nhiều HTX lúng túng
trong hoạt động SX-KD, năng lực nội tại còn hạn chế chưa tương xứng vai trò, vị trí tiềm
năng của nó. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIV nhiệm kỳ
(2005-2010) đánh giá: “Kinh tế hợp tác, HTX từng bước chuyển đổi theo luật và thích
ứng dần với cơ chế thị trường” nhưng “Kinh tế hợp tác và phong trào xây dựng HTX kiểu
mới, nhất là đối với HTX trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chưa được đầu tư đúng


mức, chất lượng chuyển đổi trong hoạt động của các HTX còn nặng hình thức,
hiệu quả chưa cao” [ 4, tr.25].
Do vậy, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm
của những mô hình HTX hoạt động có hiệu quả, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đang đặt ra về kinh tế tập thể trong nông nghiệp mà
nòng cốt là các HTX kiểu mới ở tỉnh Quảng Trị là một vịêc làm thiết thực, cấp bách mà thực
tiễn đang đặt ra góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở nước
ta hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh
Quảng Trị” làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế - Chính trị nhằm góp
phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài:
Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể là vấn đề lớn, mang tính
chiến lược luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Sự quan tâm đó thể hiện thông qua
đường lối, chủ trương chính sách và sự đầu tư nhiều mặt của Đảng và Nhà nước cho khu
vực kinh tế tập thể và HTX.
Trong quá trình cách mạng XHCN ở nước ta, đặc biệt từ khi có Chỉ thị 68/CT-TW
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII và Luật HTX (ban hành năm 1996) về chuyển
đổi hoạt động của HTX nông nghiệp cho đến nay được nhiều cơ quan, nhiều nhà khoa
học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau, cụ thể như:
- Nguyễn Văn Bính, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001): “Kinh tế hợp tác HTX ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

- Hồ Văn Vĩnh (2004): Cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình phát triển HTX
nông nghiệp ở nước ta. Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
- Vũ Văn Phúc (2004) “Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển hợp tác xã
nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
- Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003) “Kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp nước ta hiện nay” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


- Nguyễn Thanh Hà (2000) “Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Minh Tâm (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố
Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lưu Văn Tiền (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở
tỉnh Vĩnh Long”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
- Đặng Hùng Anh “Phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Huy Oánh (2005) “Tìm hiểu quan điểm của Mác-Ănghen, Lênin về sở
hữu tập thể và kinh tế tập thể”, Thông tin những vấn đề kinh tế chính trị học, số 05, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 2003 - 2004 “Mô hình phát triển hợp tác xã
nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hai
thập niên đầu thế kỷ XXI”, Khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
Các công trình đã đề cập đến vấn đề HTX với những nội dung chủ yếu như:
- Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế hợp tác và HTX.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác và HTX trước và sau đổi
mới nói chung và sau khi thực hiện chuyển đổi HTX nói riêng, đánh giá việc thực

hiện luật HTX của một số địa phương và trên phạm vi cả nước.
- Phân tích những đặc trưng của mô hình HTX kiểu mới, trình bày những kinh
nghiệm hoạt động và những kiến nghị, giải pháp, chính sách cụ thể về phát triển kinh tế
tập thể mà nòng cốt HTX nông nghiệp.
- Dự báo sự vận động, phát triển HTXNN trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI.
Nhưng tỉnh Quảng Trị cho đến nay chưa có một đề tài nào tập trung nghiên cứu cụ
thể về hoạt động của kinh tế tập thể nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng. Vì vậy,
trong khuôn khổ luận văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả nghiên cứu của các công
trình trên, đồng thời vận dụng tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa IX và Luật HTX 2003 vào
nghiên cứu, khảo sát, đánh giá hoạt động của các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng


Trị, từ đó đề xuất những kinh nghiệm các mô hình HTX hoạt động có hiệu quả và những
giải pháp tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về kinh tế tập thể, thực tiễn hình thành và phát triển
những mô hình kinh tế tập thể trong quá trình đổi mới, tìm ra những giải pháp thúc đẩy
sự phát triển của kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn tỉnh Quảng Trị thời gian
tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Thứ nhất, phân tích đặc điểm, vai trò của kinh tế tập thể trong nông nghiệp, từ đó
rút ra kết luận phát triển HTX nông nghiệp là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Thứ hai, khảo sát phân tích đánh giá thực trạng hình thành và phát triển các mô
hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị thời gian qua.
Thứ ba, đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tập thể
trong nông nghiệp ở Quảng Trị thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là kinh tế tập thể trong nông nghiệp mà nòng
cốt là HTXNN kiểu mới và những quan hệ kinh tế - xã hội có liên quan đến sự hình thành

vận động và phát triển của chúng.
- Phạm vi nghiên cứu là một số mô hình kinh tế tập thể dưới hình thức hợp tác xã
nông nghiệp kiểu mới ở tỉnh Quảng Trị trong thời gian từ năm 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng, các Nghị quyết của Đảng bộ địa phương. Cơ sở
phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu
điều tra chọn mẫu và các số liệu thường niên của Phòng Nông nghiệp & PTNT các
huyện thị, Liên minh HTX và các phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn


Luận văn góp phần làm rõ sự cần thiết phát triển hợp tác xã nông nghiệp với
tư cách là hình thức có hiệu quả của kinh tế tập thể trong nông nghiệp trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp và một số mô
hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới tiêu biểu trong nông nghiệp Quảng Trị thời gian
qua, luận văn chỉ ra những thành công và hạn chế trong phát triển hợp tác xã nông nghiệp
ở Quảng Trị cùng các nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó.
Luận văn đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp tiếp tục phát triển
kinh tế tập thể, đặc biệt dưới hình thức hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong nông
nghiệp tỉnh Quảng Trị thời gian tới với tư cách là tài liệu tham khảo giúp địa phương
trong thực tiễn lãnh đạo phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở tỉnh Quảng Trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu
gồm 2 chương, 6 tiết.
- Chương 1: Hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Quảng Trị hiện nay.
- Chương 2: Quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục
phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị.



Chương 1
hợp tác xã nông nghiệp tỉnh quảng trị hiện nay

1.1. Hợp tác xã nông nghiệp và sự cần thiết phát triển Hợp tác xã nông
nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng, nguyên tắc hoạt động của Hợp tác xã
Hợp tác xã nông nghiệp là hình thức phổ biến của kinh tế tập thể trong nông
nghiệp ngày nay ở nước ta nói chung và Quảng Trị nói riêng, vì vậy, để hiểu rõ về kinh tế
tập thể trong nông nghiệp ở Quảng Trị cần làm rõ nội hàm khái niệm kinh tế tập thể, kinh
tế tập thể trong nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp và mối quan hệ giữa chúng với
nhau.
Kinh tế tập thể là kiểu kết cấu kinh tế xã hội dựa trên cơ sở hình thức sở hữu tập
thể của người lao động về các điều kiện sản xuất kinh doanh chủ yếu mà trước hết là về
tư liệu sản xuất.
Sở hữu tập thể được hình thành trong lịch sử phát triển xã hội dưới tác động của
phát triển sản xuất thông qua nhu cầu hợp tác giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh, tuy
nhiên sở hữu tập thể của những người lao động trực tiếp chỉ được hình thành một cách
phổ biến trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vì vậy sự hình thành và phát triển của kinh tế
tập thể được các nhà kinh điển Mác - Lênin coi là một trong những đặc trưng của thời kỳ
quá độ lên CNXH và là con đường đưa sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán của người nông
dân, thợ thủ công lên sản xuất lớn XHCN.
Thực tiễn lịch sử cho thấy kinh tế tập thể được hình thành và phát triển rộng rãi ở
các nước trong phe XHCN trước đây như Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu, Trung
Quốc. ở nước ta, kinh tế tập thể được hình thành ở miền Bắc sau hòa bình lập lại 1954 và
trên phạm vi cả nước sau thống nhất đất nước 1975 với các hình thức đa dạng từ thấp đến
cao như tổ đổi công, tổ hợp tác, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác xã cấp cao.
Trải qua nhiều thăng trầm trong phát triển, đến nay kinh tế tập thể đang là một
trong những thành phần kinh tế có vai trò quan trọng cùng với kinh tế nhà nước trở thành

nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân [7, tr.83].
Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH, Đảng ta đã nêu lên
quan niệm về kinh tế tập thể một cách đầy đủ trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCHTW


khoá IX: “Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp
tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những
người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các
thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có
quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả
thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và người có nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức
trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ” [7,
tr.30].
Từ khái niệm trên có thể rút ra những nhận xét sau:
Thứ nhất, kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể.
Thứ hai, phân phối theo lao động, vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ của xã
viên.
Thứ ba, nguyên tắc hoạt động là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân
chủ.
Thứ tư, trong điều kiện nước ta hiện nay nòng cốt của kinh tế tập thể là các HTX.
Thứ năm, HTX với tư cách là hình thức biểu hiện của kinh tế tập thể vừa dựa trên
sở hữu của các thành viên, vừa dựa trên sở hữu tập thể; là hình thức liên kết rộng rãi
không những đối với người lao động mà cả các hộ SXKD, các doanh nghiệp nhỏ và vừa;
phân phối không những theo lao động mà cả theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ;
hoạt động với tư cách pháp nhân trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Quan niệm mới về kinh tế tập thể đó đặt nền móng cho quan niệm mới về HTX
trong đó có HTXNN như sau: "HTX là một tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia
đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia Hợp tác xã,

cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy
và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật" [27].


Như vậy, HTX là một trong những hình thái biểu hiện cụ thể của kinh tế tập
thể ở nước ta hiện nay, xét về nội hàm thì kinh tế tập thể là khái niệm rộng hơn, song với
tư cách là hình thái biểu hiện thì HTX không những bao hàm những đặc tính của kinh tế
tập thể mà còn bao hàm những đặc tính cụ thể, đặc thù thể hiện trình độ phát triển nhất
định của kinh tế tập thể. Trước đây do nhận thức không đầy đủ về kinh tế tập thể và
HTX, cho nên chúng ta đã đồng nhất HTX với kinh tế tập thể, buộc các HTX phải cố
gắng làm cho các đặc tính của kinh tế tập thể như sở hữu tập thể, phân phối theo lao
động, quản lý tập trung… trở thành bao trùm toàn bộ với thời gian ngắn. Những biện
pháp hành chính mệnh lệnh để xác lập nhanh chóng kinh tế tập thể đã làm thui chột động
lực, giới hạn phạm vi hoạt động và giảm hiệu quả của các HTX. Với nhận thức mới về
kinh tế tập thể và HTX ngày nay đã hình thành quan niệm mới về kinh tế HTX thông qua
những đặc trưng của mô hình HTX kiểu mới, bao gồm:
Thứ nhất, HTX do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao
động, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ) cả người có ít vốn và người có
nhiều vốn, có thể góp sức, góp vốn cổ phần xây dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Thứ hai, HTX không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên, mà dựa
trên sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên; sở hữu tập thể bao gồm các loại quỹ
không chia, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng làm tài sản không chia,
những tài sản do quá trình tích lũy của HTX tạo nên.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa
bàn, HTX hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm
trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, liên doanh, liên kết với các đơn vị

thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ tư, hình thức phân phối trong HTX vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và
theo mức độ tham gia dịch vụ. HTX là một tổ chức kinh tế hoạt động lấy lợi ích kinh tế
làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên, lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích
xã hội của các thành viên.
Thứ năm, mô hình HTX linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm của
từng vùng, từng ngành với nhiều trình độ phát triển từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu
vào, đầu ra. Phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên, đến mở mang


ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành được các doanh nghiệp của
HTX, từ HTX phát triển thành liên hiệp các HTX.
Thứ sáu, trong tổ chức quản lý HTX, chức năng quản lý của Ban quản trị với chức
năng điều hành của chủ nhiệm có sự phân biệt rõ ràng. Chủ nhiệm có thể là xã viên HTX
hoặc người ngoài HTX do Ban quản trị thuê.
Những đặc trưng mô hình HTX kiểu mới được nêu ở trên là những tiêu chí giúp
chúng ta làm cơ sở để đổi mới hoạt động HTX, đồng thời là cơ sở để phân biệt với HTX
kiểu cũ (trước đổi mới), phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác.
Để thể hiện được các đặt trưng của HTX kiểu nới, góp phần phát huy hiệu quả của
HTX với tư cách là hình thức quan trọng của kinh tế tập thể, các HTX cần được tổ chức
hoạt động theo những nguyên tắc nhất định:
Thứ nhất, tự nguyện: Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo
quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền tự quyết định gia nhập
HTX hoặc xin ra khỏi HTX.
Nguyên tắc này thể hiện: Tuyệt đối không được cưỡng ép nông dân bất kỳ dưới
hình thức nào, mà phải để người nông dân tự suy nghĩ thấy những lợi ích thiết thực của
mình mà tự nguyện hợp tác với nhau. Ph.Ăngghen từng nêu luận điểm: Cần để cho nông
dân suy nghĩ trên luống cày của họ và ông đã khẳng định kiên quyết rằng khi giai cấp vô
sản giành được chính quyền thì tuyệt đối không được tước đoạt những người tiểu nông
dù bất kỳ dưới hình thức nào. Nhà nước vô sản phải bằng những biện pháp hết sức tỷ mỷ

khuyến khích họ.
Bằng hoạt động thực tiễn của mình với nhãn quan khoa học V.I.Lênin có những
đóng góp quan trọng về KTHT, về con đường đưa những người tiểu nông, những người
sản xuất nhỏ đi theo CNXH trong thời kỳ quá độ. Người rất coi trọng nguyên tắc tự
nguyện, kiên quyết phản đối dùng biện pháp hành chính trong việc Hợp tác hóa nông
dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc tự nguyện, Người luôn nhắc nhở
chúng ta: "Không được cưỡng ép ai hết, phải tuyên truyền giải thích cho nông dân thấy
lợi ích tổ đổi công, ai muốn vào thì vào, tuyệt đối không được ép bụôc ai" [24].
Thực hiện nguyên tắc tự nguyện nhưng lại biết tổ chức, giáo dục, biết đấu tranh,
đặc biệt là biết tổng kết những điển hình tiên tiến để cho nông dân noi theo, học tập; tự


nguyện không có nghĩa là buông xuôi, bỏ mặc mà không có tác động gì của Nhà
nước, của chúng ta, nhưng cũng không chạy theo thành tích, nôn nóng, “HTX cả làng”
như trước đây, mà phải coi trọng lợi ích thiết thực của xã viên.
Thứ hai, dân chủ, bình đẳng và công khai:
Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra giám sát HTX và có quyền ngang
nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài
chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ HTX. Dân chủ trong quản
lý gắn liền với bình đẳng của mọi xã viên HTX.
Bởi vì, HTX là tổ chức của dân, do dân tự tổ chức, quản lý, phục vụ nhu cầu
chung của xã viên mà từng thành viên tự thực hiện không hiệu quả, mang lại hết thảy lợi
ích cho xã viên, là tổ chức mà xã viên vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng sản phẩm,
dịch vụ của HTX hoặc là người lao động trong HTX.
Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai trong HTX khác với các loại hình
doanh nghiệp khác, trong doanh nghiệp tư nhân tư bản, quyền quyết định thuộc về chủ sở
hữu nào chiếm cổ phần chi phối hay còn gọi cổ phần khống chế. Trong hội đồng quản trị
của các doanh nghiệp nhà nước, làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Trong
kinh tế HTX, ban quản trị cũng làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nhưng

trên hội đồng quản trị còn có đại hội xã viên. Đại hội này có quyền lực cao nhất. Đại hội
xã viên khác với đại hội cổ đông của xí nghiệp. ở đại hội cổ đông người có quyền quyết
định là người cổ đông nào sở hữu số cổ phần chi phối. Nhưng trong kinh tế HTX, xã viên
đều bình đẳng về quyền biểu quyết, không kể xã viên đó góp nhiều hay góp ít vốn cho
HTX. Đây là sự biểu quyết theo nguyên tắc đối nhân chứ không phải theo nguyên tắc đối
vốn.
Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về quản lý HTX được thể hiện qua khái niệm làm
chủ của xã viên HTX: "Các HTX phải làm như thế nào để các xã viên đều thấy rằng mình là
người làm chủ tập thể HTX. Có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của HTX. Có
như thế thì xã viên sẽ đoàn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và HTX sẽ tiến bộ không
ngừng", "Mỗi xã viên phải làm chủ, HTX là nhà, xã viên là chủ". Đồng thời, Người nhấn
mạnh: "Quản lý phải thật dân chủ, tài chính phải công khai, sổ sách phải minh bạch" [32,
tr.75].
Thứ ba, tự chủ, chịu trách nhiệm và cùng có lợi.


HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh,
tự quyết định về phân phối thu nhập, đảm bảo HTX và xã viên cùng có lợi. Sau khi thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX, lãi được trích một phần chia
theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức
độ sử dụng dịch vụ của HTX.
Tự chủ, chịu trách nhiệm và cùng có lợi. Đây là nguyên tắc nói về lợi ích kinh tế
của kinh tế hợp tác đưa lại cho nông dân, trong đó lợi ích xã viên, HTX, nhà nước cơ bản
thống nhất với nhau, không có mâu thuẩn đối kháng, không có bóc lột, cùng có lợi thể
hiện: HTX là hợp vốn, hợp sức với nhau, vốn nhiều thì sức mạnh, khó nhọc ít mà lợi ích
nhiều; lợi ích không chỉ là lợi ích trước mắt mà còn lợi ích lâu dài cho bà con nông dân.
Thứ tư, hợp tác và phát triển cộng đồng.
"Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau
trong HTX, trong cộng đồng xã hội, hợp tác giữa các HTX trong nước và ngoài nước
theo quy định của pháp luật" [27].

Những nguyên tắc trên được hình thành trên cơ sở bản chất kinh tế - xã hội của
HTXNN. Là tiêu chuẩn để xác định một tổ chức kinh doanh có phải là HTX hay không;
để phân biệt HTX với tổ chức kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường, những
nguyên tắc này thể hiện nổi bật trong HTXNN và xã hội nông thôn, và thể hiện lợi ích
thiết thân của các thành viên tham gia kinh tế hợp tác.
1.1.2. Hợp tác xã nông nghiệp và các loại hình Hợp tác xã nông nghiệp ở nước
ta hiện nay
Hợp tác xã nông nghiệp là một loại hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp do
những người nông dân tự nguyện thành lập nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động sản
xuất nông nghiệp của họ thông qua cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và
chuyên môn hoá hoạt động. “HTXNN ra đời trên nền tảng kinh tế hộ nông dân” [19].
Ngoài những đặc điểm của HTX kiểu mới nói chung, HTXNN còn có những đặc
điểm đặc thù về kinh tế - xã hội của nông nghiệp, nông thôn như:
+ HTXNN là tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân chủ yếu ở nông thôn - lực
lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển nói chung
và ở nước ta nói riêng.


+ HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người hạn chế về trình độ dân
trí, vốn, cơ sở vật chất- kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Do đó, đòi hỏi
sự giúp đỡ của Nhà nước về cơ sở vật chất, về tổ chức quản lý đối với HTXNN là một tất
yếu.
+ Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi. Nên trong quá trình
hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, vừa bị
chi phối bởi các quy luật tự nhiên nên thường làm cho các HTXNN phải chịu rủi ro lớn,
hiệu quả kinh tế và lợi nhuận thấp nên tích luỹ ít và chậm. Qua đặc điểm này cho thấy,
những lĩnh vực sản xuất, những khâu công việc trực tiếp tác động vào cây trồng vật nuôi
thì việc tổ chức sản xuất, tổ chức lao động trong từng hộ nhìn chung là phù hợp và tỏ ra
có sức sống, có hiệu quả kinh tế cao hơn là tổ chức sản xuất tập thể trong các HTX quy
mô lớn.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, HTX nông nghiệp kiểu mới ra
đời là vì kinh tế nông hộ, chứ không phải để thay thế kinh tế nông hộ, ngược lại kinh tế
nông hộ là "tế bào" là cơ sở tồn tại của kinh tế HTX nông nghiệp kiểu mới.
Tuỳ theo đặc điểm của mỗi nước và nhu cầu cụ thể của những người tham gia, do
đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh mà HTX được
xây dựng theo một mô hình nào đó nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra, vì vậy các loại hình
HTX rất đa dạng.
Nhìn chung về loại hình HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta và thực tiễn hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới, chúng ta có thể khái quát
HTX nông nghiệp với các mô hình sau:
Loại thứ nhất, HTX nông nghiệp làm dịch vụ: loại hình HTX nông nghiệp được
tách hẳn để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, bao gồm dịch vụ các yếu tố đầu vào
như: HTX cung ứng vật tư (giống, phân bón, thuốc trừ sâu...); dịch vụ các khâu cho sản
xuất nông nghiệp như: dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo vệ thực vật...; dịch vụ quá trình tiếp
theo của sản xuất nông nghiệp như: dịch vụ chế biến, bảo quản, thu mua, tiêu thụ sản
phẩm…
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ nên
hoạt động dịch vụ của HTX nông nghiệp là hình thức thích hợp, phổ biến có hiệu quả


thiết thực hiện nay. Tuy nhiên theo tính chất của từng ngành, từng vùng, từ yêu cầu
hợp tác và phân công lao động để lựa chọn các hình thức thích hợp.
Ngay trong mô hình HTX dịch vụ cũng được phân thành nhiều hình thức như
HTX dịch vụ chuyên khâu, HTX kinh doanh dịch vụ tổng hợp (thực hiện nhiều khâu dịch
vụ cho sản xuất nông nghiệp, kể cả dịch vụ cho đời sống nông dân).
Loại thứ hai, HTX vừa làm dịch vụ vừa tổ chức sản xuất tập trung ở các mức độ
và quy mô khác nhau (thường gọi HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp).
Các HTX loại này thường tồn tại dưới dạng HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm.
Đó là HTX chuyên ngành, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Loại hình này phổ biến
nhất là các HTX nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi gia súc tập trung, trồng rừng... Còn

trong lĩnh vực trồng trọt, phổ biến hiện nay hộ nông dân trực tiếp sản xuất, ngoài ra còn
có loại HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ như HTX sản xuất
dịch vụ chăn nuôi Tiến Đạt, HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Đoàn Kết ở
Huyện Hướng Hoá, HTX sản xuất giống lúa ở HTX Câu Nhi; HTX SXKD DV Long
Hưng.- huyện Hải Lăng - tỉnh Quảng Trị
Loại thứ ba, là các HTX sản xuất tập trung như HTX chăn nuôi hay trồng trọt...
Đây là loại hình HTX, trong đó các TLSX chính được tập thể hóa, lao động được tổ chức
theo hướng chuyên môn hóa dưới sự điều hành và chỉ đạo chung của Ban Quản trị, loại
hình này ở nước ta trong thời kỳ bao cấp là phổ biến, hiện nay và trong tương lai gần
đang có xu hướng giảm xuống.
Với những loại hình HTX nông nghiệp nêu trên tùy theo đặc điểm của ngành,
trình độ sản xuất các hộ nông dân, điều kiện của từng địa phương mà lựa chọn loại hình
HTX sao cho có hiệu quả, thiết thực, đặc biệt HTX thực sự là "bà đỡ" cho kinh tế hộ phát
triển, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
1.1.3. Sự cần thiết phát triển Hợp tác xã nông nghiệp hiện nay
+ Phát triển HTX nông nghiệp là yêu cầu khách quan và con đường phát triển
tất yếu của kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế thị trường nước ta.
Trước thời kỳ đổi mới, việc tập trung quá mức vào thực hiện tập thể hóa nông
nghiệp đã làm thui chột kinh tế hộ nông dân và vai trò của loại hình kinh tế này. Chỉ từ
sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (05/4/1988) cùng với đổi mới toàn diện quản lý kinh
tế nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân mới thực sự được khẳng định là đơn vị kinh tế tự


chủ, từ đó tiềm năng, động lực của kinh tế hộ được khơi dậy và phát triển, hiệu quả
của sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân đã có những tiến bộ vượt bậc so với
trước, nước ta đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo của thế giới.
Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hộ nông dân ngày càng gắn chặt với thị trường
trong và ngoài nước. Những cơ hội lớn cho sự phát triển do hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại diễn ra cùng với những thách thức không nhỏ như cạnh tranh quyết liệt hơn;
nguy cơ tụt hậu, nghèo đói gia tăng, cách biệt mở rộng, đặc biệt hàng triệu hộ gia đình

nông dân, cơ sở sản xuất nhỏ và kể cả không ít doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ phá
sản và bị gạt ra ngoài rìa sự phát triển. Để thích ứng với thị trường, hộ nông dân buộc
phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên cơ sở thường xuyên cải
tiến kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời phải thâm canh, đa dạng
hóa sản xuất để tránh những rủi ro của thị trường đưa lại, đặc biệt trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong nước và nước ta với nước
ngoài như hiện nay.
Những thách thức đó đã đặt ra yêu cầu đối với những người lao động riêng lẻ nói
chung và hộ nông dân nói riêng phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển.
Sản xuất hàng hóa càng phát triển bao nhiêu thì nhu cầu hợp tác càng lớn bấy nhiêu. Sự
hợp tác mang lại cho kinh tế hộ nông dân thêm vốn, nhân lực, kinh nghiệm sản xuất, từ
đó tạo ra thuận lợi để áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động,
mở rộng thị trường… bởi lẽ đó là hình thức hiệu quả để chống lại sự chèn ép mua rẻ bán
đắt của tư thương, chống tình cảnh cho vay nặng lãi của những người kinh doanh tiền tệ,
chống tình trạng mua bán lúa non và các hình thức bóc lột khác.
Trong bối cảnh đó HTXNN đã trở thành một trong những hình thức hợp tác hiệu
quả giúp nông dân vượt qua thách thức của kinh tế thị trường. HTXNN là nhịp cầu đưa
kinh tế hộ nông dân từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn có sức cạnh tranh. HTXNN là sự bổ
sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của kinh tế hộ nông dân.
+ Phát triển hợp tác xã nông nghiệp tạo thuận lợi đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển HTXNN tạo nên sự phân công lao động và tổ chức lao động mới, đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, đồng thời
HTXNN trên cơ sở tích lũy vốn đủ sức hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây


dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng và có điều kiện để ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ vào sản xuất, đặc biệt ứng dụng cơ giới hóa, thủy lợi hóa, công
nghệ sinh học, điện khí hóa, thị trường hóa, tạo điều kiện để tăng quy mô sản xuất hàng
hóa lớn thích ứng với nhu cầu thị trường, hạn chế và khắc phục dần tình trạng sản xuất

nhỏ, phân tán ở nước ta hiện nay.
+ Phát triển hợp tác xã nông nghiệp tạo điều kiện để xây dựng nông thôn mới.
Kinh tế tập thể là hình thức tổ chức kinh tế mang tính xã hội hóa cao hơn kinh tế
cá thể hộ gia đình, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, giáo dục ý thức tập thể và đoàn kết cộng đồng [6].
Ngoài mục tiêu kinh tế, HTX nông nghiệp còn thực hiện các mục tiêu xã hội quan
trọng. Hợp tác xã góp phần xây dựng tình đoàn kết xóm làng, tinh thần tương thân tương
ái, xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, bảo vệ
an ninh trật tự xã hội, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Hồ
Chí Minh nói: "Hợp tác xã phát triển là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nhân
dân được ấm no, mạnh khoẻ được học tập,làm cho dân giàu nước mạnh". Người còn căn
dặn:"Mỗi HTX phải như một gia đình, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau"[2, tr.67]. HTX
là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ
của Nhà nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thực hiện liên
minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng trong tiến trình đi lên xây dựng CNXH.
+ Hợp tác xã là kiểu làm kinh tế phổ biến của nhiều nước trên thế giới.
Lâu nay khi nói đến vấn đề kinh tế HTX người ta lầm tưởng rằng đây là loại hình
kinh tế riêng có của CNXH. Nước nào đi lên CNXH thì phải phát triển kinh tế HTX. Do
đó, Việt Nam là nước phát triển theo định hướng XHCN nên phát triển theo loại hình
này.
Thực tế đã chứng minh rằng, HTX đầu tiên trên thế giới đã ra đời vào năm 1761
tại Anh, rồi đến Đức vào năm 1846, ấn Độ 1889 và ở Thái Lan vào năm 1915. Mặc dù
HTX ra đời trước CNXH hiện thực, nhưng được coi là một loại hình kinh tế của CNXH
và được áp dụng ở Việt Nam nó là một trong những hình thức phù hợp để thực hiện xã
hội hoá đối với sản xuất nhỏ nói chung và sản xuất nhỏ trong nông nghiệp, nông thôn nói
riêng.


Thực tiễn cho thấy kinh tế HTX trên thế giới đã ra đời và tồn tại gần 200 năm,
lúc mới hình thành HTX thường chỉ là những người nghèo ít vốn, sản xuất nhỏ, một mình

kinh doanh khó khăn, giá cả cao, khả năng cạnh tranh thấp, họ muốn hợp tác lại với nhau
để tăng khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường... Nhưng về sau HTX phát triển lên
trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh. Theo báo cáo của Liên minh HTX quốc tế (ICA)
hiện nay trên thế giới đã có 95 nước có phong trào HTX, HTX có ở tất cả các châu lục và
đã có 95 nước là thanh viên của ICA.
Như vậy, sự hợp tác của những người sản xuất nhỏ, những người làm ăn riêng lẻ
để phát triển lực lượng sản xuất, phục vụ lợi ích cộng đồng, tăng sức cạnh tranh, chống
lại sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế thị trường là một quy luật phổ
biến của tất cả các nước trên thế giới.
Do vậy, V.I.Lênin thường nhắc nhở chúng ta phải kế thừa HTX trong chủ nghĩa tư
bản để xây dựng CNXH. Khi bàn về phát triển HTX trong thời kỳ quá độ lên CNXH. V.I.
Lênin nhấn mạnh: "Nếu không học tập, sử dụng được kỹ thuật, văn hóa và bộ máy do nền
văn hóa tư sản, nền văn hóa TBCN tạo ra thì sẽ không thể thực hiện được CNXH. Trong
các bộ máy đó có HTX, trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa trong nước càng cao bao
nhiêu thì HTX càng phát triển bấy nhiêu", "HTX là một di sản văn hóa to lớn mà chúng
ta phải coi trọng và sử dụng" [21].
Nhưng trong CNTB, HTX thường hướng vào lợi ích của tiểu nông, tiểu thương và
tiểu chủ nhằm chia lợi nhuận với giai cấp tư sản, không quan tâm đến quần chúng lao
động đông đảo. Các HTX này chỉ gồm những tầng lớp có tiền để góp cổ phần, không
tạo điều kiện cho người nghèo tham gia, chúng ta kế thừa và từng bước chuyển các
HTX tư sản đó thành HTX của nhân dân lao động rộng rãi trong cả nước. V.I.Lênin
khẳng định: "Chế độ kinh tế hợp tác là bước quá độ để đưa kinh tế tiểu nông đi lên
CNXH là con đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Là
con đường phát triển đến "Chế độ của những xã viên HTX văn minh “ thì mới "là chế độ
XHCN" [28].
Tóm lại: Phát triển kinh tế hợp tác và HTX không phải chỉ để giúp những người sản
xuất nhỏ có đủ sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của doanh nghiệp lớn mà về lâu dài cùng
với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế hợp tác
và HTX không chỉ vì mục đích kinh tế, mà còn có mục đích xã hội là tạo việc làm, tăng thu



nhập, xoá đói giảm nghèo, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, góp phần xây dựng
nông thôn mới theo định hướng XHCN... Vì lẽ đó, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, phát
triển kinh tế tập thể dưới hình thái HTX trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và về
lâu dài là một nhu cầu tất yếu khách quan. Tuy nhiên, làm cho HTX nói chung và HTXNN
nói riêng phát huy được những vai trò to lớn của mình đã và đang là thách thức lớn cần được
nghiên cứu giải quyết.
1.2. Thực trạng hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Quảng Trị
1.2.1. Quá trình hình thành và chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp
Do điều kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên tỉnh Quảng Trị
bị chia cắt hai miền Bắc - Nam. Cùng với đó, phong trào hợp tác hóa ở tỉnh cũng có
những đặc thù riêng. ở huyện Vĩnh Linh (phía Bắc vĩ tuyến 17) phong trào hợp tác hóa có
trên 40 năm xây dựng, củng cố và phát triển. Nhưng các huyện ở phía Nam (Gio Linh,
Cam Lộ, Đông Hà, Hướng Hoá, Đa Krông, Triệu Phong, Hải Lăng) thì chỉ mới hình
thành và phát triển phong trào hợp tác hóa sau ngày thống nhất đất nước.
Mặc dầu phong trào hợp tác hóa tỉnh Quảng Trị được xây dựng vào những thời
điểm khác nhau nhưng đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, phương thức hoạt động của HTX trong cơ chế tập trung bao
cấp kéo dài nhiều năm đã bộc lộ tính kém hiệu quả. Tại không ít địa phương, sự tồn tại
của hợp tác xã chỉ là hình thức. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do chậm đổi mới
cơ chế quản lý, sự lúng túng trong điều hành sản xuất kinh doanh của HTX khi chuyển
sang kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập
thể, Thường vụ Tỉnh uỷ đã cụ thể hóa bằng kế hoạch 43/KH-TV về tổ chức quán triệt,
học tập và triển khai thực hiện Chỉ thị 68/CT-TW, Luật HTX và các văn bản hướng dẫn
thực hiện chuyển đổi HTX cũ sang HTX mới hoạt động theo Luật. Trên cơ sở đó, các
huyện đã thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi HTX. Quá trình chuyển đổi HTXNN kiểu cũ
thành HTX kiểu mới theo Luật HTX 1996 được thực hiện chủ yếu bằng cách giữ nguyên
HTXNN cũ nhưng đổi mới phương thức tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật. Quá
trình này được tiến hành với các nội dung: kiểm kê đánh giá lại tài sản của HTX cũ, làm

rõ các khoản nợ phải thu, phải trả; tiến hành chuyển giao cho chính quyền quản lý những
cơ sở vật chất mang tính cộng đồng như nhà trẻ, mẫu giáo, đài truyền thanh... Làm rõ tiêu


chuẩn xã viên và đăng ký lại danh sách xã viên; xác định quỹ được kế thừa từ HTX cũ
thành vốn góp của xã viên trong HTX kiểu mới; xây dựng Điều lệ HTX, tổ chức lại bộ
máy, củng cố các tổ chức dịch vụ của HTX, đăng ký hoạt động kinh doanh theo Luật.
Cách làm kể trên đã huy động được hầu hết xã viên cũ cùng tham gia HTX kiểu mới,
tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở nông thôn được giữ vững ổn định. Đến tháng 12 năm
2000 về cơ bản tỉnh Quảng Trị đã hoàn tất việc chuyển đổi HTX nông nghiệp kiểu cũ sang
HTX nông nghiệp kiểu mới. Tuy nhiên, về thực chất, sự chuyển đổi chủ yếu vẫn mang nặng
tính hình thức, các HTX kiểu mới chỉ khác cũ về tên gọi, bộ máy quản lý và nội dung hoạt
động được đổi mới không đáng kể, vì vậy chưa thực sự đem lại lợi ích thiết thực đối với hộ
nông dân.
1.2.2. Khái quát chung về thực trạng hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Quảng Trị
sau 8 năm thực hiện Luật Hợp tác xã (1997-2005)
+ Về số lượng: Qua điều tra khảo sát, đến năm 2005 toàn tỉnh có 282 HTXNN
gồm 263 HTXNN chuyển đổi (chiếm 93,2%), 6 HTXNN chưa chuyển đổi và 13 HTXNN
thành lập mới hoàn toàn hoặc chuyển đổi từ tổ hợp tác [28]. Theo đánh giá của Phòng
nông nghiệp và PTNT huyện Gio Linh, 6 HTX chưa chuyển đổi chỉ tồn tại trên hình
thức, đảm nhận một vài khâu dịch vụ bắt buộc, không có vốn để hoạt động, hiệu quả
thấp, chủ yếu kiêm luôn công việc quản lý của chính quyền trên địa bàn. Những HTX
mới thành lập đã thể hiện được nguyên tắc tự nguyện của các hộ nông dân, gắn với lợi
ích thiết thân của hộ, có ý thức trong việc góp vốn, quản lý và sử dụng hiệu quả. Tuy
nhiên loại hình này còn ít về số lượng, quy mô nhỏ (khoảng 10 hộ/1HTX), do đó vai trò
tác động của chúng tới đời sống SXKD trên địa bàn còn hạn chế.
+ Về loại hình Hợp tác xã:
Phân theo địa giới hành chính có 65 HTX quy mô thôn (chiếm 23,6%), 198 HTX
quy mô liên thôn (71,7%), 13 HTX quy mô toàn xã (4,7%) [28].
Phân theo hoạt động SXKD có 234 HTX đăng ký loại hình dịch vụ nông nghiệp

(chiếm 84,8%), 42 HTX đăng ký hoạt động SXKD - DV tổng hợp (15,2%) [28].
Phân theo tiêu chí có trụ sở làm việc: có 222 HTXNN có trụ sở làm việc (chiếm
84%), còn 54 HTX không có trụ sở độc lập, phải thuê mướn nhà dân hoặc các tổ chức
khác để hoạt động [28].


Phân theo ngành nghề chủ yếu: có 174 HTX trồng trọt, 48 HTX trồng rừng, 17
HTX chăn nuôi, 14 HTX nuôi trồng thuỷ sản, và còn lại là các HTX ngành khác.
+ Về số lượng xã viên, quy mô đất đai và lao động của hợp tác xã: Tổng số xã
viên tham gia HTX nông nghiệp toàn tỉnh là 115.088 người, trong đó xã viên là cá nhân
người lao động chiếm 70,8%, xã viên là đại diện hộ gia đình chiếm 29,2%. Bình quân 1
HTX có 417 xã viên [28]; quản lý và sử dụng, 69 ha đất nông nghiệp, trong đó diện tích
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 19,7 ha chiếm 28,5%; lao động
thường xuyên (bao gồm: cán bộ quản lý, đội trưởng, các tổ dịch vụ...) là 40 người.
+ Về quy mô vốn: Tổng số vốn của 276 HTXNN là 161 tỷ đồng, bình quân 1 HTX
có 584 triệu đồng. Trong đó vốn lưu động là 51 tỷ đồng (chiếm 31% tổng vốn), bình
quân 1 HTX là 184 triệu đồng (bao gồm tiền mặt, tiền gửi, nợ phải thu, hàng tồn kho và
các tài sản lưu động khác). Vốn lưu động là nguồn vốn có tính chất quyết định trực tiếp
đối với hoạt động SXKD của HTX. Tuy nhiên số vốn bị chiếm dụng (nợ phải thu) trong
nguồn vốn này còn lớn (chiếm 59,3% so với tổng vốn lưu động. Bình quân loại HTX khá
- 344,7 triệu đồng/HTX, nợ phải thu chiếm 48,4%; loại trung bình 92,9 triệu đồng/HTX,
nợ phải thu 71,1%. Loại yếu kém 85,7 triệu đồng/HTX nợ phải thu chiếm 62,3%).
Tổng giá trị tài sản cố định của các HTX hiện nay là 110 tỷ đồng (chiếm 68,4%
tổng vốn), bình quân 1 HTX 400 triệu đồng. Trong đó bình quân HTX loại khá 808,3
triệu đồng, loại trung bình 430,2 triệu đồng, loại yếu kém 339,2 triệu đồng. Tuy nhiên,
toàn bộ tài sản cố định của HTX hiện nay chủ yếu đang tồn tại dưới hình thức có tính
chất quản lý như trụ sở làm việc và các tài sản có tính chất công cộng như: cầu cống,
đường, kênh mương, trạm bơm... Khả năng sinh lợi rất hạn chế và không thể dùng được
vào mục đích thuế chấp, cầm cố khi vay vốn.
+ Về loại hình hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp: Các hoạt động

dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ ngày càng phong phú đa dạng, đến nay đã có 276 HTXNN đã
đảm nhận trên 19 khâu dịch vụ các loại như tưới tiêu và thuỷ lợi nội đồng, bảo vệ thực
vật, thú y, cung ứng vật tư và phân bón, khuyến nông và khoa học công nghệ, điện, làm
đất, tín dụng nội bộ, tiêu thụ sản phẩm, chế biến sản phẩm, cung cấp giống và các loại
hình dịch vụ khác.
Các HTXNN hiện nay chủ yếu tập trung vào các dịch vụ cung ứng đầu vào cho
hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình: 93% HTX cung cấp dịch vụ tưới tiêu và


thuỷ lợi nội đồng; 89.5% HTX cung cấp dịch vụ bảo vệ thực vật; 68% - dịch vụ thú
y; 65.2% cung ứng vật tư và phân bón; 64.9% - khuyến nông và khoa học công nghệ;
59.4% - cung cấp điện...(Phụ lục 3). Các dịch vụ đầu ra cho sản xuất còn rất hạn chế: chỉ
có 2.2% số HTX đang cung cấp dịch vụ chế biến nông, lâm, thủy sản; 9.4% - cung cấp
dịch vụ tiêu thụ sản phẩm... (Phụ lục 3). Điều này ảnh hưởng lớn đến thu nhập và hiệu
quả hoạt động của HTX.
Mức độ dịch vụ của các loại hình HTX cũng có sự chênh lệch khá rõ: những HTX
thuộc loại trung bình và yếu thường ít thực hiện các dịch vụ như: điện, cung ứng vật tư,
tiêu thụ, chế biến nông sản và tín dụng nội bộ..., trong khi chúng là các dịch vụ mang lại
lợi nhuận chủ yếu cho HTX, nên doanh thu và lợi nhuận thu được của hầu hết các HTX
không cao.
+ Về trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ của các chức danh trong hợp
tác xã: Qua điều tra khảo sát đội ngũ cán bộ HTX (Phụ lục 5) cho thấy, trình độ học vấn
và chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ HTX nhìn chung còn yếu, tuổi đời khá cao trên 45
tuổi chiếm 80% số lượmg cán bộ HTX, hầu hết chưa qua đào tạo nghiệp vụ quản lý HTX
mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn. Đây là một trong những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến hoạt động SXKD của HTX. Những HTX có cán bộ với trình độ học vấn,
chuyên môn nghiệp vụ cao thường là những HTX được xếp vào loại khá, doanh thu và
lợi nhuận cao hơn hẵn với những HTX trung bình và yếu kém. Do đó, đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ cho cán bộ HTX là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
+ Về phụ cấp cho cán bộ chủ chốt của hợp tác xã: Bình quân toàn tỉnh phụ cấp

chủ nhiệm HTX là 259.800 đồng/tháng/người, phó chủ nhiệm - 238.600
đồng/tháng/người, kế toán trưởng - 218.400 đồng/tháng/người, trưởng ban kiểm soát 177.300 đồng/tháng/người.
Huyện Hải Lăng là huyện có mức phụ cấp cho cán bộ HTX cao nhất (trên 300.000
đồng/người/tháng) huyện Gio Linh và Thị xã Quảng Trị là 2 địa phương có mức phụ cấp
cho cán bộ HTX thấp nhất (gần 200.000 đ/tháng/người) đối với chủ nhiệm. Nếu so sánh
phụ cấp của cán bộ HTX với các đơn vị kinh tế khác, đặc biệt với cán bộ chính quyền cơ
sở (xã, phường) thì quá thấp, không đảm bảo mức sống tối thiểu bản thân họ, ngoài ra
cán bộ HTX không có một khoản ưu đãi nào khác. Do đó, nhiều cán bộ HTX muốn
chuyển sang làm công tác khác để có thu nhập cao hơn.


+ Về kết quả sản xuất kinh doanh:
Doanh thu bình quân 1 HTX là 290 triệu đồng, doanh thu bình quân HTX loại khá
là 528,1 triệu đồng, loại trung bình 216,1 triệu đồng (bằng 41% loại khá) loại yếu 115,5
triệu đồng (bằng 22% loại khá).
Về hiệu quả kinh doanh: Có 253 HTX sản xuất kinh doanh có lãi chiếm 91,67%
tổng số HTX, lãi bình quân 1 HTX là 30,57 triệu đồng phân ra loại khá 65,45 triệu đồng,
loại trung bình 21,67 triệu đồng, loại yếu 14,49 triệu đồng. Trong đó số HTX có lãi trên
50 triệu đồng là 48 HTX chiếm 17,3% số HTX trong toàn tỉnh [28].
Căn cứ theo tiêu chí phân loại HTX của Ban kinh tế Trung ương (2001) và tình
hình thực tiễn của tỉnh, kết quả phân loại các HTXNN của Quảng Trị như sau:
Đạt loại khá có 85 HTX (chiếm 30,8%). Đó là những HTX có vốn lưu động từ 200
triệu trở lên, đảm bảo tổ chức các khâu dịch vụ có hiệu quả và đạt kế hoạch trên 65%.
Tổng doanh thu từ 500 triệu trở lên, không có nợ nần dây dưa, lãi hằng năm bình quân là
30 triệu - 80 triệu đồng/năm, lương bình quân của chủ nhiệm trên 500.000/tháng. Huyện
có tỷ lệ khá cao nhất là huyện Hải Lăng (47,3%) tiếp đến là Vĩnh Linh (38,2%), huyện có
tỷ lệ HTX khá thấp nhất là huyện Gio Linh (15,8%)
Loại trung bình có 137 HTX (49,6%). Đó là những HTX có vốn lưu động từ 100 200 triệu đồng, doanh thu 300 - 500 triệu đồng, đảm bảo 40 - 65% khâu dịch vụ, lãi bình
quân 20 - 30 triệu đồng, lương của chủ nhiệm là 300.000/tháng;
HTX loại yếu kém có 54 HTX (19,6%). Các huyện có tỷ lệ HTX yếu kém thấp

nhất là Vĩnh Linh, Thị xã Đông Hà; cao nhất là Gio Linh [28].
1.2.3. Một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp tiêu biểu sau 8 năm thực hiện
Luật hợp tác xã tỉnh Quảng Trị (1997 - 2005)
1.2.3.1. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp chuyển đổi
Trong quá trình chuyển đổi các HTXNN kiểu cũ sang kiểu mới, một số HTX hoạt
động có hiệu quả, trở thành những tấm gương tiêu biểu cho phong trào phát triển kinh tế tập
thể trong nông nghiệp tỉnh Quảng Trị. Đó là những HTX:
Thứ nhất, Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Long Hưng (xã Hải
Phú, huyện Hải Lăng, Quảng Trị)
Được thành lập từ tháng1 năm 1978, HTX Long Hưng được đánh giá là ngọn cờ
đầu của phong trào HTX tỉnh Bình Trị Thiên trước chuyển đổi. Hiện nay HTX có 520 hộ,


2400 nhân khẩu, 710 lao động và 920 xã viên. Nguồn vốn của HTX: 3.091 triệu đồng.
HTX đã đảm nhận, điều hành 9 khâu dịch vụ cho kinh tế hộ. Ngoài ra, HTX còn làm dịch vụ
thủy sản, cho thuê cơ sở sản xuất.
Từ khi chuyển đổi tới nay, điểm nổi bật của HTX Long Hưng là thực hiện nhiều
chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
tạo nhiều nông phẩm hàng hóa có chất lượng cao, tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích.
HTX đã liên kết, hợp đồng với công ty giống cây trồng Quảng Trị để sản xuất giống lúa
chất lượng cao cho Công ty và xã viên trên 14 ha. Ngành nuôi cá nước ngọt là nguồn thu
chủ lực của HTX và hộ gia đình nên Ban quản trị quan tâm đầu tư. Sản lượng cá hàng
năm đạt 60 tấn. HTX đã đầu tư một hệ thống bể cá đẻ các loại để cung cấp nguồn giống
cho địa bàn trong tỉnh và các tỉnh bạn như Quảng Bình, Thừa Thiên Huế. Hiện nay các
mô hình nuôi cá đều đạt 70 - 80 triệu đồng/năm, HTX đã đầu tư, xây dựng nhiều ngành
nghề mà trước đây HTX sản xuất tập trung thì hiện nay đã chuyển sang hình thức khoán,
đấu thầu, cho thuê để phát triển kinh tế. Ngoài ra HTX đang quản lý 3 xưởng cưa xẻ gỗ, 1
xưởng sản xuất lốp xe các loại, 1 xưởng sản xuất bún miến, 1 xưởng sản xuất nước mắm,
1 cây xăng, 2 cửa hàng vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng.
Hiện nay, HTX đang phát huy có hiệu quả sử dụng các nguồn vốn, lợi nhuận thu

được năm sau luôn luôn cao hơn năm trước. Doanh thu hàng năm đạt 1,3 tỷ đồng, lợi
nhuận bình quân đạt 130 triệu đồng, riêng năm 2005 đạt 622 triệu đồng do lãi từ bán
rừng. Lương của chủ nhiệm đạt 700.000-800.000 đồng/tháng/người [14]. Nhờ đó, HTX
đã có điều kiện tích luỹ phát triển sản xuất và đầu tư xây dựng nâng cấp hệ thống kết cấu
hạ tầng như đường giao thông nông thôn, bê tông hóa kênh mương, điện, nước sạch.
Hoạt động có hiệu quả của HTX đã tạo ra điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế hộ, HTX thực sự trở thành chỗ dựa ngày càng vững chắc cho kinh tế hộ.
Đến nay trong số các hộ xã viên có 30% hộ giàu với mức thu nhập trên 50 triệu
đồng/năm, 55% hộ khá với thu nhập từ 15 - 50 triệu đồng/năm, 15% hộ trung bình, nghèo
thu nhập dưới 15 triệu đồng/năm.
Thứ hai, Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Câu Nhi (Hải Tân,
huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị).


Được thành lập vào năm 1984, sau chuyển đổi theo Luật năm 1997 HTX
SXKDDV tổng hợp Câu Nhi có tổng số 454hộ, 2.150 nhân khẩu, 1.020 xã viên, 850l ao
động. Tổng số vốn HTX là 1.500 triệu đồng, trong đó, vốn góp của xã viên 471 triệu.
HTX đã làm tốt 11 khâu dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ, với giá rẻ hơn thị trường,
được xã viên đồng tình ủng hộ. Điểm nổi bật của mô hình HTX Câu Nhi từ năm 1997
đến nay là HTX đã liên doanh hợp đồng với trung tâm giống cây trồng vật nuôi của tỉnh,
mỗi năm sản xuất từ 80 - 120 tấn giống lúa chất lượng cao cung cấp cho toàn tỉnh và tỉnh
bạn. Việc sản xuất giống lúa của HTX là mô hình về kết hợp SX-DV. Trong đó, hộ xã
viên đảm nhận vịêc sản xuất trực tiếp, còn HTX đảm nhận vốn, cung ứng vật tư, ứng
dụng KHKT, thu mua, tiêu thụ sản phẩm. Quá trình đầu vào - sản xuất- tiêu thụ giống lúa
được khép kín ổn định, hộ nông dân yên tâm sản xuất. Doanh thu hàng năm đạt 1,7 triệu
đồng trừ chi phí lợi nhuận trên 90 triệu đồng. Lương chủ nhiệm 500.000 đ/tháng [9].
Điểm nổi bật thứ 2 của HTX Câu Nhi là quan tâm coi trọng đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội, như hệ thống truyền thanh, xây dựng trạm biến áp 250kw, bê
tông hoá kênh mương, đường giao thông nông thôn. Nguồn vốn chủ yếu nhà nước hỗ trợ
50% còn 50% là xã viên và HTX đóng góp. Mặt khác, hàng năm HTX còn quan tâm hỗ

trợ một phần kinh phí cho các đoàn thể hoạt động, giúp đỡ các hộ gia đình khó khăn, ốm
đau, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo.
Tuy nguồn vốn kinh doanh của HTX còn khiêm tốn, song những năm qua hoạt
động SXKD của HTX đạt nhiều hiệu quả khá tốt, được Liên minh HTX tỉnh Quảng Trị
chọn làm thí điểm để xây dựng mô hình HTX mẫu trong toàn tỉnh.
Thứ ba, Hợp tác xã sản xuất kinh doanh dịch vụ tổng hợp Đại An Khê (xã Hải
Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị).
HTX Đại An Khê là HTX liên thôn được thành lập từ năm 1978, chuyển đổi theo
luật HTX năm 1997. Hiện nay HTX có 565 hộ, tổng số xã viên 1114, HTX Đại An Khê
là HTX điển hình nhiều năm liền của tỉnh Quảng Trị, được chọn xây dựng HTX điển
hình tiên tiến.
HTX có tổng nguồn vốn 2.094 triệu, trong đó vốn góp của xã viên 441 triệu. HTX
xác định mục tiêu phục vụ là chính, giúp cho hộ xã viên phát triển sản xuất, mở mang
ngành nghề dịch vụ, tạo việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, nâng sự đồng đều
trong nông thôn. Hiện nay HTX đã đảm nhận có hiệu quả 10 khâu dịch vụ cho kinh tế hộ,


trong đó 8 khâu dịch vụ có lãi. Hàng năm doanh thu 1.200 triệu đồng, trừ chi phí lãi
bình quân 150 triệu đồng [10].
Ngoài làm tốt các khâu dịch vụ cho kinh tế hộ, HTX Đại An Khê là một mô hình mẫu
về thực hiện tốt công tác chuyển đổi cây trồng vật nuôi và chính sách hỗ trợ khuyến khích phát
triển sản xuất, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển.
Về chuyển đổi cây trồng, HTX đã chuyển đổi 10 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp
sang trồng, nuôi những sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao hơn như chuyển đổi lúa sang
trồng sắn cao sản, cá giống, trồng ngô lai, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất, HTX đã chú trọng công
tác chuyển giao khoa học công nghệ, kết hợp với Trung tâm khuyến nông - lâm - ngư
nghiệp tổ chức thường xuyên nhiều lớp tập huấn cho xã viên. Chỉ trong năm 2005 HTX
đã tổ chức 1 lớp IPM, 1 lớp sản xuất chế biến giống; tổ chức hội nghị chuyên đề xác định
bộ giống và chuyển đổi cây trồng vật nuôi.

Trong những năm qua HTX đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ khuyến khích
phát triển sản xuất có hiệu quả, được xã viên, hộ gia đình đồng tình ủng hộ, như hỗ trợ:
Trồng ngô vụ hè thu 1 ha = 600.000đ; trồng ngô vụ thu đông 1 ha = 300.000đ; nuôi bò
nhốt 1 chuồng = 200.000 đ; nuôi ếch thương phẩm, ếch sinh sản 1 mô hình = 300.000đ;
nuôi ếch lồng kết hợp nuôi cá rô phi đơn tính 1 mô hình = 300.000đ; nuôi lợn siêu nạc
kết hợp nuôi cá = 300.000đ; nuôi bò tự nguyện chuyển chuồng trại ra khỏi khu dân cư 1
chuồng = 200.000đ. Tất cả các mô hình trên thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, được hội
đồng HTX nghiệm thu mới được hưởng chính sách hỗ trợ.
HTX đã thực hiện có hiệu quả vịêc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi để giúp xã viên
phát triển sản xuất. Qũy tín dụng nội bộ được chia thành 2 loại: Loại cho mượn không
tính lãi để mua sắm nông cụ, loại cho vay với lãi suất thấp để chuyển đổi mô hình sản
xuất có hiệu quả cao hơn. Điều đáng ghi nhận cán bộ HTX tinh gọn, có trình độ, năng
động nhiệt tình với phong trào HTX. Lương chủ nhiệm 700.000đ/tháng các chức danh
khác hưởng theo tỷ lệ.
Mô hình HTX Đại An Khê là hình mẫu thực sự “bà đỡ” tạo điều kiện cho kinh tế
hộ phát triển. Đến nay đời sống hộ xã viên được cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng được
nâng cấp. Toàn HTX có 90% hộ có nhà xây kiên cố, 98% hộ có phương tiện nghe nhìn,
đi lại, 30% hộ có máy điện thoại cố định, phong trào TDTT, văn nghệ, hoạt động của các


×