Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH tác ĐỘNG TIÊU cực của mặt TRÁI KINH tế THỊ TRƯỜNG đến xây DỰNG KHỐI LIÊN MINH CÔNG NÔNG TRÍ ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169 KB, 21 trang )

1

TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA MẶT TRÁI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG KHỐI LIÊN MINH CÔNG -NÔNG - TRÍ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.

Lý luận về liên minh giai cấp là một trong những nội dung cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng
đúng đắn, sáng tạo vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đã góp phần to lớn
tạo nên thắng lợi hoàn toàn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
những thành quả rất quan trọng trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức là hình thức hợp tác đặc biệt giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức trong cuộc đấu tranh nhằm đánh đổ chủ nghĩa tư
bản, xoá bỏ mọi áp bức bóc lột, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Liên minh giai cấp là nhằm xây dựng một cơ cấu xã hội - giai
cấp phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo ra động lực cách
mạng to lớn để đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đến thắng lợi cuối
cùng, đồng thời tạo điều kiện để các giai cấp, tầng lớp xã hội ngày càng xích
lại gần nhau, từng bước khắc phục sự khác biệt, đi đến xoá bỏ giai cấp, xây
dựng xã hội không còn giai cấp. Đi lên chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu lý
tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, vừa là khát vọng
ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta đi lên chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện còn nhiều khó khăn; nền kinh tế kém phát triển,
lực lượng sản xuất còn lạc hậu, nền sản xuất qui mô nhỏ là chủ yếu, lao động
thủ công còn khá phổ biến; nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh
tế quốc dân; kinh tế hàng hóa còn sơ khai, kinh tế tư bản tuy đã có nhưng
chưa phát triển; cơ sở hạ tầng của nền kinh tế vốn đã lạc hậu lại còn bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Do vậy, phải tiến hành phát triển kinh tế hàng hóa



2

nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một tất yếu, nhằm tạo ra cơ sở vật chất, tiền đề cho xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã thu được nhiều thắng lợi: “Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa xã hội không
ngừng tiến bộ; thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc
lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”1. Điều đó khẳng định tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về
mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Song, bên cạnh đó mặt trái của cơ chế thị
trường củng tác động ảnh hưởng không nhỏ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng khối liên minh giai cấp giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, ảnh hưởng đến
việc xây dựng củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu tác động của mặt trái kinh tế
thị trường đối với khối Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức là một vấn đề tương đối rộng, phạm vi của bài thu hoạch này
chỉ xin đề cập đến tác động ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đối với
cơ cấu xã hội - giai cấp, phân tầng giai cấp, và sự phân hoá giàu nghèo của
khối Liên minh công - nông - trí, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ
bản để không ngừng xây dựng củng cố tăng cường khối liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ lên chủ
1


ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.152.


3

nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu, kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến; đất nước lại trải qua
hàng chục năm chiến tranh ác liệt tàn phá, rồi thiên tai bão lụt liên miên. Vì
vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
chuyển biến về chất trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp khó khăn, phức
tạp và lâu dài. Trong suốt một thời gian dài chúng ta duy trì kinh tế tập trung,
kế hoạch hóa, bao cấp. Mô hình này đã thu được kết quả hết sức quan trọng,
đặc biệt là trong thời kỳ đất nước có chiến tranh. Sau khi thống nhất đất nước,
mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế mà nguyên nhân sâu xa là bệnh giáo điều,
chủ quan, duy ý chí, đơn giản, nóng vội không tôn trọng khách quan, không
phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Trên cơ sở đổi mới tư duy, đổi mới nhận
thức, Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội đã đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại
khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, triệt để xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hoạch toán kinh doanh. Phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức kinh doanh, coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo việc phát huy nhân tố con
người. Qua quá trình tìm tòi và thử nghiệm, đại hội IX của Đảng đã khẳng
định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối
chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội X tiếp tục khẳng định: “Để di lên chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn
hoá đậm đà bản sắc dân tộc …xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực

hiện đại đoàn kết dân tộc”2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có
2

ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,.2006, tr 87.


4

nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể là nền tảng
vững chắc, là đòn bẩy cho điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Đại hội X của Đảng xác định có năm thành phần kinh tế cùng tồn tại, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Như
vậy, đối với nền kinh tế có cơ cấu đa dạng, phong phú sẽ có cơ cấu xã hội –
giai cấp đa dạng phức tạp, luôn vận động và biến đổi cùng sự vận động và
biến đổi của cơ cấu kinh tế. Sự đa dạng của cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời
kỳ quá độ diễn ra hai xu hướng chủ đạo, đó là: xu hướng xích lại gần nhau và
xu hướng phân tầng, phân hóa giữa các giai tầng trong xã hội. Có thể nói
rằng: xu hướng xích lại gần nhau, đó là xu hướng được quy định bởi những
điều kiện khách quan mà trực tiếp là điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng đồng
thời nó bị ảnh hưởng bởi ý muốn chủ quan của Đảng cầm quyền trong việc
xây dựng khối liên minh giai cấp giữa các giai tầng trong xã hội; còn xu
hướng phân tầng, phân hóa là sự vận động tự phát chịu sự chi phối của nền
kinh tế. Như vậy, một trong những vấn đề nảy sinh của mặt trái nền kinh tế
thị trường là xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức đang có chiều hướng gia
tăng trong thực tế. Xu thế đó đang diễn ra với một diện rộng trên phạm vi cả
nước, giữa các vùng, miền dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa các giai
cấp, giữa các tầng lớp. Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: “Kinh tế thị trường có
những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế

phân hóa giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà
chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm...Đi vào kinh tế thị trường, phải đấu tranh
khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực đó” 3. Đảng ta nhận
định thêm: “Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông
3

ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.64.


5

thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân dân,
nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào
dân tộc, còn quá khó khăn”4. Vì vậy, cần phải có giải pháp hạn chế những tác
động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo,
cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, còn thực hiện nền kinh tế thị trường thì
sự chênh lệch về mức sống, và thu nhập là chuyện không thể tránh khỏi, đặc
biệt là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là sự phân hóa về thu
nhập về mức sống dẫn đến một bộ phận giàu lên nhanh chóng, trở thành tầng
lớp thượng lưu của xã hội và số đông dân cư nghèo đói, tất yếu sẽ phân hóa
xã hội thành hai cực đối lập. Sự phân hóa giàu nghèo làm tăng nhanh sự
chênh lệch quá mức về thu nhập và mức sống giữa các giai cấp, các tầng lớp,
các nhóm xã hội và ngay trong mỗi bản thân giai cấp, tầng lớp xã hội. Sự
phân hóa về thu nhập và mức sống sẽ dần dần kéo theo sự phân hóa về văn
hóa, lối sống, từ đó làm nảy sinh các mâu thuẫn trong xã hội, làm ảnh hưởng
đến khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, ảnh hướng đến việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trước sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự phân tầng, phân hóa
không chỉ diễn ra ở tất cả các giai tầng trong xã hội, mà ngay trong một giai

cấp cũng diễn ra sự phân hóa sâu sắc. Trước hết, xét trong nội bộ giai cấp
công nhân, giai đoạn hiện nay giai cấp công nhân có một cơ cấu đa dạng phức
tạp: có công nhân khu vực quốc doanh, công nhân khu vực tập thể, công nhân
làm thuê cho tư nhân, công nhân khu vực liên doanh, và công nhân trong các
khu vực kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Xét về cơ cấu nghề nghiệp, có
công nhân công nghiệp, công nhân nông nghiệp, công nhân lâm nghiệp, dịch
vụ… Xét về trình độ nghề nghiệp, bên cạnh công nhân có trình độ văn hoá,
4

ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.65.


6

tay nghề cao, còn đa số công nhân tay nghề chưa đáp ứng được với sự phát
triển của khoa học công nghệ hiện đại. Đời sống của công nhân cũng có nhiều
biến đổi phức tạp; có một bộ phận công nhân do có sở hữu công nghiệp (mua
cổ phần của xí nghiệp đã cổ phần hóa) và đặc biệt do công nghệ thông tin
phát triển, nền kinh tế tri thức bắt đầu hình thành cho ra đời một số công nhân
tri thức, có sở hữu trí tuệ làm ra nhiều của cải. Họ có tư hữu, không những
không còn là vô sản, mà còn được hưởng một phần giá trị thặng dư do công
nhân sản xuất. Cùng với một bộ phận công nhân trên, còn có một bộ phận
trong giai cấp công nhân khác mở xưởng sản xuất, trở thành “ông chủ” có
công nhân làm thuê. Quan hệ mang tính đẳng cấp sẽ xuất hiện trong một bộ
phận giai cấp công nhân, làm cho sự phân hóa, tính không đồng nhất trong
đội ngũ này ngày càng gia tăng. Ngoài ra, sự đa dạng, không thuần nhất của
giai cấp công nhân còn xét đến quy mô tổ chức sản xuất và trình độ sản xuất
của các cơ sở sản xuất công nghiệp. Có cơ sở sản xuất với hàng ngàn công
nhân, nhưng cũng có cơ sở sản xuất chỉ có vài chục, vài trăm công nhân. Có
cơ sở sản xuất được đầu tư trang bị máy móc, thiết bị tự động hóa cao, nhưng

cũng không ít cơ sở sản xuất theo phương pháp thủ công, với máy móc trang
bị lạc hậu. Về thành phần kinh tế, có cơ sở sản xuất công nghiệp khu vực
quốc doanh, có cơ sở thuộc tư nhân, tư bản nước ngoài (ngoài quốc doanh).
Như vậy, người công nhân ở các lĩnh vực khác nhau, thành phần kinh tế khác
nhau, trình độ và quy mô khác nhau sẽ có sự chênh lệch về mức độ hưởng thụ
đời sống vật chất, tinh thần cũng như lập trường tư tưởng, ý thức giai cấp
khác nhau. Bên cạnh đó về phương diện xã hội họ cũng có sự tác động của
tính chất nghề nghiệp, tính ổn định việc làm ở những mức độ khác nhau.
Công nhân ở các cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh sẽ chịu sự bóc lột lớn hơn,
tính chất nghề nghiệp không ổn định hơn công nhân trong các doanh nghiệp
nhà nước. Điều đặc biệt quan tâm nữa là trước sự cạnh tranh của kinh tế thị


7

trường, người công nhân có thể bị “tha hóa” bởi những mặt trái của nó về đạo
đức, phẩm chất, nhân cách, lối sống. Thực tế cho thấy, trước sự cạnh tranh
của cơ chế thị trường, có xí nghiệp doanh thu lớn, cũng có không ít xí nghiệp
bị phá sản, đóng cửa, dẫn đến xảy ra vấn đề thất nghiệp, công nhân không có
công ăn việc làm, tha hóa về phẩm chất giai cấp, đạo đức, lối sống. Tất cả
những điều trên, làm cho nội bộ giai cấp công nhân biến đổi sâu sắc về mọi
mặt. Một bộ phận giai cấp công nhân giàu lên nhanh chóng, đồng thời số
đông giai cấp công nhân chỉ đủ duy trì cuộc sống, một bộ phận không bảo
đảm cho cuộc sống tối thiểu. Như vậy, để giai cấp công nhân giữ vững vai trò
tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
hạt nhân vững chắc của khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức, nền
tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa và của khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải
có giải pháp giải quyết thích ứng.
Đối với giai cấp nông dân họ là lực lượng đông đảo trong dân cư, có vị
trí vai trò to lớn trong nền sản xuất xã hội nói chung. Hiện nay cơ cấu xã hội

nghề nghiệp của nông dân cũng rất đa dạng. Do tác động của nền kinh tế thị
trường, giai cấp nông dân không chỉ thuần nhất là sản xuất nông nghiệp, có bộ
phận nông dân trồng trọt, có bộ phận nông dân chăn nuôi là chính, có bộ phận
nông dân lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp …Trong quá trình đổi mới
cơ cấu nghề nghiệp của nông dân ngày càng đa dạng hơn. Xu hướng chuyển
sang nông nghiệp hoá tăng lên, hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất tự chủ,
bộ mặt nông thôn có sự thay đổi rõ rệt. Từ chổ phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn, đời sống của nông dân ngày càng được nâng cao, thêm vào đó là
sự tác động của cơ chế thị trường dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân
tầng giai cấp hết sức phức tạp. Thực tế cho thấy, quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay; tuy đã chú trong đến hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Song điều này chưa được thực thi trên thực tế, có chăng


8

cũng chỉ ở một số nơi, còn lại phần lớn là nông thôn, miền núi trình độ sản
xuất còn quá thấp kém. Quá trình sản xuất sử dụng sức người là chủ yếu, hiệu
quả sản xuất không cao, sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ thiếu thông tin
về đầu ra, do đường sá giao thông đi lại khó khăn, do chưa có nhà máy chế
biến... Do vậy, ngày công lao động của người nông dân rất thấp. Trong khi
đó, lĩnh vực công nghiệp vừa được trang bị máy móc, lại thuận lợi cho giao
thông dẫn đến hiệu quả lao động lớn hơn, sản phẩm làm ra kết tinh trí tuệ
nhiều hơn, giá thành cao hơn. Như vậy, sự trao đổi sản phẩm trong công
nghiệp và nông nghiệp bất lợi cho giai cấp nông dân, những bất đồng lợi ích
đó cần phải có giải pháp giải quyết thích đáng, làm điều kiện, cơ sở để xây
dựng khối liên minh công - nông - trí vững chắc.
Đối với đội ngũ trí thức, trong điều kiện khoa học và công nghệ phát
triển mạnh mẽ, sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức. Đội ngũ trí thức
được Đảng ta đặc biệt quan tâm. “Khuyến khích tự do, sáng tạo, phát minh

cống hiến. Phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đúng và đãi ngộ xứng đáng các tài
năng”5. Do vậy, đã phát huy được tính năng động sáng tạo của đội ngũ trí
thức trong phát minh, sáng chế, ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản
xuất. Song trên thực tế, về cơ cấu nghề nghiệp của đội ngũ trí thức cũng rất đa
dạng, phức tạp: có trí thức khoa học tự nhiên, trí thức khoa học xã hội, trí trí
thức văn nghệ sĩ, nhà báo, trí thức lãnh đạo quản lý, trí thức giáo dục đào tạo.
Đội ngũ trí thức được đào tạo bồi dưỡng từ nhiều nguồn khác nhau, có trí
thức đào tạo dưới chế độ củ, có trí thức được đào tạo trong chế độ mới. Cơ
cấu theo thành phần kinh tế, theo vùng lãnh thổ mất cân đối, cơ cấu độ tuổi
khá chênh lệch, điều đó tác động ảnh hưởng không nhỏ đến việc tăng cường
cũng cố khối Liên minh công - nông - trí vững chắc. Mặt khác trong điều kiện
nền kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, kiểu làm ăn chụp giựt của một số
5

Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr 126.


9

doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận, đã vi phạm bản quyền, sao chép mẫu mã
làm cho sở hữu trí tuệ không được bảo đảm gây mất đoàn kết giữa các nhà
doanh nghiệp với các nhà khoa học. Đây cũng là vấn đề đáng được quan tâm
của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết hài hòa lợi ích giữa các giai tầng
trong xã hội, nhằm đạt được sự thống nhất cao trong xây dựng khối liên minh
giai cấp.
Nói tóm lại, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Song nền kinh tế thị
trường nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế ở trình độ thấp
sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn, hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội xã hội

chủ nghĩa. Hơn nữa đây là nền kinh tế sơ khai, chưa có tiền lệ trong lịch sử,
ngoài những thành tựu to lớn đã đạt được, không tránh khỏi những khiếm khuyết
và những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình xây dựng khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tuy có khái
quát ở các khía cạnh khác nhau, song chung quy lại đều bắt nguồn từ sự phân
hóa giàu, nghèo quá mức trong xã hội, đây là ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình
xây dựng khối liên minh giai cấp, xét về thực chất đó là sự bất đồng về lợi ích
giữa các giai tầng trong xã hội, gây trở ngại lớn cho xây dựng tăng cường
cũng cố khối liên minh giai cấp ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện
nay.
Trên cơ sở thực tiễn đó, để củng cố tăng cường liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, cần tập trung giải quyết tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống chính trị thực sự dân chủ.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là thành quả cách mạng của toàn
thể nhân dân lao động mà nền tảng của nó là khối liên minh giữa giai cấp


10

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đây là thể chế chính trị
và tổ chức chính trị của nhân dân lao động thực hiện việc cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới phục vụ lợi ích của chính ngay nhân dân lao động. Đồng
thời hệ thống chính trị là cơ sở chính trị bảo đảm cho quá trình liên minh ngày
càng đúng hướng và không ngừng phát triển. Xây dựng hệ thống chính trị
thực sự dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là điều kiện thiết yếu để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, mới bảo
đảm quyền dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân thì mới
tăng cường được đoàn kết toàn xã hội. Phát huy dân chủ đúng đắn sẽ phát huy
được trí tuệ, năng lực sáng tạo và nhiệt tình cách mạng của các giai tầng trong

xã hội. Dân chủ còn là biện pháp đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu
cực xã hội nhằm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự xích lại gần nhau
của các giai tầng. Vì vậy việc xây dựng hệ thống chính trị thực sự của dân, do
dân, vì dân là điều kiện cơ bản nhất để cũng cố tăng cường khối Liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Để xây dựng được hệ thống chính trị thực sự dân chủ, trước hết phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, đặc biệt là sự lãnh đạo
của các đảng bộ, chi bộ ở những vùng nông thôn, miền núi. Sự lãnh đạo của
Đảng đảm bảo cho sự đúng đắn về phương hướng chính trị, về nội dung và cơ
cấu tổ chức cũng như các hình thức thích hợp của Liên minh giai cấp. Đảng
vững vàng về chính trị, sáng suốt về chiến lược sách lược, tiêu biểu cho trí tuệ
của cả dân tộc là trung tâm đoàn kết của toàn dân, là cơ sở cho sự thống nhất
ý chí và hành động của khối Liên minh giai cấp công - nông - trí. Thực hiện
tốt điều đó đòi hỏi phải nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Năm vững nhiệm
vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Mọi đảng viên


11

phải nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu, vững vàng về chính trị, tư tưởng,
có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân, phấn đấu
làm kinh tế giỏi, làm giàu chính đáng và vận động quần chúng làm giàu cho
chính mình và đất nước. Đổi mới việc đề ra các đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng phù hợp với thực tiễn đất nước. Phát huy dân chủ trong việc
xác định đường lối chính sách, huy động nhân dân tham gia đóng góp vào các
văn kiện của Đảng, Đảng lắng nghe ý kiến của nhân dân. Thường xuyên chăm
lo công tác phát triển Đảng cả chất lượng và số lượng. Đẩy mạnh đấu tranh
chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch nội bộ Đảng. Thực tế cho thấy

nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm bảo cho Đảng thực sự là hạt nhân
lãnh đạo, trung tâm đoàn kết của khối đại đoàn kết dân tộc, như vậy sẽ không
ngừng tăng cường cũng cố được khối Liên minh công - nông - trí, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Đồng thời với nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, phải không ngừng
nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Việc nâng cao hiệu lực quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là điều kiện cơ bản hết sức quan trọng để củng cố
tăng cường khối Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức. Hiệu lực quản lý của Nhà nước làm cho sự lãnh đạo chính trị
của Đảng cộng sản được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng các đạo luật, bằng các
chính sách cụ thể đáp với yêu cầu nguyện vọng chính đáng của các giai tầng
xã hội. Hiệu lực quản lý của Nhà nước làm cho xã hội ổn định và nền kinh tế
xã hội phát triển ngày càng cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện,
làm cho quan hệ giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức gắn
bó chặt chẽ với nhau vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng, hiệu lực quản lý cao của Nhà
nước là sự đảm bảo chắc chắn có sức thuyết phục về vai trò lãnh đạo của giai


12

cấp công nhân trong quá trình thiết lập củng cố khối Liên minh công - nông trí. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đòi hỏi phải kiện toàn tổ chức,
đổi mới phương thức hoạt động của Nhà nước, xây dựng nền hành chính Nhà
nước thật sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức trong sạch, có năng lực, coi trọng cả về năng lực và đạo đức, có chế độ
chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ hợp lý. Tăng cường cán bộ cho cơ sở;
xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà làm mất lòng tin với nhân dân. Phải
tăng cường củng cố và phát huy vai trò các tổ chức chính trị – xã hội. Các tổ
chức đó cũng là những công cụ để giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức thực

hiện quyền làm chủ của mình cả về kinh tế, chính trị và xã hội, vừa thể hiện ý
chí, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, vừa là nơi thể hiện nhu cầu lợi
ích của họ, đồng thời là nơi phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân lao
động. Vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đó cũng là điều
kiện quan trọng làm cho sự Liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức trở thành nhu cầu của họ và bảo đảm cho khối
Liên minh đó không ngừng được củng cố tăng cường.
Như vậy, xây dựng một hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa năng động
có chất lượng cao, thực sự dân chủ là giải pháp hàng đầu có vai trò quyết định
đối với việc củng cố tăng cường khối Liên minh của giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trước sự tác động tiêu cực của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Thứ hai, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đây là cơ sở kinh tế cơ bản vững chắc của khối liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là điều kiện và con đường cơ bản để phát triển giai cấp công nhân cả
về số lượng và chất lượng, đồng thời phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn tạo ra những


13

tiền đề, điều kiện để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông
thôn mới, tạo chất keo gắn bó quyền lợi giữa giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân, phát huy sức mạnh trí tuệ của nhân dân lao động. Sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi một cách khách quan sự tập trung về
sức người, sức của, về cơ sở vật chất và trí tuệ của cả giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Sự nghiệp đó vừa tạo điều kiện, vừa là đòi
hỏi phải có một nền nông nghiệp hiện đại và một nền khoa học công nghệ tiên
tiến; vừa tạo điều kiện và giúp đỡ cho sự phát triển về mọi mặt của giai cấp

nông dân và đội ngũ trí thức, vừa đòi hỏi sự tham gia đóng góp sức lực và trí
tuệ của họ. Đó là chiếc cầu nối liên kết chặt chẽ giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước cần phải xác định tiềm năng, bước đi, phù hợp, phải thấy rõ
vị trí, vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong việc củng cố tăng
cường khối Liên minh công - nông - trí để có kế hoạch cụ thể cho từng giai
đoạn. Tiến hành xây dựng một cơ cấu kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp,
khoa học công nghệ hợp lý, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau cùng
tồn tại phát triển. Trong quá trình liên kết, liên doanh sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp và dịch vụ, trong trao đổi hàng hóa phải tạo động lực căn bản để
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức yên tâm sản xuất liên
kết lâu dài, giải quyết tốt mối quan hệ giữa: nhà nông, nhà khoa học, nhà
quản lý và nhà doanh nghiệp.
Thứ ba, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nông thôn mới.
Mục đích của Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức không chỉ tạo ra động lực sức mạnh tổng hợp cho quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà điều quan trọng là tạo ra sự đồng nhất về mọi
mặt chính trị xã hội của họ, cải tạo, giúp đỡ, nâng cao họ lên một tầm cao


14

mới. Vì vậy, cùng với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xây dựng
nông thôn mới có cơ cấu kinh tế hợp lý hiệu quả cao, xoá bỏ sự cách biệt giữa
nông thôn với thành thị cả về đời sống vật chất, tinh thần, cả về phẩm chất lối
sống. Xây dựng nông thôn mới vừa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa đáp ứng lợi ích của giai cấp công nhân, vừa
thoả mãn nguyện vọng của giai cấp nông dân thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

Đồng thời đây cũng là những điều kiện quan trọng để giai cấp công nhân và
đội ngũ trí thức quan hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân, phục vụ giai cấp nông
dân, giải quyết tốt mối quan hệ giữa “bốn nhà” trong quá trình phát triển kinh
tế. Đảng ta khẳng định: Mặt trận nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, coi trọng
tâm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm,
ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông
thôn mới cần phải chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa
dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng
cạnh tranh cao. Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần
giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại
sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao, đẩy mạnh thâm canh các loại
cây trồng, vật nuôi trên cơ sở áp dụng các quy trình sản xuất đồng bộ và tiên
tiến. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với việc
chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản. Phát triển nuôi trồng
thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, sử dụng hợp lý nguồn lợi, giảm


15

chi phí, nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững. Đẩy mạnh
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là những ngành nghề sử
dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo ra nhiều việc làm mới,
góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Thực hiện tốt quy trình nghiên
cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, nhất là giống và kỹ thuật sản xuất,
chú trọng phát triển kinh tế trang trại và các loại hình kinh tế hợp tác, phát

triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn, thúc đẩy cơ giới hoá, hiện đại hoá nông
thôn. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động
nông thôn nhất là vùng sâu, vùng xa, thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm
nghèo, bảo đảm ổn định lương thực trong sản xuất nông nghiệp. Đi đôi với
quá trình đó là tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông
thôn phù hợp, thực hiện có hiệu quả các hình thức kinh tế. Từng bước đưa
nông dân vào con đường hợp tác hóa, thực hiện nguyên tắc dân chủ, tự
nguyện, cùng có lợi. Đặc biệt chú trọng xây dựng chi bộ, chính quyền ở nông
thôn vững mạnh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước và nông dân, bảo
đảm lợi ích chính đáng cho người nông dân trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ tư, thực hiện tốt chính sách giai cấp, chính sách xã hội.
Thực hiện tốt chính sách giai cấp, chính sách xã hội nhằm mục đích
tăng cường chất lượng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức; đồng thời tạo ra động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội; xây dựng cơ cấu xã hội – giai cấp theo hướng tăng cường củng cố
khối liên minh giai cấp. Muốn xây dựng khối liên minh công – nông –
trí vững chắc đòi hỏi phải có chính sách đúng, phù hợp động viên
khuyến khích được các giai tầng đó phát triển, đủ sức vươn lên làm
chủ xã hội. Đó là cơ sở đảm bảo cho các giai tầng luôn luôn làm tròn
vai trò vị trí của mình, thực sự là nền tảng vững chắc của xã hội. Giải


16

quyết tốt chính sách xã hội nhằm quan tâm đến mọi thành viên trong xã hội
có đủ điều kiện vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, khắc phục được
những phân hóa quá mức mà thực tiễn xã hội đang diễn ra. Thực hiện phân
phối và phân phối lại có hiệu quả. Trong quá trình cách mạng phải chú trong
đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai tầng, bảo đảm

quyền lợi và trách nhiệm công dân. Thực hiện tốt điều đó cần phải có giải
pháp sát đúng với các giai tầng.
Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển nhanh cả về số lượng
và chất lượng, nâng cao giác ngộ bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, tay
nghề, thực hiện “trí thức hóa công nhân”, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải quyết tốt việc làm,
giảm tối đa công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách
và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, có chính sách ưu đãi đối với công nhân bậc cao. Xây dựng
tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở
sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đến
đời sống vật chất tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng hợp pháp của công
nhân và người lao động. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ
những công nhân ưu tú.
Đối với giai cấp nông dân, phát huy tốt vai trò quan trọng trong sự
nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ tiên tiến vào
sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt chính sách về ruộng đất, tạo điều kiện
thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyên
khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để
phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất,
tiêu thụ nông sản hàng hoá, khuyên khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp


17

dụng thành tựu khoa học công nghệ. Thực hiện tốt chính sách xoá đói giảm
nghèo, nâng cao dân trí và xây dựng nông thôn mới.
Đối với đội ngũ trí thức, tạo các điều kiện thuận lợi để trí thức tự do
sáng tạo, phát minh cống hiến, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông

tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sử
dụng đúng và đãi ngộ chính đáng các tài năng, coi trọng vai trò tư vấn, phản
biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, các dự án
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Thứ năm, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công
nghệ.
Đây là cơ hội chung cho tất cả các giai tầng trong xã hội vươn lên nắm
bắt khoa học, công nghệ, nâng cao trình độ mọi mặt, tạo động lực đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời là cơ sở
để các giai tầng vươn lên làm chủ khoa học, làm chủ xã hội, tạo cơ hội để các
giai tầng xích lại gần nhau. Thực hiện tốt điều đó cần phải thống nhất định
hướng giữa phát triển khoa học, công nghệ với chấn hưng giáo dục đào tạo.
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, tạo
bước dột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh
vực kinh tế. Tăng cương năng lực khoa học, công nghệ nội sinh đi đôi với
tăng cường tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ thế giới.
Nâng cao các sản phẩm khoa học, đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động khoa học
và công nghệ, chú trọng công tác đào tạo, bổ sung cơ chế, chính sách sử dụng,
đãi ngộ cán bộ khoa học. Xây dựng quy chế nghiên cứu khoa học ở các
trường đại học. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ
chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo. Thực hiện chính sách trọng dụng
nhân tài, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút nhân tài ở


18

nước ngoài vào tham gia giảng dạy, phát triển khoa học và công nghệ ở Việt
Nam.
Thứ sáu, tăng cường công tác đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng,
đặc quyền, đặc lợi.

Tham nhũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự phân
hóa giàu nghèo quá mức, song vấn đề quan trọng hơn là nó làm giảm lòng tin
của quần chúng vào cơ quan lãnh đạo, quản lý. Tham nhũng là căn bệnh của
những người có chức, có quyền, có địa vị xã hội lợi dụng quyền lực để thực
hiện hành vi ăn chặn hối lộ. Tham nhũng được hình thành trên ba yếu tố: lạm
dụng quyền lực, lòng tham vị kỷ và lợi dụng kẻ hở của cơ chế, chính sách.
Nền kinh tế thị trường sơ khai với nhiều kẻ hở cho bọn cơ hội luồn lách, vì
động cơ xấu lợi dụng kẻ hở của cơ chế, chính sách lạm dụng quyền lực để
mưu cầu lợi ích riêng. Cùng với việc tôn trọng và khuyến khích làm giàu
chính đáng, trong nền kinh tế thị trường đồng tiền trở thành thần tượng,
hưởng thụ vật chất trở thành khát vọng của nhiều người. Nên không ít người
lao vào làm giàu (kể cả làm giàu không chính đáng), lợi dụng cá nhân để phát
triển thành chủ nghĩa cá nhân của một bộ phận cán bộ, đảng viên, từ đó nảy
sinh tiêu cực vì tiền tài, danh vọng, địa vị, ảnh hưởng đến khối đoàn kết Liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, làm tổn
hại đến đường lối cách mạng của Đảng. Thực hiện tốt công tác đáu tranh chống
quan liêu tham nhũng cần tập trung xây dựng hoàn chỉnh bộ luật chống tham
nhũng, cơ chế giám sát, đánh giá, lựa chọn cân nhắc cán bộ. Xây dựng, phát huy
và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, để quần chúng thực hiện quyền dân
chủ trực tiếp của mình. Coi trọng đấu tranh tự phê bình và phê bình thẳng thắn.
Như vậy, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức là nhằm xây dựng một cơ cấu xã hội – giai cấp
phù hợp với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Các


19

chính sách giai cấp của Đảng cũng nhằm để xây dựng khối liên minh, xây
dựng cơ cấu xã hội – giai cấp. Đoàn kết toàn dân tộc nói chung và đoàn kết
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức nói riêng, đều xuất phát trên cơ sở thống nhất mục tiêu, lợi ích cơ bản, đó
là cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân, của dân tộc, tìm ra một tiếng nói
chung trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa. Trước sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường đến mọi lĩnh vực
đời sống xã hội, trong đó có bất đồng về lợi ích, phân tầng giai cấp, phân hoá
giàu nghèo là một tác động tiêu cực gây cản trở lớn đến việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân mà nền tảng là khối liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Hạn chế những tác động ảnh hưởng tiêu cực trên đòi hỏi phải xây dựng
hệ thống chính trị thực sự dân chủ; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nông thôn mới; thực hiện tốt chính sách xã hội, chính sách giai cấp;
không ngừng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ;
tăng cường đấu tranh chống tệ quan liêu tham nhũng, tham ô lảng phí. Tạo
điều kiện để các giai tầng xích lại gần nhau, làm cơ sở để không ngừng tăng
cường, củng cố khối Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và độ ngũ trí thức trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Quân đội nhân dân
Việt Nam là một đội quân cách mạng, được Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ
tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện, mang bản chất giai cấp công
nhân Việt Nam. Mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội ta cũng là mục tiêu
lý tưởng của Đảng. Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng hiện nay tình hình
thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, quân đội cũng không thể
tránh khỏi những ảnh hưởng và tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế
thị trường; cùng với sự chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc đứng


20

đầu là đế quốc Mỹ đang ra sức chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta.
Chúng tìm mọi cách để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ khối

nền tảng liên minh công - nông - trí, đối với quân đội chúng tập trung chống
phá trên mặt trận chính trị, tư tưởng, nhằm mục đích “phi chính trị hoá quân
đội”, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội ta
mất phương hướng, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, biến chất, suy yếu đi đến tan
rã. Mặt khác, quá trình xây dựng phát triển quân đội, trước tác động của mặt
trái nền kinh tế thị trường đã làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ hoang
mang dao động tư tưởng, thờ ơ với nhiệm vụ chính trị, ảnh hưởng của lối thực
dụng chạy theo động tiền...
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay với chức năng, nhiệm vụ của quân đội,
để giữ vững mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, góp phần bảo vệ vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tàng
liên minh công - nông - trí. Vấn đề cơ bản hàng đầu là phải không ngừng
cũng cố tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Thực hiện tốt
điều đó đòi hỏi phải tiến hành tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng
cao năng lực nhận thức thực tiễn chính trị – xã hội, tinh thần cảnh giác mạng
cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội; phải thường xuyên quan tâm chăm lo đến đời sống vật
chất và tinh thần của bộ đội, các hoạt động thực tiễn chính trị, xã hội ở đơn vị
cơ sở. Coi đây là những giải pháp cơ bản tăng cường cũng cố bản chất giai
cấp công nhân cho quân đội, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về mọi
mặt để bảo đảm cho quân đội thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Đối với bản thân nghiên cứu làm rõ sự tác động tiêu cực từ mặt trái của nền
kinh tế thị trường đến việc xây dựng khối liên minh công – nông – trí ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tự tu
dưỡng, rèn luyện bản thân, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, cũng cố


21

niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; không bị sa ngã trước tác

động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường mang lại. Đồng thời là cơ
sở để thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình góp phần làm tốt công
tác tuyên truyền, giáo dục rèn luyện quân nhân trong việc xây dựng bản lĩnh
chính trị kiên định vững vàng, xác định đúng đắn trách nhiệm, bảo đảm hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó là cơ sở để bản thân
góp phần làm tốt công tác vận động quần chúng trên địa bàn đóng quân trong
việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nói chung, xây dựng khối liên
minh công - nông - trí nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.



×