Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giáo trình văn học Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.39 KB, 100 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VÀ NHÂN VĂN TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN VÀ BÁO CHÍ
--------------------------------------------

TS. TRẦN LÊ HOA TRANH

LỊCH SỬ VĂN HỌC
TRUNG QUỐC

-THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001-


TƢ LIỆU THAM KHẢO.
1.Bài giảng văn học Trung Quốc- Lƣơng Duy Thứ- NXB ĐH Tổng Hợp TP.HCM
1995.
2.Văn học Trung Quốc giản yếu- Phạm Thị Hảo- NXB ĐHTH TP.HCM 1992.
3.Thơ ca cổ điển Trung Quốc- GS. Lƣơng Duy Thứ chủ biên- NXB Trẻ- Hội
nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM 1997.
4.Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ- Nguyễn Khắc Phi- NXB Giáo dực
1998.
5.Văn học sử Trung Quốc- (3 tập) Nguyễn Hiến Lê- NXB Nguyễn Hiến Lê 1968.
6.Văn học sử Trung Quốc (3 tập)- Chƣơng Bồi Hòan, Lạc Ngọc Minh- NXB Phụ
nữ 2000.
7.Lịch sử văn học Trung Quốc (3 tập)-Sở nghiên cứu văn học thuộc viện KHXH
Trung Quốc –NXB Giáo dục 1995.
8.Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc (2 tập)- NXB Thƣợng Hải 2000.
9.Câu chuyện văn chƣơng phƣơng Đông- Phan Nhật Chiêu- NXB Giáo dục 1997.
10. Giáo trình văn học Phƣơng Đông- Lƣơng Duy Thứ chủ biên- NXB ĐH Quốc
gia TP.HCM 1999.
TƢ LIỆU TÁC PHẨM.


1.Kinh thi- Phạm Thị Hảo tuyển chọn- NXB ĐH KHXH &NV TP.HCM 1998.
2.Sử ký Tƣ Mã Thiên-Trƣơng Chính dịch- NXB Văn học 1988.
3.Các tuyển tập thơ Đƣờng nhƣ 300 bài thơ Đƣờng, Đƣờng thi một thuở, Thơ
Đƣờng (2 tập)….
4.Tống từ- NXB
5.Đƣờng Tống bát đại gia- NXB
6.Hí khúc Nguyên- Minh- NXB
7.Các bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc tiêu biểu: Tam quốc chí, Thủy hử, Tây
du ký, Hồng Lâu Mông, Liêu trai chí dị, Kim Bình Mai, Chuyện làng nho…
8.Truyện ngắn Lỗ Tấn, kịch Tào Ngu, thơ Quách Mạt Nhƣợc…
9.Truyện Giả Bình Ao, Kim Dung, Quỳnh Dao.

A.NHỮNG VẤN ĐỀ GIỚI THUYẾT.
(3 tiết)

A.1.CÁCH CHIA THỜI KỲ VĂN HỌC.
Văn học Pháp chia làm nhiều thời kỳ, mỗi thời kỳ tƣơng ứng với một thế kỷ: nhƣ
thế kỷ XVII là thời kỳ cổ điển, thế kỷ XVIII là thời kỳ ánh sáng, thế kỷ XIX là lãng
mạn…
Văn học Anh vừa chia theo thế kỷ, nhƣ thế kỷ XVIII là thế kỷ xung đột giữa hai
phái duy lý và kinh nghiệm, nhƣng cũng chia theo từng triều đại, nhƣ có triều đại
Elisabeth, tức thời kỳ văn học Phục hƣng, triều đại Victoria, là thời kỳ văn học hiện
thực…


Nhƣng văn học Trung Quốc thì ta phải chia theo triều đại. Các học giả Trung Hoa
từ xƣa đến nay đều nhận rằng ở nƣớc họ, chính trị ảnh hƣởng mật thiết đến văn học. Các
thể loại văn học đều nhờ sự thúc đẩy, giúp đỡ của chính trị mà phát triển, nhƣ phú thịnh
đời Hán, thơ thịnh đời Đƣờng, từ đời Tống, tuồng đời Nguyên, tiểu thuyết đời MinhThanh….
Nhƣ vậy chúng tôi sẽ triển khai học phần này theo hƣớng trên, đi vào từng triều

đại, nêu nét nổi bật, thành tựu văn học của triều đại đó, triều đại nào không có gì nổi bật
sẽ bỏ qua.
Bố cục chung của mỗi phần sẽ là:
- Vài nét về tình hình chính trị- xã hội.
- Tình hình văn học.
- Các tác giả hoặc thể loại chính của thời kỳ đó.

A.2.CÁC TRIỀU ĐẠI LỊCH SỬ TRUNG HOA.
Khoảng 50 vạn năm trƣớc, trên lƣu vực sông Hoàng Hà đã có dấu vết của loài
ngƣời, tính từ khi có xã hội loài ngƣời thì lịch sử Trung Quốc đã tồn tại khoảng 5000
năm. Ngƣời ta chia lịch sử Trung Quốc làm 6 giai đoạn lớn:
-Nguyên thủy: hàng vạn năm về trƣớc đến đời Hạ (-2200)
-Nô lệ: Hạ đến Tần (-220)
-Phong kiến: Tần đến chiến tranh thuốc phiện (-220 đến 1840)
-Cận đại: chiến tranh thuốc phiện đến 1919
-Hiện đại: từ 1919-1949.
-Đƣơng đại:từ 1949 đến nay.
Đó là cách phân chia lịch sử của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, còn đối với các
học giả phƣơng Tây thì lịch sử Trung Quốc chỉ đƣợc xác định rõ ràng từ năm 1000 trƣớc
Công nguyên mà thôi. Theo họ, cuốn sách lịch sử cổ nhất là Kinh Thƣ của Khổng Tử
(cuốn sách này cho rằng lịch sử Trung Quốc bắt đầu từ năm 2205 trƣớc Công nguyên ) là
cuốn sách không đáng tin cậy vì không thể kiểm chứng đƣợc mức độ chân thực lịch sử từ
nó vì đây là một tác phẩm văn chƣơng. Họ chỉ công nhận lịch sử Trung Hoa từ đời Chu
trở đi (-1150 )
Tƣơng truyền rằng ông tổ của dân tộc Trung Hoa là Bàn Cổ. Rồi tới các đời Tam
Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng), Hữu Sào, Toại Nhân, Phục Hy, Thần
Nông. Lúc bấy giờ Trung Quốc gồm nhiều bộ lạc.
Hoàng Đế (-2700 đến –2600) dẹp các chƣ hầu và đƣợc tôn làm thiên tử, truyền
ngôi đƣợc 5 đời (Ngũ Đế)
Sau đó đến Đƣờng Nghiêu (-2359 đến –2259) và Ngu Thuấn (-2256 đến -2208).

Hai vua Nghiêu Thuấn đều nhƣòng ngôi cho những ngƣời tài đức trong thiên hạ. Trung
Quốc thời này rất thịnh trị và văn minh, đây là những triều đại đƣọc đời sau nhắc đến
nhƣ một mẫu mực của sự thái bình, an lạc. Vua Nghiêu, Thuấn đƣợc xem nhƣ những ông
vua hiền, tài giỏi.
Đến vua Võ (nhà Hạ) (-2205 đến –1784), Trung Quốc bắt đầu là một nƣớc có tổ
chức, ngôi báu lại là cha truyền con nối đến vua Kiệt . Vua Thành Thang diệt vua Kiệt
lập ra nhà Thƣơng (-1783 đến –1135), An là cuối Thƣơng (thời Thánh Gióng ở ta), đến
đời vua Trụ lại bị nhà Chu diệt.
Nhà Chu chia làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất đóng đô ở đất Phong nên gọi là
Tây Chu (-1134 đến –770), đến đời U Vƣơng sợ rợ Tây Nhung nên dời đô đến Lạc
Dƣơng, gọi là Đông Chu (-770 đến –247). Từ khi nhà Chu dời sang Đông, vua suy
nhƣợc, chƣ hầu lộng quyền, đánh nhau không ngớt, dân tình vô cùng khốn khổ. Đầu nhà
Chu, chƣ hầu có đến trên 1000, thôn tính lẫn nhau sau còn độ 100, những nƣớc mạnh là:


Tề, Sở, Tấn, Tần, Lỗ, Tống. Những nƣớc này thay nhau làm Bá là Tề Hoàn Công, Tấn
Văn Công, Tống Tƣơng Công, Sở Trang Công, Tần Mục Công. Khổng Tử chép thời loạn
lạc ấy trong cuốn kinh Xuân Thu, vì thế ngƣời đời sau gọi thời này là thời Xuân Thu.
Từ năm –403 đến –221, các chƣ hầu đánh nhau liên miên, đó là thời Chiến Quốc,
có 7 nƣớc mạnh nhất là Tần, Sở, Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn. Sau Tần diệt nhà Chu và 6
nƣớc chƣ hầu kia, thống nhất Trung Quốc.
Nhà Tần chỉ tồn tại đƣợc 15 năm. Lƣu Bang và Hạng Võ lật đổ nhà Tần, rồi đánh
nhau 10 năm (Hán Sở tranh hùng), cuối cùng Lƣu Bang thắng lập nên nhà Hán.
Nhà Hán (-206-211) chia ra hai thời: Tây Hán và Đông Hán. Thời Đông Hán,
Trung Quốc là một đế quốc rộng lớn, hùng mạnh, chuyên đi thôn tính các nƣớc khác
(Việt Nam thời Hai Bà Trƣng). Cuối đời Hán là loạn Tam Quốc (Thục, Ngụy, Ngô) từ
năm 211 đến 264.
Ngụy thắng, lập nhà Ngụy, đƣợc hơn 40 năm, lại bị họ Tƣ Mã lật đổ, lập nên nhà
Tấn. Nhà Tấn tồn tại 125 năm. Cuối đơi Tấn, 5 tộc hồ ở phƣơng Bắc vào uy hiếp nên dời
đô về phƣơng Nam (Đông Tấn), rồi bị Tống cƣớp ngôi. Từ đó Trung Quốc chia làm hai

khu vực: Bắc và Nam, Lục triều thay nhau cai quản… hơn 300 năm loạn lạc. Thời này
gọi là Ngụy- Tấn- Nam Bắc triều là vì vậy.
Cuối thế kỷ 6, Tuỳ( họ Dƣơng) thống nhất Trung Quốc về một mối nhƣng chỉ tồn
tại 37 năm, nhà Đƣờng(họ Lý) lật đổ và thay thế (618-905), đây là thời đại hoàng kim
của chế đô phong kiến Trung Quốc.
907- 960 là thời Ngũ Đại- Thập quốc: Ngũ đại là Hậu Lƣơng, Hậu Đƣờng, Hậu
Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu ở phía Bắc. Ở phía Nam là 9 nƣớc Ngô, Nam Đƣờng, Ngô Việt,
Tiền Thục, Hậu Thục, Nam Hán, Sở, Mân, Nam Bình, cùng với Bắc Hán là 10 nƣớc, sử
gọi là Thập quốc.
Triệu Khuông Dẫn thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tống (960-1212), đầu tiên
gọi là Bắc Tống (960-1127), sau rợ Kim tàn phá nên dời đô xuống phía Nam gọi là Nam
Tống.
Thành Cát Tƣ Hãn (1162-1227) xâm lƣợc Trung Quốc, lập ra nhà Nguyên (12601368), chính quyền ngoại bang đầu tiên.
Chu Nguyên Chƣơng lãnh đạo nông dân khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên, lập ra nhà
Minh (1368-1644). Cuối đời Minh triều đình suy yếu, khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tục.
Lý Tự Thành lãnh đạo khởi nghĩa thành công nhƣng Ngô Tam Quế phản, mở cửa cho
ngƣời Mãn Châu vào cƣớp đoạt thành quả khởi nghĩa, lập ra nhà Thanh (1644-1912),
chính quyền ngoại bang thứ hai. Đây là triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Hoa.
Nhìn chung, lịch sử Trung Hoa có những đặc điểm sau:
-Trung Quốc là môt trong những cái nôi văn minh sớm nhất của nhân loại, nhiều
phát minh thời cổ đại của nhân loại phải ghi công ngƣời Trung Quốc. Theo nhận xét của
một nhà khoa học ngƣời Mỹ trong cuốn China, Land of Discovery and Invention (Trung
Quốc, Xứ sở của phát kiến và phát minh) thì “ Có lẽ tới hơn một nửa số phát minh và
phát kiến quan trọng đƣợc lấy làm nền tảng cho sự phát triển của thế giới ngày nay đều
xuất xứ từ Trung Quốc” đặc biệt là những phát kiến trong nông nghiệp nhƣ kỹ thuật
trồng cây thành luống, làm cỏ nhiều lƣợt, gieo hạt thẳng hàng, lƣỡi cày sắt… Ngoài ra
ngƣời Trung Quốc còn có 3 phát minh lớn: giấy viết, nghề in, thuốc súng và la bàn nam
châm. Thời Tần đã xuất hiện hệ thống cân đo, thời Hán số pi đã đƣợc phát hiện…
-Ngƣời Trung Quốc đi trƣớc về sau: đời Đƣờng văn hóa Trung Quốc cao nhất thế
giới, nhƣng sau đó thì phát triển chậm chạp, đến thời cận đại thì trở nên lạc hậu.

-Chế độ phong kiến kéo dài (21 thế kỷ) đã kìm hãm sự phát triển của xã hội. Đó là
chế độ phong kiến kiểu tông pháp thị tộc (theo chiều dọc của dòng họ) chứ không phải
thành bang dân chủ nhƣ phƣơng Tây. Lại do Nho giáo thống trị (lấy đức làm đầu, đào tạo


hiền giả chứ không phải trí giả, chủ trƣơng sĩ, nông, công, thƣơng, trọng nông ức
thƣơng…), tƣ tƣỏng kém giải phóng, khoa học thực nghiệm kém phát triển, vì thế sự lạc
hậu, trì trẽ kéo dài.
-Cách mạng tƣ sản nổ ra quá muộn, lại non yếu, què quặt.

A.3.CÁC THỜI KỲ VĂN HỌC
Khó có thể tìm thấy nền văn học nào có quá trình phát triển lâu dài mà liên tục
nhƣ Trung Quốc.
Lịch sử nền văn học ấy qua 25 thế kỷ là một đại dƣơng của vô số tác phẩm mà
nhiều nền văn học khác hợp lại cũng chƣa thể sánh nổi.
-Văn học tiên Tần: +Thơ: Kinh Thi, Sở Từ.
+Văn: Văn nghị luận của các triết gia (tản văn chƣ tử)
Văn ký sự thời Xuân Thu. (tản văn lịch sử)
-Văn học từ đời Tần- Tùy:
+Thời Tần- Hán (chủ yếu là đời Hán vì Tần chỉ tồn tại 15 năm): Thơ ca
Nhạc phủ: đƣợc xem là Kinh thi của đời Hán, là tập hợp thơ ca dân gian.
Sử ký Tƣ Mã Thiên, Phú Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ (đời Hán),
+Thời Ngụy:Thơ Kiến An thất tử và ba cha con họ Tào.
+Thời Tấn:Văn chƣơng hình thức chủ nghĩa nhƣng có một nhà thơ khác lạ:
Đào Tiềm.
+ Nam Bắc triều: chiến tranh liên miên nên văn học không phát triển,
nhƣng lý luận phát triển: Lƣu Hiệp, Chung Vinh.
-Văn học đời Đường: tất cả các thể loại đều phát triển, nổi bật nhất là thơ Đƣờng
và tiểu thuyết truyền kỳ đời Đƣờng.
-Văn học đời Tống: Thơ Tô Đông Pha, Lục Du. Học “Đƣờng(2)- Tống(6) bát đại

gia”, Từ.
-Văn học đời Nguyên: văn xuôi không phát triển nhiều duy chỉ có một loại: ca
kịch. Học tạp kịch Quan Hán Khanh, Vƣơng Thực Phủ.
-Văn học đời Minh- Thanh: tiểu thuyết cổ điển, Tuồng Thang Hiển Tổ.
-Văn học cận đại: Lƣơng Khải Siêu.
-Văn học hiện đại: Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhƣợc, Tào Ngu, Mao Thuẫn.
-Văn học đương đại: Trƣơng Hiền Lƣợng, Giả Bình Ao (Đại lục), Kim Dung
(Hồng Kông), Quỳnh Dao (Đài Loan).

A.4.VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC NGUYÊN THỦY CỦA TRUNG QUỐC.
Văn học Trung Quốc là một trong những nền văn học cổ nhất trên thế giới. Từ
hơn 3000 năm trƣớc đã xuất hiện nhiều bài thơ ca ngắn, thần thoại và truyền thuyết. Tuy
vậy, cho đến nay chƣa có một công trình nào sƣu tập đầy đủ và có hệ thống mảng văn
học dân gian của Trung Quốc (giải thích: có nhiều lý do, có lẽ là do ngày xƣa xã hội
Trung Quốc không coi trọng mảng văn học truyền miệng, cho là không có giá trị. Hoặc
là tầng lớp nho gia rất thực tế, cho thần thoại, truyền thuyết là tƣởng tƣợng, không thực
tế nên không sƣu tầm, hay văn học Trung Quốc bắt nguồn từ phƣơng Bắc, ngƣời phƣơng
Bắc thực tế, không thích lãng mạn, bay bổng nên không đánh giá cao thần thoại.)
1.Thơ ca: một số bài trong các sách thời Chiến Quốc (-480 đến -221) nhƣ
Thƣợng Thƣ, Lã Thị Xuân Thu, Sử ký Tƣ Mã Thiên… Ba bài đƣợc xem là cổ nhất là
Kích nhƣỡng ca, Khanh Vân ca và Nam Phong ca, tuy vậy những bài thơ này do


truyền miệng nên có lẽ đã đƣợc ngƣời đời sau trau chuốt lại nên tình điệu rất giống thơ
Sở Từ.
2.Thần thoại: một số truyện trong bộ Sơn hải kinh, Trang tử, Liệt tử (Chiến
quốc), Hoài nam tử (Hán). Qua một số truyện nhƣ Tinh Vệ lấp biển, Khoa Phụ đuổi
theo mặt trời, Nữ Oa luyện đá vá trời… Tuy ít nhƣng thần thoại Trung Quốc cũng mang
đầy đủ những đặc điểm của thần thoại: vừa thực tế (xuất phát từ hiện thực, xã hội), vừa
lãng mạn, bay bổng. Nó mang cái đẹp hồn nhiên, chất phác, mộc mạc của con ngƣời

nguyên thủy, nói lên những nhận thức ấu trĩ của con ngƣời về vũ trụ, tự nhiên, phản ánh
ƣớc mơ chinh phục và gần gũi với thiên nhiên. Thần thoại Trung Quốc thƣờng ngắn,
gọn, rõ ràng, ít hình ảnh, ít chi tiết, sức tƣởng tƣợng nhƣ thần thoại phƣơng Tây. Nhân
vật cũng không có nguồn gốc, phả hệ nhƣ thần thoại Hy Lạp. Nói chung là chƣa có sức
hấp dẫn nghệ thuật cao, tuy vậy vẫn là nguồn vốn quý giá cho các nhà sáng tác sau này
(ví dụ: truyện Nữ Oa luyện đá vá trời: những viên đá của bà trải qua mấy ngàn năm trở
thành hòn đá sau là Giả Bảo Ngọc trong Hồng Lâu Mộng…)
-Truyện Tinh Vệ lấp biển: “Trên ngọn núi Phát Cƣu, cây cối mọc um tùm xanh
tốt. Có một con chim hình dạng tựa giống con quạ nhƣng đầu có vằn, mỏ trắng, chân đỏ,
gọi là chim Tinh Vệ vì nó thƣờng kêu “tinh vệ!”, “tinh vệ!”. Chim này vốn là con gái
nhỏ của Viêm đế tên Nữ Oa. Nữ Oa đi chơi ở biển Đông gặp nƣớc dâng to, bị chết đuối
không về đƣợc mới hóa thành chim Tinh Vệ. Ngày ngày, Tinh Vệbay lên ngọn núi phía
Tây, nhặt từng viên đá ngậm vào mỏ đem thả xuống nhƣ để lấp kín biển Đông” -> niềm
khát khao của con ngƣời muốn chiến thắng nạn lũ lụt, chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh
con chim miệt mài lấp biển có lẽ muốn nói đến tinh thần kiên trì, nhẫn nại của con ngƣời.
-Truyện Khoa Phụ đuổi theo mặt trời: Ngƣời nguyên thủy ở hang rất sợ bóng tối,
sợ lạnh giá, rắn rết. Họ muốn níu kéo mặt trời lại, chiếu sáng và sƣởi ấm họ mãi mãi:
“Trên ngọn núi Thành Đô có môt vị thần tên là Khoa Phụ, hình dáng kỳ lạ, hai tai đeo
hai con rắn vàng, hai tay quấn hai con rắn vàng. Khoa Phụ đuổi theo mặt trời, đuổi mãi
mà chẳng kịp. Khát nƣớc, uống một hơi cạn cả sông Hà sông Vị, vẫn chƣa hết khát, lại
uống khô cả đầm Đại Trạch. Thế mà vẫn không kịp mặt trời. Cuối cùng Khoa Phụ khát
quá ngã xuống chết, cây gậy cầm tay quăng ra bỗng hóa thành một vƣờn cây xanh tƣơi”.
Chi tiết cuối cùng thật lãng mạn.
3. Truyền thuyết: Thần thoại là truyện hoàn toàn hƣ cấu và thiên về hiện tƣợng
tự nhiên còn truyền thuyết là truyện có một chút dấu vết lịch sử rồi gia cố thêm, chủ yếu
nói về hiện tƣợng xã hội. Ví dụ nhƣ truyện về Tam Hoàng, Ngũ Đế, về Phục Hy, Thần
Nông, về Đế Cốc, Đế Nghiêu, Thuấn, truyện nhƣờng ngôi của Nghiêu Thuấn, truyện
Nghiêu gả Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn… những truyền thuyết này phần nào mang
ý nghĩa dã sử.



B.CÁC THỜI KỲ VĂN HỌC
B.1. VĂN HỌC TIÊN TẦN- KHỞI NGUYÊN CỦA VĂN
HỌC VIẾT TRUNG HOA.
Văn học tiên Tần là khởi nguồn của dòng sông văn học Trung Hoa, là móng nền
vững chắc cho toà nhà văn học Trung Quốc. Giai đoạn này rất quan trọng. Không phải sự
mở đầu nào cũng non nớt, ấu trĩ mà rất tiêu biểu, có ảnh hƣởng đến các giai đoạn sau và
các nƣóc trong khu vực.
Ba thành tựu nổi bật:
1. Kinh thi.(3 tiết)
2. Sở từ.
3. Tản văn thời Chiến quốc.

B.1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ- XÃ HỘI.
Đến giữa thế kỷ 11 trƣớc Công nguyên, Chu Vũ Vƣơng lật Thƣơng lập ra nhà
Chu, thay thế chế độ nô lệ bằng chế độ phong kiến phân quyền, cải tiến quan hệ sản xuất,
thi hành chế đô tỉnh điền, đời sống nhân dân đƣọc cải thiện, kinh tế nông ngiệp đƣợc đẩy
mạnh, đồ đồng đƣợc sử dụng khá nhiều.
Đến thời Đông Chu (-770), nhờ phát minh ra đồ sắt, công cụ lao động đƣọc cải
tiến, sản xuất nông nghiệp càng phát triển. Từ đó, thƣơng nghiệp bắt đầu hình thành và
ngày càng phát đạt.
Về chính trị, thời Tây Chu, vua Chu tự xƣng là thiên tử. Thiên tử phong đất cho
chƣ hầu. Giai đoạn đầu, chế độ đẳng cấp và tông pháp còn đƣợc duy trì, về sau, vƣơng
triều nhà Chu suy yếu, không khống chế đƣợc các nƣớc chƣ hầu, nhiều nƣớc lớn thôn
tính nƣớc nhỏ dẫn đến tình trạng chiến tranh liên miên không dứt.
Về tƣ tƣởng và văn hóa, xã hội hình thành một giai tầng mới- sĩ, tạo thành lực
lƣọng quan trọng của hoạt động văn hóa xã hội đƣơng thời. Từ đó nổi lên không khí
“bách gia tranh minh” rất sôi nổi. Các học thuyết, học phái cũng xuất hiện. Hoạt động
của tầng lớp Sĩ có tác dụng tích cực thúc đẩy nền văn hóa và văn học đƣơng thời.
B.1.2. VĂN HỌC.

B.1.2.1. KINH THI.(3 tiết)
B.1.2.1.1. KHÁI QUÁT.
-Kinh thi là thành tựu văn học đầu tiên đánh dấu sự chuyển tiếp từ văn học truyền
miệng sang văn học viết của Trung Quốc. Đây là tuyển tập thơ cổ gồm 305 bài đƣợc
sáng tác cách dây 2500 năm vào khoảng thế kỷ 6 trƣớc Công nguyên trong khoảng thời
gian hơn 500 năm từ đầu Tây Chu ( -1100) đến giữa Xuân Thu (-600), đây là giai đoạn
cuối nô lệ đầu phong kiến, chủ yếu là áp bức bóc lột kiểu nô lệ, lễ giáo phong kiến chƣa
ăn sâu nhƣ sau này.
-Biên soạn: có ba thuyết:
+Do Khổng Tử biên soạn: trong sách Sử ký Tƣ Mã Thiên viết: từ 3000 bài Kinh
thi, Khổng Tử soạn lại thành 300 bài để dạy học trò. Không đúng, vì trƣớc Khổng Tử đã
có quyển Kinh thi 305 bài. Nhƣng Khổng Tử có san định và giải thích. Sách Luận ngữ
có nhiều chỗ ghi lại những câu nói chứng tỏ ông rất coi trọng thơ, Kinh thi trƣớc đây chỉ
dùng cho mục đích giải trí, trong các nghi lễ hoặc trình bày quan niệm xã hội, chính trị,
về sau nhờ Khổng Tử đề cao mà trở thành tài liệu văn học, giáo dục của tầng lớp quí tộc,
ông gắn nó với “tam cƣơng”: Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ
chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú, thảo mộc chi danh”( thơ có thể làm


phấn khởi ý chí, có thể xem xét việc hay dở, có thể hoà hợp mọi ngƣời, bày tỏ nỗi sầu
oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết đƣợc nhiều tên chim muông, cây cỏ), “Bất
học thi, dĩ vô ngôn” (Không học thơ thì không ăn nói đƣợc)…
+Do các quan “thái thi” (thu nhặt thơ ca) đời Chu chọn lựa để dâng vua. Có một
phần nhƣng không phải tất cả.
+Công lao chính là của các nhạc quan (quan coi âm nhạc) thu thập âm nhạc. Công
lao chính là của nhiều thế hệ lƣu truyền.
Đến đời Tần, Kinh thi bị thiêu hủy cùng nhiều sách vở khác trong vụ “đốt sách
chôn nho” của Tần Thủy Hoàng, đến đời Hán đƣợc sƣu tập lại và truyền dạy chính thức
cho đệ tử nho gia. Có nhiều dị bản Kinh thi đƣợc lƣu truyền nhƣ Lỗ thi do Thần Bồi
nƣớc Lỗ truyền, Tề thi do Viêm Cố nƣớc Tề, Hàn thi do Hàn Anh nƣớc Yên, Mao thi do

Mao Hanh nƣớc Triệu), trong đó bản Mao thi đƣợc công nhận là tƣơng đối chính xác và
lƣu truyền đến nay. Ba bản kia đến đời Tùy là mất hẳn.
-Phân loại:Tiêu chuẩn phân loại là nhạc điệu (vì đời Chu thơ thƣờng gắn liền với
nhạc), thƣờng chia làm 3 bộ phận:
+Phong: còn gọi là Quốc Phong gồm 160 bài, là các bài dân ca của các địa
phƣơng và nƣớc chƣ hầu. Là phần giá trị nhất trong Kinh thi, chủ yếu là thơ ca dân gian,
phản ánh cuộc sống hiện thực của nhân dân lao động.
+Nhã: gồm Tiểu Nhã (nhạc khúc của quí tộc, sĩ đại phu, gồm 80 bài, nội dung gần
với Phong) và Đại Nhã (nhạc khúc triều đình gồm 25 bài, là sáng tác của quí tộc nhằm ca
ngợi trời đất, vua chúa…
+Tụng: 40 bài, tán tụng thƣợng đế, thần linh, dùng trong các cuộc tế lễ.
Cách chia trên không hoàn toàn chính xác vì trong nhã cũng có nhiều bài theo
nhạc phong, trong phong lại cũng có bài của quí tộc… mà lại không nói lên đƣợc nội
dung tác phẩm.
Ngƣòi ta thƣờng theo cách chia mới: thơ ca quí tộc và thơ ca dân gian. Dân gian
bao gồm hầu hết Phong, một phần Tiểu Nhã. Chúng ta chủ yếu học phần thơ ca dân gian.
B.1.2.1.2.NỘI DUNG.
*Cuộc sống áp bức bóc lột và tinh thần phản kháng của nhân dân lao động.
-Phu phen tạp dịch: hai phƣơng thức bóc lột phong kiến cơ bản là địa tô và lao
dịch. Ngƣời lao đông thời kỳ tiền phong kiến này phải đi phu, làm tạp dịch cho lãnh
chúa: Bảo vũ, Quân tử vu dịch, Thức mị, Thỏ viên, Cát lũy… miêu tả cảnh cơ cực, nỗi
đắng cay, lòng oán giận của nhân dân.
-Tinh thần phản kháng: Nếu trong Thất nguyệt ngƣòi lao động còn an phận thủ
thƣờng thì trong hai bài Phạt đàn và Thạc thử lòng oán hận đã bùng nổ. Ngƣời lao động
đã chất vấn thẳng vào mặt bọn bóc lột, họ ý thức đƣợc nguyên nhân gây nên cảnh sống
cực khổ của mình.
*Phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Từ Tây Chu đến giữa Xuân Thu trong vòng 500 năm có hàng nghìn cuộc chiến
tranh (Xuân Thu vô nghĩa chiến-Mạnh Tử), có 3 loại chiến tranh: chiến tranh bành
trƣớng xâm lƣợc, chiến tranh tranh giành đất đai giữa các lãnh chúa, chiến tranh chống

sự xâm lƣợc của ngoại tộc. Nhiều bài thơ trong Kinh thi đã phản ánh cuộc sống điêu
linh, tâm trạng đau buồn và thái đô phê phán, oán trách: Hà thảo bất hoàng (Cỏ nào
chẳng vàng úa), Đông sơn (Núi Đông), Thái vi (Hái rau vi)-cảnh ngƣời lính trở về
không phải trong khúc khải hoàn mà trong mƣa sa gió táp buồn thảm, Kích cổ (Đánh
trống)- sự chia ly tử biệt gây đau xót (Do lai chinh chiến địa, bất kiến kỷ nhân hoàn- Lý
Bạch), Trắc hỗ (Trèo lên đồi trọc)-ngƣời lính thƣơng nhớ quê hƣơng, tƣởng tƣợng nghe
tiếng than thở của ngƣời thân, Phỉ phong (Gió kia)…
*Thơ nói về tình yêu, hôn nhân.


1.Những bài thơ trong sáng, đẹp đẽ, táo bạo, thẳng thắn, chân thật nhất trong Kinh
thi là nói về tình yêu trong lao động. Từ Tần về sau,đạo đức của chế độ phong kiến
chuyên chế và chế độ tông pháp gia trƣởng, khó có thể tìm thấy hình ảnh những cô gái
chủ động, tinh nghịch, tƣơi vui, dí dỏm nhƣ trong Kinh thi, những cô gái gọi ngƣời yêu
là “chú bé kháu khỉnh” (Giảo đồng), rủ ngƣời yêu đi trẩy hội, tặng hoa cho ngƣòi yêu
dƣới ánh nắng xuân (Trăn vĩ), yêu cầu ngƣòi yêu hát giữa đất trời gió lộng (Thác hề),
bắt ngƣời yêu lội qua sông rộng (Khiên thƣờng), hẹn ngƣời yêu đến rồi trốn đi để cuộc
hẹn hò thêm xao xuyến, hồi hộp, nhớ mong (Tĩnh nữ)… Tình yêu của ngƣòi lao động
không có cái kiểu cách quí tộc nhƣ Thôi Oanh Oanh, cái suy tính của giai cấp bóc lột
nhƣ Tiết Bảo Thoa… nó phản ánh nhân sinh quan lành mạnh của ngƣời lao động.
Mở đầu Kinh thi là bài Quan thƣ nổi tiếng. Đó là bài áp quyển (để lên đầu vì
hay). Khổng Tử khen: “Quan thư vui mà không sa đà, buồn mà không thảm thương”,
nghĩa là đúng mức, hợp đạo trung dung. Bài thơ có năm chƣơng thể hiện một chàng trai
theo đuổi một cô gái trẻ đẹp. Nghe tiếng chim cƣu gọi nhau, anh ta mơ tƣởng đến cô gái,
rồi nhớ thƣơng, trằn trọc, rồi tƣỏng tƣợng đến ngày cƣới… Điểm quan trọng của bài thơ,
đó là tình yêu bắt nguồn từ lao động. Chàng trai cảm cô gái qua cái đẹp uyển chuyển,
khéo léo của cô gái khi cô đang hái rau hạnh.
Quan thƣ hay còn vì cách tỉ (tiếng chim gù ví với sự quyến luyến của đôi lứa),
hứng (từ tiếng chim đến tiếng lòng). Tác giả đã từ xa đến gần, từ vật đến ngƣời, từ ƣớm
đến hỏi, làm ta liên tƣởng đến bài ca dao Cô kia tát nƣớc đầu đình của VN.

Cùng một chủ đề nhƣ thế là bài Tĩnh nữ, so với Quan thƣ đã tiến thêm một bƣớc
trong cung bậc tình yêu. Ở Quan thƣ là sự nhớ mong của ngƣời con trai, còn ở đây là
ngƣời con gái hẹn gặp, Khổng Tử không đề cao bài này vì ngƣời con gái chủ động
(giống nhƣ bài Giảo đồng)
Ca ngợi đời sống vợ chồng hài hoà, đầm ấm: Nữ viết kê minh (Vợ bảo gà gáy
rồi), Đào yêu, Xuất kỳ đông môn…
2.Thế nhƣng trong một xã hội đã có bóng dáng của phân biệt giai cấp, tƣ tƣởng
trọng nam khinh nữ, nam quyền thì Kinh thi cũng có những bài dựng lên sinh động hình
ảnh ngƣời phụ nữ đau khổ. Mới đầu có thể chỉ là sự khắc khoải, chờ đợi tình yêu đến
(Phiến hữu mai-Quả mai rụng), sau đó tăng dần lên: nhớ ngƣời yêu nhƣng sợ cha mẹ
quở trách, dƣ luận xì xào (Nhớ anh Trọng tử), ngƣời phụ nữ bị chồng ruồng bỏ (ManhChàng trai, Cốc phong-Gió đông), Bách chu (chiếc thuyền gỗ bách) là lời nguyền rủa
hôn nhân bao biện, là khát vọng hôn nhân tự chủ. Cho nên Hồ Xuân Hƣơng mới ví thân
phận ngƣời phụ nữ là
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Tóm lại: thơ tình yêu chiếm quá nửa trong Kinh thi. Đó là những bài tình ca trong
sáng, tƣơi mát, khẳng định hạnh phúc của tình yêu trong lao động.. Tuy vậy, trong một
xã hội bƣớc đầu có những tƣ tƣởng bất bình đẳng nam nữ, thì Kinh thi cũng là tiếng nói
oán hờn lên án lễ giáo phong kiến ngăn cản tình yêu, hôn nhân tự do.
B.1.2.1.3.NGHỆ THUẬT.
1.Điểm nổi bật của Kinh thi là phản ánh chân thật, sinh động. Lê Quí Đôn trong
Vân đài loại ngữ nói: “thơ phát khởi trong lòng người ta. Ba trăm bài thơ trong Kinh thi
phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra mà cũng có những bài văn sĩ đời sau không
theo kịp, như thế là vì nó chân thực”.
Đại bộ phận trong Kinh thi là thơ trữ tình, tức là chú trọng diễn đạt nội tâm. Tính
chân thực trong Kinh thi biểu hiện ở chỗ miêu tả tâm trạng chân thực. Các tác giả đã nói
về cuộc sống, tình yêu của chính mình, những niềm vui, nỗi khổ, nỗi oán hờn, ƣớc mơ
của bản thân một cách mộc mạc mà chân thực, giản dị mà sâu sắc. Không có sự lạm
dụng của các thủ pháp nghệ thuật tinh vi, bóng bẩy, vẽ vời.



2. Phú, tỉ, hứng là thủ pháp nghệ thuật nổi bật của Kinh thi. Anh hƣởng rộng rãi
đến thơ ca sau này.
Phú là phô bày, diễn tả, chỉ thẳng sự vật mà nói.
Tỉ là so sánh, mƣợn cái cụ thể nói cái trừu tƣợng (thạc thử)
Hứng là khêu gợi, mƣợn sự vật bên ngoài để khêu gợi tình cảm bên trong, trƣớc tả
sự vật, sau tả lòng mình (Quan thƣ- từ tiếng chim gù đến tiếng lứa đôi, là tỉ mà cũng là
hứng)
3.Về kết cấu, nổi bật là lối trùng chƣơng điệp cú, các chƣơng thƣờng đƣợc lặp lại.
Lặp lại nhƣng mức độ cao hơn, sâu hơn do thay đổi một số từ. Điều đó một phần do sự
chi phới của âm nhạc, và có cả vũ đạo. Phạt đàn, Thạc thử khiến ta liên tƣởng đến vừa
hát vừa múa.
4.Văn điệu tự nhiên, không câu nệ số chữ, nổi bật nét dân ca, ca dao, tiết tấu uyển
chuyển, du dƣơng nhƣ có nhạc điệu.
Kinh thi có ảnh hƣởng sâu rộng đến các đời sau: điển tích sinh động, phong phú:
tang trung bộc thƣợng (trên bộc trong dâu) chỉ sự hẹn hò trai gái, đào yêu để chỉ ngƣời
con gái ít tuổi, cù lao chín chữ: công lao cha mẹ, chiếc bách: thân phận ngƣời phụ nữ,
cầm sắt: duyên vợ chồng… lối thơ 4 chữ bắt nguồn từ Kinh thi, các nhà lý luận, nhà thơ
đời sau mỗi khi chống lại các loại văn học hình thức chủ nghĩa đều kêu gọi học tập Kinh
thi (vì tính chân thực và hiện thực). Còn có thể xem Kinh thi là một loại “bách khoa toàn
thƣ” mà nghiên cứu bất cứ mặt nào trong đời sống tinh thần và xã hội của Trung Quốc cổ
đại đều không thể bỏ qua.

B.1.2.2.SỞ TỪ.
(2 tiết)
B.1.2.2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ SỞ TỪ VÀ KHUẤT NGUYÊN.
1-Nếu Kinh thi tiêu biểu cho văn hóa phƣơng Bắc thì Sở từ tiêu biểu cho văn hóa
phƣơng Nam (về triết học: Khổng Mạnh phƣơng Bắc, Lão Trang phƣơng Nam). Đến đây
nói qua một số điểm khác biệt giữa phƣơng Bắc và phƣong Nam về địa lý, văn hóa…
Phƣơng Bắc

Phƣơng Nam
-Địa lý: phía Bắc trên lƣu vực sông Trên lƣu vực sông Dƣơng Tử.
Hoàng Hà
-Khí hậu lạnh lẽo, khô khan, sản vật -Khí hậu ấm áp, cây cỏ xanh tƣơi, sản
thƣa thớt, nghèo nàn.
vật phong phú.
-Tính tình: vì phải cố gắng kiếm ăn nên -sống an vui, nhàn nhã, lãng mạn, thiên
thiên về lý trí, hiện thực.
về tình cảm, ít thực tế
-Phƣơng Bắc trọng sự hùng mạnh, -Phƣơng Nam trọng sự mềm mại, diễm
nghiêm túc (Hội họa có Lý Tƣ, bút pháp lệ ( Vƣơng Duy bút pháp mềm mại, chữ
nghiêm cẩn)
viết Vƣơng Hy Chi tƣơi đẹp, phóng
khoáng…)
-Là bƣớc phát triển mới so với Kinh thi, cùng với Kinh thi là hai viên ngọc quí
giá có tác dụng khơi nguồn cho sự phát triển của thơ ca cổ Trung Quốc: “Mạc bất đồng
tổ Phong Tao” (Thẩm Ƣớc thời Tề Lƣơng) tức là không có thơ ca nào mà không cùng tổ
tiên với Kinh thi (Phong) và Sở từ (Tao). Sở Từ tiếp theo Kinh thi, cũng phản ánh sâu
sắc hiện thực theo những nội dung xoáy sâu hơn và bằng một nghệ thuật trau chuốt hơn.
Kinh thi phản ánh những vấn đề xã hội chung chung, Sở Từ có nhân vật, hình tƣợng cụ
thể hơn, Kinh thi chủ yếu là thơ bốn chữ, ngôn từ giản dị trong sáng, Sở từ năm đến bảy
chữ, ngôn từ hàm súc mỹ lệ, văn pháp cách điệu uyển chuyển, thƣờng dùng trợ từ “hề”.


-Thể hiện sắc thái địa phƣơng rõ rệt: tác giả có tên họ, thân thế cụ thể. Giọng điệu,
sự vật, tên đất, tên sông, cỏ cây hoa lá đều là của đất Sở. Mang đậm nét cá tính qua lý
tƣởng, cảnh ngộ, nhiệt tình…
-Sở từ là tuyển tập thơ ca đƣợc Khuất Nguyên sáng tác theo một thể văn mới dựa
trên cơ sở những ca dao dân ca nƣớc Sở, ngƣời Hán gọi là thể Tao (vì thiên Ly Tao là tác
phẩm tiêu biểu) hoặc Sở từ (lời ca nƣớc Sở).

2-Khuất Nguyên (340-278 TCN). Khuất Nguyên tên Bình, Nguyên là tên chữ.
Ông ngƣời nƣớc Sở, sống vào nửa sau đời Chiến Quốc, lúc tình trạng bảy nƣớc Tần, Sở,
Tề, Ngụy, Triệu, Hàn (3 nƣớc này vốn là nƣớc Tấn), Yên (thất hùng) đang xâu xé và đi
vào giai đoạn quyết định, cũng là lúc nƣớc Sở từ chỗ cƣờng thịnh đi đến diệt vong. Dƣới
thời Sở Hoài Vƣơng, từng đƣợc trọng dụng, làm đến chức Tả đồ, chỉ dƣới lệnh doãn
(tƣơng đƣơng Tể tƣớng). Khuất Nguyên chủ trƣơng đối nội bằng biện pháp hạn chế đặc
quyền của bọn đại quí tộc, đối ngoại, chủ trƣơng liên Tề chống Tần (hợp Tung).
Lúc bấy giờ trong 7 nƣớc mạnh hình thành hai phái khác nhau: phái hợp tung do
Tô Tần khởi xƣớng, chủ trƣơng liên hiệp các nƣớc theo chiều dọc Nam Bắc ở phía đông
để chống Tần phía Tây; phái liên hoành do Trƣơng Nghi khởi xƣớng, chủ trƣơng liên
hiệp các nƣớc theo chiều ngang đầu hàng thỏa hiệp với Tần, tôn Tần là hoàng đế. Biết
khai thác và làm nổi bật đƣợc thế mạnh của Tần nên đi đến đâu Trƣơng Nghi cũng đƣợc
hoan nghênh. Nhƣng khi về nƣớc thì tình hình lại thay đổi, Trƣơng Nghi không đƣợc
trọng dụng, sáu nƣớc còn lại biết tin, lại quay sang chống Tần, tuy đƣờng lối liên hoành
không thành công trọn vẹn nhƣng hoạt động của Trƣơng Nghi cũng đã làm sứt mẻ khối
hợp tung, tạo nên những bất hoà, nghi kỵ, và Tần, với những ƣu thế sẵn có, tiếp tục phát
triển mạnh. Rốt cuộc, năm 221 TCN, sau khi lần lƣợt thôn tính các nƣớc lớn nhỏ, Tần
Doanh Chính lên ngôi hoàng đế, thống nhất toàn lãnh thổ, lập nên chế độ phong kiến
trung ƣơng tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc, chấm dứt những cuộc chiến tranh “vô
nghĩa chiến”.
Trở lại tình hình nƣớc Sở, lúc đầu Sở theo đƣờng lối “hợp tung”, sau Sở Hoài
Vƣơng ngu muội và bất lực, nghe lời những kẻ gian nịnh nhƣ Trịnh Tụ, Cận Thƣợng,
Hoài Vƣơng dần dần bỏ rơi Khuất Nguyên, cách chức Tả đồ, thậm chí còn đày đi Hán
Bắc. Sau khi Hoài Vƣơng bỏ mạng ở đất Tần, Khoảnh Tƣơng Vƣơng nối nghiệp, tình
hình chính trị nƣớc Sở càng thêm rối ren, Khuất Nguyên lại bị đày xuống vùng Giang
Nam và đến khi Sính đô bị quân Tần tấn công, tận mắt thấy trăm họ điêu linh, tan tác,
Khuất Nguyên nhảy xuống sông Mịch La tự tử, tƣơng truyền ông qua đời vào ngày 5.5
âm lịch, nhân dân thƣơng tiếc ông và có nhiều hình thức tƣỏng nhớ ông đã trở thành tục
lệ hàng năm trong dân gian.
Tác phẩm Khuất Nguyên gồm thơ, từ, phú, gọi chung là Sờ từ. Cửu chƣơng gồm

9 bài: Tích tụng (Tiếc làm thơ), Thiệp giang (Qua sông), Ai Sính (Thƣơng nhớ Sính
đô), Trừu tƣ (Tỏ bày tâm sự), Hoài Sa (Nhớ Trƣờng Sa), Tƣ Mỹ nhân (Nhớ ngƣời
đẹp), Tích vãng nhật (Nhớ xƣa), Bi hồi phong (Buồn nhớ gio1), đặc biệt là bài Quất
tụng (Ca tụng quýt), dùng vẻ đẹp của hoa, lá, quả quýt để biểu hiện phẩm chất trong
sạch của mình (cách miêu tả ẩn dụ giống Ly tao), ông miêu tả chùm rễ cắm sâu vào đất
để thể hiện tinh thần kiên định (giống nhƣ Nguyễn Trãi ca ngợi cây tùng “cội rễ bền, dời
chẳng động”). Cửu ca gồm 11 bài dân ca đƣợc Khuất Nguyên cải biên (Đông Hoàng
Thái Nhất, Đông quân, Vân Trung quân, Tƣơng quân, Tƣơng phu nhân, Đại tƣ
mệnh, Hà bá, Thiếu tƣ mệnh, Sơn quỷ, Quốc thƣơng, Lễ hồn), nói về việc tế các thần
mặt trời, núí, mây, nữ thần sông Tƣơng, thần coi việc sinh con… đặc biệt có bài Quốc
thƣơng (Hồn tử sĩ) có âm hƣởng văn tế các chiến sĩ trận vong.Thiên vấn là một bài thơ
độc đáo viết theo thể thơ 4 chữ gồm trên 170 câu hỏi về đủ các vấn đề tự nhiên, xã hội,
qua đó có thể thấy kiến thức uyên bác, khuynh hƣớng tƣ tƣởng khai sáng của nhà thơ,
cũng là dấu ấn của thời đại “trăm nhà đua tiếng”.


B.1.2.2.LY TAO-TÁC PHẨM TIÊU BIỂU NHẤT CỦA KHUẤT NGUYÊN VÀ
CỦA SỞ TỪ.
1.Ly tao gồm 373 câu, 2490 chữ, là bài thơ trữ tình cá nhân đầu tiên, thiên trƣờng
thi đầu tiên trong lịch sử thơ ca Trung Quốc. Có 3 cách giải thích nghĩa tên bài thơ: Lo
buồn trong chia ly( Ly tao giả, ly ưu giả- Tƣ Mã Thiên), Gặp phải điều lo âu (Ban Cố),
buồn bực (Du Quốc An), nhƣ vậy có thể xác định Ly tao đƣợc sáng tác lúc nhà thơ bị
vua Sở ruồng bỏ, có nghĩa là nỗi đau buồn chia ly, ở đây là chia ly với Sở vƣơng, với
Sính đô và nƣớc Sở.
2.Cảm hứng chủ đạo: Ly tao là thơ trữ tình, tác giả bộc bạch tâm sự. Ở đây tác giả
nói đến lịch sử, hoa thơm cỏ lạ, thế giới thần tiên… nhƣng đó chỉ là mƣợn ngoài để nói
trong, mƣợn ngƣời để nói mình.Mọi hình ảnh trong Ly tao đều nhuốm chung một cảm
hứng, đó là:Nỗi niềm cay đắng khi khát vọng làm giàu mạnh cho đất nƣớc bị vùi dập,
nhân cách bị bôi nhọ song song đó là tinh thần bất khuất, quyết không bỏ chính thay tà,
bỏ trong thay đục, thà chết để bảo toàn khí tiết.

3.Bài thơ chia làm 3 phần:
Phần 1: nặng về tả thực, trình bày gia thế và sự ra đời đẹp đẽ của mình, sự tu
dƣỡng bản thân và hoài bão to lớn muốn xây dựng đất nƣớc. Tiếp theo đó là những vấp
váp của nhà thơ trên con đƣờng chính trrị do sự mù quáng của nhà thơ và sự xúc xiểm
của bọn nịnh thần, tuy vậy nhà thơ vẫn kiên trì với lý tƣởng của mình.
Phần 2: đậm màu sắc lãng mạn, nhà thơ lên đƣờng đi tìm tƣơng lai tƣơi sáng, thổ
lộ tâm sự trong đền vua Thuấn, rồi ra đi khắp nơi tìm kiếm ngƣời bạn lòng, tìm đến
những thế giới hƣ ảo nhƣng đều thất bại.
Phần 3: Nhà thơ đi tìm thầy bói. Mâu thuẫn trong tâm trạng nhà thơ: Linh Phân
khuyên Khuất Nguyên bỏ nƣớc Sở mà đi song Vu Hàm khuyên nán lại chờ đợi. Nhìn
thực tế ngày càng tồi tệ của nƣớc Sở, Khuất Nguyên quyết định dứt áo ra đinhƣng tâm tƣ
vẫn xót xa, dằn vặt. Vừa mới lên đƣờng, nhìn lại quê hƣơng, nhà thơ không thể cất bƣớc.
Và Ly tao cũng kết thúc tại đây, đúng lúc nỗi đau khổ của nhà thơ đã đến độ tột cùng,
mâu thuẫn dƣờng nhƣ đã đến chỗ bế tắc (rời quê hƣơng thì không đành, ở lại thì không ai
hợp chí hƣớng) nhƣng thực chất đã đƣợc giải quyết viên mãn trên cơ sở lòng yêu nƣớc
nồng nàn, Ông chỉ còn con đƣờng “theo chân Bành Hàm” để giữ trọn khí tiết, đó cũng là
dự cảm về một kết thúc bi ai của cuộc đời nhà thơ.
Một số học giả đời Thanh lại có cách chia khác. Họ chia Ly tao làm 2 phần, phần
trên là thực (có hƣ), phần dƣới là hƣ (có thực). Rõ ràng thế giới hƣ ảo chỉ là cái bóng của
thế giới hiện thực. Thất bại trong hƣ ảo là sự phản ánh độc đáo thất bại trong hiện thực.
4.Giá trị tƣ tƣởng: Ly tao thể hiện đầy xúc động bi kịch Khuất Nguyên. Đó là bi
kịch của một nhà chính trị sáng suốt nhƣng không gặp thời, là bi kịch của một nhân cách
cao cả không chịu vƣớng bùn nhơ thế tục.
5.Giá trị nghệ thuật.
-Thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ độc đaó của Ly tao là khoa trƣơng mạnh mẽ, nhân
cách hóa và đặc biệt là ẩn dụ, tỷ dụ rất nhiều (chăm lo tu dƣỡng tài năng thì nói là uống
sƣơng sa, ăn hoa quí, khoác hoa thơm cỏ lạ lên mình cho thêm đẹp thêm xinh; đào tạo
ngƣời tài giỏi cho đất nƣớc thì nói là chăm bón vun xới hoa huệ, hoa lan; trung với vua
thì nói là chung thủy với ngƣời yêu; trách vua trƣớc trọng dụng sau ruồng bỏ thì nói là
ngƣời yêu thay dạ đổi lòng….). Bài thơ mang màu sắc lãng mạn rất rõ thông qua hàng

loạt chi tiết thần thoại, truyền thuyết, nhân vật lịch sử, thầy bói, mây, núi, sônghoa cỏ,
thú vật… đã tạo nên một bài thơ hoàn chỉnh, tráng lệ. Đọc Ly tao nhƣ bƣớc vào một rừng
hình ảnh nhƣng không rƣờm rà mà liên kết, nhất quán chạy suốt bài thơ.
Đất Sở thịnh hành Vu giáo, vì thế không ngạc nhiên khi Sở từ mang màu sắc thần
thoại sâu đậm, thời đại Khuất Nguyên, ngƣời Sở vẫn còn chìm đắm trong một thế giới
thần thoại + tƣởng tƣợng ly kỳ + tình cảm nồng cháy.


-Hiếm có bài thơ nào xúc động hàng bao thế hệ độc giả nhƣ Ly tao, mỗi chữ là
một tiếng thở dài, mỗi giọt nƣớc mắt, đó là những dòng thơ gan ruột, chân thành, tha
thiết. Lý Bạch nói:
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt.
Sở vương đài tạ không sơn khâu.
(thơ từ Khuất Nguyên vẫn sáng cùng mặt trăng, mặt trời.
Còn lâu đài của vua Sở đã biến thành gò hoang)
Không chỉ đối lập hai loại nhân cách mà còn khẳng định cái trƣờng cửu của văn
chƣơng nghệ thuật khi nó đạt đến chân thiện mỹ.
B.1.2.3.KẾT LUẬN.
-Xét về địa vị, Khuất Nguyên là nhà chính trị, nhƣng với thành tựu sáng tác, ông
đƣợc đời sau thừa nhận là bậc thầy thơ ca. Ông là ngƣời mở đầu cho thơ trữ tình lãng
mạn của Trung Quốc. Ly tao trở thành biểu tƣợng của thơ ca (nàng Ly tao, Tao đàn…).
Những thi nhân đời sau có cá tính và xúc cảm mạnh mẽ nhƣ Lý Bạch đều nhận đƣợc sự
gợi mở của Khuất Nguyên: khoáng đạt, tráng lệ, không gian mở rộng…
-Anh hƣởng của ông đối với đời sau không phải chỉ bằng thơ mà còn bằng cả
nhân cách, đạo lý làm ngƣời. Ông ảnh hƣởng sâu sắc đến các nhà thơ cổ điển Việt Nam
(Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Cao Bá Quát…), đặc biệt là Nguyễn Du. Hai lần đi
sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đều viếng Khuất Nguyên và làm tất cả 5 bài thơ vịnh Khuất
Nguyên:
Bất thiệp Hồ Nam đạo
An tri Tương thủy thâm,

Bất độc Hòai sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thủy
Thiên thu, vạn thu thanh kiến để.
(Không đi qua đƣờng Hồ Nam,
Làm sao biết sông Tƣơng sâu
Không đọc bài phú Hòai Sa,
Làm sao biết đƣợc tấm lòng Khuất Nguyên
Lòng dạ Khuất Nguyên trong suốt nhƣ nƣớc sông Tƣơng
Ngàn vạn năm vẫn nhìn thấy đáy)
-Năm 1953 toàn thế giới đã kỷ niệm 2230 năm sinh Khuất Nguyên. Nhân dân thế
giới đã xem tác phẩm của ông nhƣ một thành quả chung của nhân loại.

B.1.2.3. VĂN XUÔI- TẢN VĂN THỜI CHIẾN QUỐC.
( 1 tiết)
Về thơ ca có hai thành tựu lớn là Kinh thi và Sở từ thì về văn xuôi cũng có sự
phát triển rực rỡ. Bộ phận này đƣợc chia thành hai loại: Tản văn lịch sử và tản văn chƣ
tử.
B.1.2.3.1.TẢN VĂN LỊCH SỬ. (Văn ký sự)
Là các tác phẩm ghi chép, trình bày các sự kiện lịch sử song có giá trị văn
chƣơng.
Cuối thời Xuân Thu đầu thời Chiến Quốc mới bắt đầu có ngƣời thu thập, chỉnh lý,
biên soạn những trƣớc tác lịch sử. Bộ đầu tiên là Xuân Thu do Khổng Tử biên soạn, ghi
chép các sự việc từ khoảng –722 đến –480, văn phong ngắn gọn, súc tích nhƣng chỉ là
những tác phẩm sử học. Phải đến các bộ Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách… mới
đƣợc xem là thành tựu văn học.


-Tả truyện: là tên viết tắt của Tả Thị Xuân Thu truyện đƣợc viết theo biên niên,
Quốc ngữ viết theo từng nƣớc. Do Tả Khâu Minh ngƣời nƣớc Lỗ dựa vào bộ Xuân Thu

và một số sử liệu khác viết ra, những sự kiện lịch sử trong gần 3 thế kỷ đƣợc tái hiện
khéo léo và chân thật, đó là những cuộc chiến tranh phức tạp và ác liệt nhằm tranh bá đồ
vƣơng và thôn tính lẫn nhau của bọn vua chúa các nƣớc chƣ hầu, tác phẩm ít khi miêu tả
cảnh chiến trƣờng mà chú ý nhiều hơn đến quá trình chuẩn bị cũng nhƣ nêu hậu quả của
nó, đặc biệt là chú ý phản ánh tính chất chiến tranh và những nỗi đau khổ của dân chúng.
Cách trình bày sự việc rất khéo, rõ ràng mà không vụn vặt, cô đọng mà uyển
chuyển, đặc biệt hấp dẫn là miêu tả những trận đánh, qua đó nêu bật tính cách nhân vật:
Trận Tề và Lỗ ở Trƣờng Thƣợc (nhân vật Tào Uế), Trận Sở và Tống ở sông Hoành (Tử
Ngƣ), Trận Tần và Tấn ở Hào Sơn (Kiển Thúc)…
Tả truyện đạt đƣợc hiệu quả “không tả biển lớn mà nghe tiếng sóng, không vẽ núi
cao mà thấy nhấp nhô” (ví dụ chỉ qua tiếng khóc tiễn con của Kiển Thúc ta thấy đƣợc
bao điều: hình ảnh một hiền thần dũng cảm, có tầm nhìn xa trông rộng, tính chất phi
nghĩa của cuộc chiến do Tần phát động, tính quyết liệt của chiến tranh, sự thất bại thảm
hại tất yếu của Tần…), đặt cơ sở cho loại tiểu thuyết nhƣ Tam Quốc Chí diễn nghĩa đời
sau.
Tào Uế luận chiến đƣợc dạy ở bậc Sơ trung (trung học cơ sở) và Trận Hào Sơn
đƣợc dạy ở bậc Cao trung (phổ thông trung học) của Trung Quốc -> nhiều bài học sinh
động về chiến tranh bổ ích mà Tả truyện truyền lại cho hậu thế.
-Quốc ngữ: bộ biệt sử đầu tiên của Trung Quốc. Ghi chép những sự kiện lịch sử
quan trọng của một số nƣớc thời Xuân Thu. Đây là công trình của một số ngƣời kế tiếp
nhau hoàn thành vào thời Chiến Quốc. Quốc ngữ ít ghi sự việc mà ghi nhiều những câu
nói của một số nhân vật lịch sử. Nhiều đoạn văn khá hay, có ý nghĩa giáo dục.
-Chiến Quốc sách: tác giả chƣa biết, ghi lại những mƣu kế, sách lƣợc ngoại giao,
chính trị mà các biện sĩ nêu lên cho các vua chúa đƣơng thời, khẳng định vai trò kẻ sĩ
trong đời sống kinh tế xã hội cuối thời Đông Chu.
Giá tri nghệ thuật của bộ sách thể hiện ở việc khắc họa tính cách nhân vật: Phùng
Noãn (còn đọc là Phùng Huyên) trong thiên Phùng Noãn làm thực khách của Mạnh
Thƣờng Quân, Tô Tần với thuyết hợp tung, liên hoành… Tƣ Mã Thiên về sau chịu ảnh
hƣởng bộ sách này khi xây dựng một số nhân vật (Kinh Kha…); ở lối văn lƣu loát,
phóng túng, uyển chuyển; vận dụng những chuyện ngụ ngôn sinh động mà ngƣời Trung

Quốc ai cũng biết nhƣ “ngao cò tranh nhau, ngƣ ông đắc lợi”, “vẽ rắn thêm chân”, “cáo
mƣợn oai hổ”, “mất dê mới sửa chuồng”…
B.1.2.3.2.TẢN VĂN CHƢ TỬ. (văn nghị luận của các triết gia)
Còn gọi là tản văn triết học. Sau Xuân Thu, xã hội Trung Quốc có nhiều biến đổi
lớn do sản xuất phát triển, do sự rối ren của tình hình chiến tranh… Nhiều luồng tƣ tƣởng
đại biểu cho lợi ích của nhiều tầng lớp và giai cấp khác nhau xuất hiện, đây là thời kỳ sử
gọi là Bách gia tranh minh (trăm nhà đua tiếng), và Bách gia chƣ tử (một cách gọi khoa
trƣơng thực ra không có đến 100 nhà), nhờ vậy mà học thuật phát triển rất nhanh. Rất
nhiều trƣóc tác thể hiện sự tu dƣỡng nghệ thuật khá cao của tác giả. Đáng chú ý có các
bộ Luận ngữ, Mạnh Tử, Mặc Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử…
-Luận ngữ: Luận ngữ tuy không phải là một bộ sách lớn, nhƣng là một trong
những bộ sách kinh điển của Nho gia, thái độ về cuộc sống, quan niệm về tƣ tƣởng mà
nó thể hiện có một ảnh hƣởng sâu rộng trong lịch sử văn hóa và tƣ tƣởng của Trung
Quốc. Sách gồm 20 thiên, viết theo thể ngữ lục (văn xuôi thời cổ, ngôn ngữ nói miệng
nên đơn giản, rõ ràng), ghi lại những lời nói và hoạt động của Khổng Tử cùng một số học
trò của ông. Khổng Tử là ngƣời sáng lập ra đạo Nho. Tƣ tƣởng của ông về cơ bản là bảo
thủ (vì sinh ở phƣơng Bắc), ủng hộ lợi ích của tập đoàn quí tộc thống trị, tôn trọng đẳng


cấp, mặt khác có điểm tiến bộ đó là: tôn trọng hiền tài, đƣa ra những chính sách đúng đắn
về giáo dục, nghệ thuật.
-Mạnh Tử: cũng là bộ sách kinh điển của Nho gia, có tất cả bảy chƣơng, do Mạnh
Kha là học trò của Khổng Tử biên soạn. Phát huy những nội dung của Nho gia có cải
cách chút ít cho hợp thời. Trong văn xuôi của chƣ tử đời Tiên Tần, sách Mạnh Tử và
Trang Tử mang tính văn học rõ nét nhất. Về mặt nghệ thuật, có giá trị hơn Luận ngữ vì
sử dụng nhiều ngụ ngôn, tỷ dụ, văn hùng biện, dí dỏm, giàu sức thuyết phục.
-Mặc Tử: ghi lại học thuyết của Mặc Địch, ngƣòi sáng lập ra phái Mặc gia, cạnh
tranh ảnh hƣởng với Nho gia đƣơng thời. Xuất thân dân nghèo nên học thuyết của ông về
cơ bản đại biểu cho lợi ích của tầng lớp nông dân, tiểu thủ công và thƣong nhân. Chủ
trƣơng của ông là :kiêm ái, tiết dụng, phi công… tiến bộ nhƣng chỉ là ảo tƣởng trong xã

hội đƣơng thời. Văn chƣơng ông mộc mạc, chất phác, tự nhiên. Ông chủ trƣơng “thƣợng
chất” chứ không :thƣợng văn”, cốt thực dụng, không cần hoa mỹ, vì thế đọc văn ông thấy
rõ ràng, lý lẽ chặt chẽ, phân minh, khởi đầu cho lối văn biện luận sau này.
-Trang Tử: Trang Chu soạn, sống cùng thời với Mạnh Tử, tiếp thu tƣ tƣởng của
Lão Tử, tức là về mặt triết học đã nhìn thấy một số qui luật trong tự nhiên theo thuyết
duy vật nhƣng thô sơ. Về chính trị thì phủ nhận hiện thực, muốn quay về xã hội nguyên
thủy. Bộ sách này là tác phẩm triết học nhƣng không khô khan, nặng nề mà giàu ý vị văn
học, ngôn ngữ trong sáng tƣơi đẹp, khoa trƣơng mạnh bạo, ngụ ngôn sắc sảo…Sách
Trang Tử chính là bộ sách tiêu biểu cho thành tựu cao nhất của văn xuôi Tiên Tần

B.2.VĂN HỌC ĐỜI TẦN- HÁN
Chủ yếu là đời Hán vì nhà Tần chỉ tồn tại có 15 năm.

B.2.1. BỐI CẢNH XÃ HỘI.(1 tiết)
Năm 221 trƣớc CN Tần tiêu diệt đƣợc Tề, thống nhất Trung Quốc, dựng lên
vƣơng triều phong kiến chuyên chế trung ƣơng tập quyền đầu tiên trong lịch sử, nhƣng
nhà Tần chỉ tồn tại 15 năm, 3 đời vua, chính sự hà khắc, thuế khóa nặng nề, khởi nghĩa
nông dân nổi lên khắp nơi. Hạng Võ và Lƣu Bang đã dựa vào các lực lƣợng khởi nghĩa
để diệt Tần. Sau đó Lƣu Bang lại diệt Hạng Võ. Lên ngôi hoàng đế, lập nên nhà Hán.
Nhà Hán bắt đầu từ năm 206 trƣớc CN, chia làm hai thời kỳ: Tây Hán (-206đến 8
SCN), và Đông Hán (25-219), ở giữa là cuộc nổi lên rồi thất bại của Vƣơng Mãng.
Kinh tế Trung Quốc thời kỳ này phát triển khá mạnh: nông nghiệp có nhiều tiến
bộ về công cụ, thủ công nghiệp phát đạt kích thích hoạt động thƣơng mại, các thành thị
buôn bán ngày một nhiều lên: Lạc Dƣơng, Thành Đô, Lâm Truy, Dƣơng Lịch…
Về chính trị, nhà Hán sau khi ổn định trật tự xã hội ra sức xây dựng đế quốc Hán,
tiến hành mở rộng biên cƣơng, thôn tính nhiều bộ lạc và các nƣớc nhỏ lân cận.
Về văn hóa, vì là chính quyền chuyên chế nên có những biện pháp để bảo vệ và
tăng cƣờng sự thống trị của nó, tình trạng trăm nhà đua tiếng thời Chiến Quốc không thể
tồn tại nữa. Tần Thủy Hoàng khi tiến hành thống nhất văn tự, pháp lệnh, áo mão cũng
tiến hành khống chế tƣ tƣởng, sử thi các nƣớc (trừ Tần), thi thƣ, sách vở đều bị đốt hết,

460 nho sinh bị đem chôn sống, ông muốn dùng chính sách ngu dân và luật pháp nghiêm
khắc để thống trị đất nƣớc.
Khi nhà Hán lên thay, đã cho thu gom lại các sách đã bị đốt, thực thi chính sách
mềm dẻo hơn là “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” của Đổng Trọng Thƣ, thực chất
Nho học của Đổng khác với của Khổng Tử: duy trì và bảo vệ tuyệt đối quyền lực của nhà
vua, hoàn toàn mang tƣ tƣởng thống trị của nhà nƣớc.


B.2.2.TÌNH HÌNH VĂN HỌC.
Thời đại nhà Hán chính là thời đại mà giá trị văn hóa bắt đầu đƣợc trọng thị. Văn
học đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân (sự
xuất hiện của Hán phú là một thể loại hoàn toàn mang tính văn học, không dính đến sử,
triết…). Sáng tác văn học rất hƣng thịnh, số lƣợng dồi dào. Đã xuất hiện một nhóm
ngƣời chuyên hoạt động văn học, dựa vào tài năng văn học mà đƣợc quan chức, lấy việc
sáng tác văn học làm sự nghiệp chính. Đây là một đặc điểm nổi bật, hiện tƣợng này chƣa
từng có trong thời Tiên Tần (chỉ có nhà quân sự, ngoại giao… không có nhà văn, Khuất
Nguyên là nhà chính trị), từ đây về sau hiện tƣợng này là bình thƣờng. Từ đời Hán trở về
sau, dạng thức văn học mang tính địa phƣơng dần dần bị xoá mất, thay vào đó là dạng
thức văn học mang tính toàn quốc và lấy kinh đô làm trung tâm.
Sự hình thành một quốc gia trung ƣơng tập quyền khiến cho văn nhân đời Hán có
một tầm nhìn xa rộng hơn, từ đó sinh ra những tác phẩm lớn (chuyến đi của Tƣ Mã
Thiên có ý nghĩa tƣợng trƣng là vậy: ông có dịp đối diện không phải với các nƣớc chƣ
hầu mà là một thế giới hoàn chỉnh, rộng lớn, từ ý thức không gian và thời gian hoàn
chỉnh nhƣ vậy mới có thể miêu tả hoàn chỉnh tác phẩm của mình, do vậy mà bộ Sử ký có
quy mô chƣa từng có, đó chính là sản phẩm của thời đại)
Văn học Tiên Tần là nguồn cội của văn học Trung Quốc, có ảnh hƣởng sâu xa,
nhƣng những thể loại thời này về sau ít dùng (thơ 4 chữ và thể Tao…). Đời nhà Hán xuất
hiện nhiều thể loại văn học mới đặt nền tảng quan trọng cho đời sau: thơ ngũ ngôn, từ
phú, ai điếu, tụng…
Những thành tựu đáng chú ý của thời Hán là:

-Phú.
-Thơ ca nhạc phủ.
-Sử ký.
B.2.2.1.PHÚ.
Hay còn gọi là từ phú, vì đây là hình thức thoát thai từ Sở từ, là một thứ văn thể
đặc thù đứng giữa thơ và văn, lấy sự khoa trƣơng và phô diễn làm đặc trƣng, trong khi
Sở từ tuy có nhân tố văn xuôi hóa nhƣng vẫn là một loại thơ trữ tình, nồng nhiệt. Giả
Nghị (201-169 TCN) là nhà phú giai đoạn chuyển tiếp với hai bài Điếu Khuất Nguyên
phú và Phục điểu phú (phú chim bằng); Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ có nhiều bài phú nổi tiếng
lƣu danh (29 bài) nhƣng thất truyền chỉ còn 6 bài: Tử hƣ phú, Thƣợng lâm phú, Đại
nhân phú, Trƣờng môn phú, Mỹ nhân phú, Ai nhị thế phú. Hai bài đầu là sáng tác tiêu
biểu của ông và xác lập thể chế, cấu trúc một bài phú đển hình. Các tác giả sau này cơ
bản mô phỏng theo thể thức của hai bài nói trên, chỉ thay đổi đề tài và ngôn ngữ.
Điểm nổi bật của hai bài phú nói trên là phô trƣơng và hoa mỹ, điều này phản ánh
tinh thần của thời đại. Thời Hán Võ Đế, vật chất, tài nguyên dồi dào, bản đồ Trung Quốc
mở rộng, kinh tế phát triển… dục vọng bành trƣớng, vì thế những bài phú “khuyên trăm
châm biếm một” của Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ cũng một mặt thuận theo dục vọng của giai cấp
thống trị mà trở thành văn học bành trƣớng, một mặt lại tuân theo tƣ tƣởng Nho gia tranh
thủ nền tảng đạo đức “nhân nghĩa bề ngoài”. Nội dung hai bài phú đƣợc triển khai bằng
cách đối đáp qua một cái khung hƣ cấu: sứ giả nƣớc Sở đi sứ nuớc Tề khoe với vị đại
thần nƣớc Tề về phong cảnh đất Sở, rồi vị quan nƣớc Tề cũng không thua kém khoe non
sông nƣớc Tề hùng vĩ hơn. Bài phú dài hơn 4000 chữ chỉ để miêu tả chuyện đi chơi, săn
bắn. Lấy đó làm trung tâm để bao quát tất cả núi, biển, cung điện, ngự uyển, rừng rậm,
sản vật, chim muông, âm nhạc ca vũ, phục sức đồ dùng, tiệc tùng yến ẩm… tác giả đã
dùng một ngòi bút khoa trƣơng, ngôn từ hoa mỹ miêu tả một không gian vĩ đại tạo nên
một bức tranh hoành tráng, phong phú và một khí thế tráng lệ .
Hai bài phú đã thể hiện một ý thức và kỹ xảo tu từ cao độ, hoàn toàn loại bỏ
những từ ngữ giản đơn còn sót lại trong Sở từ. Về mặt hình thức câu, câu sáu chữ chỉ còn



đƣợc dùng để trang sức cho những đoạn quan trọng, câu bốn chữ đƣợc dùng nhiều nhất
chen với ba chữ và bảy chữ. Tuy vậy, ngôn ngữ đƣợc tu từ hóa cao độ khó tránh khỏi sự
trúc trắc khó hiểu, khô khan nặng nề (ví dụ Cung oán ngâm khúc của ta), nhƣng nếu bỏ
những khuyết điểm đó thì đặc điểm cơ bản của phú cũng không còn tồn tại nữa.
B.2.2.2.THƠ CA NHẠC PHỦ.(2 tiết)
1.Tình hình chung về nhạc phủ.
Đầu tiên nó chỉ cơ quan nhà nƣớc (quan phủ) chủ quản về âm nhạc, đặc biệt phát
triển vào đời Hán Vũ Đế, nhiệm vụ cụ thể của nó bao gồm việc chế định nhạc phổ, huấn
luyện nhạc công, sƣu tập dân ca, sáng tác ca từ. Đặc biệt việc sƣu tập dân ca phát triển
rất mạnh, từ các địa phƣơng trải rộng ra cả nƣớc. Có bốn loại nhạc phủ đời Hán là: Giao
miếu ca từ, Cổ súy khúc từ (quân nhạc), Tƣơng hòa ca từ, Tạp khúc ca từ (những tác
phẩm đã bị thất truyền). Giao miếu là các nhạc chƣơng do các văn nhân sáng tạo để dùng
vào việc cử hành điển lễ của triều đình. Còn dân ca chủ yếu ở ba loại sau, nhất là trong
loại Tƣơng hòa.
2.Thành tựu của nhạc phủ dân ca đời Hán.
Nhạc phủ dân ca đƣợc xem là sáng tác trong dân gian, có sức sống mãnh liệt, nên
có địa vị cao trong văn học sử Trung Quốc, thƣờng đƣợc ví là Kinh thi thời Hán. Vì sao
gọi là Kinh thi thời Hán, có một số đặc sắc của Kinh thi nhƣng lại còn phát triển hơn, đó
là:
+Mang hơi hƣớng cuôc sống rất đậm đà, lần đầu tiên phản ảnh rất cụ thể nỗi khó
khăn và đau khổ trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân tầng lớp dƣới (lƣu ý là các thể
loại khác nhƣ Từ phú, Sử ký chỉ ghi chép một số giai cấp đặc thù, ít có nhân dân lao
động), chỉ có phần Quốc Phong trong Kinh thi có vài bài nhƣ Phạt đàn, Tháng Bảy…
nhƣng chỉ kể lại một cách khái quát, không cụ thể và sâu sắc. Còn trong nhạc phủ, nhiều
bài rất mới mẻ: Phụ bệnh hành (Một ngƣời phụ nữ bị bệnh nặng, trƣớc khi chết dặn
chồng nuôi con đừng hắt hủi chúng, nhƣng sau khi bà chết, con đói, phải đi xin ăn, lại
còn không biết mẹ đã chết nên khóc đòi mẹ.., rất cảm động), bài Cô nhi hành (cô nhi
con một gia đình giàu có, nhƣng sau khi cha mẹ chết, trở thành nô lệ trong nhà anh ruột
và chị dâu của mình, chịu đựng gió sƣơng phong trần “trên đầu đầy chấy, mặt mũi bám
đầy bụi bặm, thế nhưng vẫn không được nghỉ ngơi. Anh cả bảo nấu cơm, chị dâu bảo

chăn ngựa”, “sáng sớm đi gánh nước, chiều tối mới về nhà”, “mùa đông không áo ấm,
mùa hè không áo đơn”…., đây là thực trạng của ngƣời dân tầng lớp dƣới bấy giờ.
->mở đầu cho một đặc điểm rõ rệt trong thi ca Trung Quốc, đó là phản ánh sự đau
khổ trong cuộc sống.
+Đặt nền tảng cho thi ca kể chuyện, từ trƣớc chỉ là thơ trữ tình làm chính. Khoảng
1/3 số nhạc phủ dân ca là thơ kể chuyện. Để phản ánh sâu sắc cuộc sống, không gì tốt
hơn hình thức kể chuyện tự sự. Thơ kể chuyện trong nhạc phủ dân ca thƣờng ngắn gọn,
chọn lựa những sự kiện điển hình để biểu hiện, mâu thuẫn tập trung vào một điểm, khỏi
trình bày dài dòng. Ví dụ bài Diễm ca hành (ngƣời làm thuê đƣợc chủ nhà vá áo giúp
khiến ông chủ ghen ghét, ngƣời làm thuê than vãn thế này thì về quê sƣớng hơn, nhƣng
trở về thì làm gì, nếu không bị cuộc sống dồn ép thì họ đâu phải bỏ xứ ra đi? Tuy sự việc
ngắn ngủi nhƣng làm ngƣời đọc liên tƣởng biết bao khó khăn vất vả của ngƣời lƣu lạc),
bài Thập ngũ tòng quân chinh càng nổi bật hơn ( “Thập ngũ tòng quân chinh, bát thập
thủy đắc quy. Đạo phùng hương lý nhân: “Gia trung hữu a thùy?”, “Dao khán thị quân
gia, tòng bách chủng lũy lũy”. Thố tùng cẩu đậu nhập, trỉ tùng lương thượng phi. Trung
đình sinh lữ cốc, tỉnh thượng sinh lữ quỳ. Thung cốc trì tác phạn, thái quỳ trì tác canh.
Canh phạn nhất thời thục, bất tri di a thùy. Xuất môn đông hướng khán, lệ lạc triêm ngã
y.”. Dịch nghĩa: Mười lăm đi lính trận, tám mươi mới trở về. Trên đường gặp người
quen: “nhà tôi còn ai kìa?”, “Xa trông ấy nhà ông, tòng bách và mộ buồn”. Thỏ rừng


chui lỗ chó, nóc nhà trĩ rừng bay. Sân giữa đầy lúa dại, giếng kia quỳ rừng bao. Giọt lúa
để nấu cơm, hái quỳ để làm canh. Cơm canh đều chín cả, nhưng biết để dành ai? Ra cửa
nhìn về đông, áo tôi lệ ướt rồi.->Bài thơ chỉ có 16 câu mà hàm lƣợng của nó rất lớn, 65
năm sống trong quân ngũ, lúc nào cũng nhớ quê hƣơng, đến khi trở về thân nhân đã ra đi
vĩnh viễn. Một lão già tóc bạc đối diện với ngôi nhà hoang vu để nát, cuộc sống thực là
đau khổ.
+Sự thể hiện sôi nổi, trực tiếp và nồng nàn, không nhƣ Kinh thi còn ôn hòa và
khuôn khổ (có thế Khổng Tử mới khen ngợi chứ), còn thơ ca nhạc phủ diễn đạt rất mãnh
liệt, dù là nói về chiến tranh, tình yêu, quê hƣơng, đều dốc hết tình cảm không hạn chế

(tiếp thu của Sở từ). Ví dụ hai bài sau:
Chiến thành nam: Chiến thành nam, tử quách bắc, dã tử bất táng ô khả thực. Vi
ngã vị vô: “Thả vi khách hào! Dã tử lượng bất táng, hủ nhục an năng khứ tử đào?”.
Thủy thanh kích ích, bồ vĩ minh minh, hiếu kỵ chiến đấu tử, nô mã bồi hồi minh…”. Dịch
nghĩa: Đánh thành nam, chết quách bắc. Chết ngoài đồng không chôn, quạ ăn xác mất.
Nhưng hãy giúp tôi nói với quạ: “Hãy khóc cho người chiến binh tha phương này đi,
chết ngoài đồng tất nhiên không được chôn. Vậy mớ thịt thối kia sao thoát khỏi mỏ nhà
ngươi?”. Tiếng nƣớc chảy róc rách, lau sậy mọc âm u. Ngƣời kỵ binh dũng cảm đã chết
trận, còn con ngựa thì cứ mãi hí dài…->chiến trƣờng sau trận đánh quạ bay vần vũ tìm
thi thể ngƣời chết kiếm ăn, diễn tả cảnh chiến tranh ác liệt và bi thƣơng nhƣ vậy, trong
Kinh thi không hề thấy bóng dáng.
Thượng tà: Thượng tà!Ngã dục dữ quân tương tri, trường mệnh vô tuyệt suy. Sơn
vô lăng, giang thủy vi kiệt, đông lôi chấn chấn, hạ vũ tuyết, thiên địa hợp, nải cảm dữ
quân tuyệt!”. Dịch nghĩa: Trời ơi! Em muốn được tương thân tương ái với chàng, kéo dài
mãi mãi không bao giờ chấm dứt. Chỉ khi nào núi non sông cạn, mùa đông sấm nổ ầm
ầm, mùa hè tuyết rơi lả tả, trời đất dính nhau làm một, thì em mới tuyệt tình với chàng!> Bài thơ giản đơn, nhƣng có sức mạnh, nhân vật đã dùng 5 hiện tƣợng tự nhiên không
thể xảy ra đƣợc để bày tỏ tình yêu mãnh liệt. Trong Kinh thi tình yêu bao giờ cũng lý trí,
bình tĩnh. Đây là một nỗ lực đòi giải phóng tình cảm của nhân dân lao động.
3.Mạch Thƣợng Tang và Khổng Tƣớc Đông Nam Phi.
Là hai tác phẩm ƣu tú nhất trong dân ca nhạc phủ, cũng là tiêu biểu cho thơ kể
chuyện.
Mạch Thƣợng Tang: có một nguồn gốc sâu xa, phụ nữ Trung Quốc hay đi hái lá
dâu nuôi tằm vào mùa xuân, cũng là nơi trai gái gặp nhau hẹn hò, nhƣ bài Thập mẫu chi
gian trong Kinh thi, câu thơ Tang gian bộc thƣợng (trên bộc trong dâu) ngụ ý chuyện trai
gái là vì vậy.
MTT còn có tên là Diễm ca La Phu hành, là một bài thơ vui viết về một cô gái
đẹp tên là Tần La Phu (là tên gọi chung các cô gái đẹp thời nhà Hán) đang hái dâu tại
Nam Ngung, mọi ngƣời trông thấy cô đều ái mộ: “Người đi đường thấy La Phu, đặt
gánh vuốt râu nhìn. Thiếu niên thấy La Phu, lột nón sửa búi tóc.Người cày quên cả cày,
người cuốc quên cả cuốc. Ai nấy quên giận hờn, chỉ ngồi ngắm La Phu. Sứ quân từ nam

đến, năm ngựa đứng chần chừ…Sứ quân hỏi La Phu: “Chịu ngồi chung xe
không?”….La Phu dứt khoát từ chối và đem chồng mình ra khoe khoang…: “Sứ quân tự
hữu phụ, La Phu tự hữu phu…”, “Da dẻ sạch và trắng, hàm râu lại khá dài. Bước đi
thực chững chạc, chầm chậm trong phủ riêng. Giữa nơi đông nghìn người, đều bảo
chồng tôi xinh.” để từ chối dứt khoát lời tỏ tình của sứ quân. Tác giả bài thơ không có ý
thể hiện theo hƣớng một cảnh tƣợng lãng mạn giữa đôi trai gái bất ngờ gặp nhau, mà
muốn đi theo hƣớng luân lý đạo đức chính thống. Tác phẩm lấy tính lãng mạn để mở đầu
câu chuyện, rồi lại lấy sự hài hƣớc để kết thúc để tránh lối thuyết giáo đạo đức khô khan
vô vị, vì thế thỏa mãn tâm lý quần chúng. Bài thơ có ảnh hƣởng lớn, những thi nhân đời
sau nhƣ Tào Thực, Lục Cơ, Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị có mô phỏng theo nó.


Khổng Tƣớc Đông Nam Phi: là câu chuyện có thật, toàn bài thơ dài 353 câu,
1765 chữ, là bài thơ kể chuyện dài hiếm thấy trong nhạc phủ dân ca và trong thi ca Trung
Quốc. Bài thơ viết về một bi kịch gia đình thƣờng thấy trong xã hội phong kiến. Tiêu
Trọng Khanh thƣơng yêu ngƣời vợ là Lƣu Lan Chi nhƣng mẹ của Tiêu lại không thích
con dâu, mâu thuẫn ngày càng quyết liệt, mẹ mắng chửi thậm tệ rồi bắt cƣới vợ khác,
Tiêu bảo vợ về nhà cha mẹ một thời gian rồi sẽ tính. Thế nhƣng khi về nhà lại bị ngƣời
anh ruột ép nàng lấy ngƣời khác, quá bế tắc, Lƣu Lan Chi quyết tìm đến cái chết. Tối
trƣớc khi đám cƣới, Lƣu và Tiêu ôm nhau tự sát. Hai nhà chôn chung họ vào một ngôi
mộ. ->Bi kịch phản ánh số phận bi đát của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến, không
đƣợc quyền định đoạt số phận của mình. Thành công của bài thơ là miêu tả tâm lý sinh
động, sử dụng thuần thục thể thơ 5 chữ, diễn tả tình yêu kéo dài vô tận kể cả khi chết
(giống Romeo và Julliette), ngƣời đời sau rất yêu thích, nhiều tác phẩm dân gian chịu
ảnh hƣởng sâu sắc bài thơ này nhƣ Lƣơng Sơn Bá- Chúc Anh Đài…
B.2.2.3.SỬ KÝ.( 3 tiết)
Phú của Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ và Sử ký của Tƣ Mã Thiên có chỗ giống nhau về mặt
biểu hiện ý thức thời đại, nhƣng nhƣ vậy không có nghĩa là về mặt tƣ tƣởng nghệ thuật
nhƣ nhau. Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ viết ra những bài phú phù hợp vớ ý thích của nhà vua, còn
Tƣ Mã Thiên trái lại duy trì đƣợc lập trƣờng độc lập của một học giả, Sử ký chẳng những

có một khí phách hùng hồn, phản ánh đƣợc áp lực của chế độ quân chủ chuyên chế đè
nặng lên tƣ tƣởng và văn hóa trong xã hội, mà còn ý thức đƣợc mâu thuẫn xã hội phúc
tạp, thể hiện những ƣu tƣ sâu sắc đối với xã hội và lịch sử của ngƣời cầm bút… là những
điều mà Hán phú không thể có đƣợc.
1.Tác giả.
Nếu nhƣ Khuất Nguyên viết Ly tao bằng cả cuộc đời bi kịch phẫn uất của mình
thì Tƣ Mã Thiên cũng viết Sử ký bằng cả cuôc đời căm hờn tủi nhục trong xã hội phong
kiến bất công tàn bạo.
Về cuộc đời Tƣ Mã Thiên có những điểm đáng chú ý sau đây:
1.Tƣ Mã Thiên (145-87 TCN) tự Tử Trƣờng, quê quán thuộc Thiểm Tây ngày
nay. Cha ông là Tƣ Mã Đàm, một học giả uyên bác, rất chú ý đến sự giáo dục con cái.
Năm 10 tuổi theo cha lúc này là Thái Sử lệnh đến Trƣờng An học với nhiều học giả nổi
tiếng thời bấy giờ nhƣ Đổng Trọng Thƣ, Khổng An Quốc…Tƣ Mã Đàm là một ngƣời
viết sử chân chính, dũng cảm bảo vệ sự thật (ví dụ: nhà chép sử nƣớc Tề vì chép việc
Thôi Trữ giết vua nên bị Thôi Trữ chém, ngƣời em lên thay vẫn chép “ Thôi Trữ giết anh
là Trang Công”, cũng bị giết, ngƣời em thứ ba lên thay vẫn chép thế, Thôi Trữ không
dám giết nữa.). Tƣ Mã Đàm có ý định viết sử nhà Hán, nhƣng chƣa kịp làm thì chết, lúc
đó Tƣ Mã Thiên 30 tuổi. Ông dặn con phải thực hiện ý định đó của mình.
2.Năm 20 tuổi, ông bắt đầu đi chu du khắp nơi, thăm những di tích lịch sử, những
nhân vật lịch sử mà trong truyền thuyết có nói đến:lên núi Cối kê nghe chuyện Việt
Vƣơng Câu Tiễn, đến sông Mịch La khóc Khuất Nguyên, lên miền Bắc thăm quê Khổng
Tử, thăm di tích Mạnh Thƣờng Quân, thăm quê Lƣu Bang, … Về sau ông lại theo vua
Võ Đế đi nhiều nơi, dấu chân ông in khắp các địa phƣơng trong cả nƣớc. Đến đâu ông
cũng hỏi han, ghi chép về hình thể sông núi, phong thổ, nhân tình, truyền thuyết. Những
cuộc chu du này làm cho tƣ tƣởng và nhãn quang của ông đƣợc mở rộng, giúp ông sƣu
tập đƣợc nhiều tài liệu…có tác dụng rất lớn khi ông viết bộ Sử ký sau này.Thời bấy giờ
giao thông đi lại khó khăn, trộm cƣớp nhƣ ong, việc đi du lịch của ông là một hành động
dũng cảm của ngƣời làm công tác khoa học.
3.Họa Lý Lăng. Sau khi cha chết, ông nối nghiệp cha làm Thái sử lệnh, bắt đầu
tìm đọc, nghiên cứu các sử liệu, chuẩn bị cho việc viết sử thì xảy ra họa Lý Lăng. Lý

Lăng là cháu của Lý Quảng (Lý tƣớng quân liệt truyện), năm 99 TCN cầm quân chống


trả sự xâm nhập của Hung nô. Sau nhiều trận chiến bị thất bại, Lý Lăng đã đầu hàng. Võ
đế hết sức giận dữ. Tƣ Mã Thiên dâng sớ trần tình về việc Lý Lăng đầu hàng là bất đắc
dĩ, sau này chắc chắn sẽ có cơ hội báo đáp lại Hán triều. Sự biện hộ của Tƣ Mã Thiên
làm cho vua Võ đế thêm tức giận, bắt giam ông, giao pháp quan xét xử. Ông bị cung
hình (một trong năm hình phạt thảm khốc thời cổ: khắc vào mặt, xẻo mũi, cắt dƣơng vật,
chặt chân, cắt đầu). Luật nhà Hán có thể dùng tiền chuộc, nhƣng nhà nghèo, bạn bè
không ai giúp, ông không còn cách nào khác. Qua sự kiện này, Tƣ Mã Thiên có một sự
nhận thức mới đối với quyền lực tuyệt đối của nhà vua chuyên chế, cũng nhƣ đối với
cảnh ngộ trong cuộc đời luôn bị sức mạnh từ bên ngoài chi phối. Trong nhà giam, nhiều
lần ông định tự tử, nhƣng ông lại không bằng lòng kết thúc mạng sống quí báu của mình
trƣớc một tình huống hoàn toàn không có giá trị nhƣ vậy, ông noi gƣơng Khổng Tử (giữa
thời loạn vẫn viết kinh Xuân Thu), Khuất Nguyên (bị đi đày vẫn viết Ly Tao), lấy việc
viết sử làm mục tiêu tối cao trong cuộc đời. Đó cũng là một hình thức phản kháng mà
ông áp dụng đối với sự lạm dụng quyền uy của nhà vua và sự tàn bạo của số mệnh. Vào
năm 93 TCN, ông dã hoàn thành bộ Sử ký , tất cả 12 năm để hoàn thành trƣớc tác vĩ đại
này.
Sử ký nguyên có tên là Thái Sử Công Thƣ, đến cuối đời Đông Hán mới đƣợc gọi
là Sử ký. Đó là một trƣớc tác có hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên do một cá nhân hoàn
thành. Toàn bộ sách có 130 quyển, hơn 52 vạn chữ.
2.Giá trị sử học của Sử Ký.
Đây là bộ sử đầu tiên của loài ngƣời viết về một dân tộc trong thời gian gần 3000
năm từ Hoàng đế đến Hán Vũ đế. Đây cũng là một bộ sử hết sức đặc biệt vì bao gồm mọi
mặt của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, luật pháp… là bộ bách khoa toàn thƣ
của Trung Quốc thời cổ. Quách Mạt Nhƣợc nói: “Công lao của Tư Mã Thiên so với
Khổng Tử không hơn không kém”.
Sử ký có 5 phần: Bản kỷ, biểu, thƣ, thế gia, liệt truyện.
-Bản kỷ: ghi chép sự tích các đế vƣơng (ngũ đế: Hoàng đế, Chuyên Húc, Cốc,

Nghiêu, Thuấn; Hạ, Thƣơng, Chu, Tần, Hạng Vũ, Hán Cao Tổ, Lữ Hậu, Hiếu Văn, Hiếu
Cảnh, Hiếu Vũ), tất cả 12 bản kỷ. Đặc biệt ông làm bản kỷ cho Hạng Vũ dù Hạng chƣa
làm vua nhƣng có công lớn trong việc tiêu diệt Tần; làm bản kỷ cho Lữ Hậu mà không
cho Hiếu Huệ đế vì trên thực tế Lữ Hậu thao túng mọi quyền hành. Nghĩa là ông đánh
giá địa vị của nhân vật lịch sử dựa vào thành tựu thực tế của họ chứ không phải dựa vào
việc họ có một thứ danh vị nào đó.Bản kỷ không chỉ ghi chép niên biểu mà còn đi sâu
vào các sự kiện, tính cách các nhân vật. Nó là sử mà cũng là văn học, một loại truyện ký.
-Biểu: là dùng hình thức biểu mẫu để chia các sự kiện trong từng thời kỳ lịch sử
căn cứ vào niên đại. Có 10 biểu, là những công trình sử học rất nghiêm túc và có giá trị.
-Thƣ: Ghi chép những kiến thức chuyên môn trong nhiều lĩnh vực, gồm 8 thƣ nhƣ
Lễ thƣ, Nhạc thƣ, Luật thƣ, Lịch thƣ, Thiên quan thƣ, Phong thiện thƣ (cúng bái), Hà cừ
thƣ( sông đào ), Bình chuẩn thƣ.
-Còn Thế gia và Liệt truyện mang nhiều tính văn học nên không nói ở đây.(giải
thích: Thế gia là những gia tộc cha truyền con nối, những truyện ký về các nhân vật đƣợc
thờ cúng nhiều đời nhƣ Khổng Tử, Trần Thắng… ; Liệt truyện là phần ghi chép những
câu chuyện về nhân vật không ghi ở Bản kỷ và Thế gia). Ngoài ra còn một bộ phận ghi
chép lịch sử các dân tộc ở vùng biên cƣơng Trung Quốc.
Nhìn chung, với tƣ cách là một bộ sử, Sử ký có những ƣu điểm sau:
-Thái độ của ông là thái độ phê phán chứ không ca ngợi, nhất là đối với lịch sử
của vƣơng triều nhà Hán, với thể chế chính trị đƣơng thời, trƣớc sau ông dùng ngòi bút
lạnh lùng, khách quan, chính sử của các triều đại sau Sử ký, phần lớn đều do triều đình
chủ trì, dựa theo ý chí của nhà vua để biên soạn, trái lại Tƣ Mã Thiên tuy là sử quan của
triều đình nhƣng lại không thể hiện ý chí của ngƣời thống trị tối cao là vua Hán Vũ Đế,


nghe đâu có vài đoạn còn làm ông vua này tức giận, đòi xé bỏ. Ông vạch trần những sai
trái của cả nhà vua khai sinh ra triều Hán là Lƣu Bang, chỉ rõ những tiêu cực trong triều
đình: vua sử dụng bọn quan lại tàn ác, bao che ngƣời thân, mê tín cầu tiên, bon chen, đấu
đá nhau… Sự phê phán đó không phải là bôi đen hay phủ định một cách đon thuần mà là
sự ghi chép lịch sử thể hiện cá tính nhân vật một cách cụ thể và đáng tin, từ đó đƣa ra

môt cái nhìn hoài nghi và suy tƣ sâu sắc: thì ra những ngƣời giành đƣợc địa vị cao chƣa
chắc là phẩm chất cao quý, còn nhửng ngƣời thất bại thì trái lại (ví dụ trƣờng hợp Lƣu
Bang và Hạng Vũ). Thể tài sử học của Sử ký, lần đầu tiên lấy con ngƣời là trung tâm để
ghi chép lịch sử, khác với trƣớc lấy sự kiện lịch sử, thời gian lịch sử làm trung tâm, con
ngƣời chƣa đƣợc chú ý đầy đủ. Viết về triều đại mình sống là dũng cảm, khen chê không
nể nang lại càng dũng cảm. Thông thƣờng các sử gia Trung Quốc chỉ viết về những triều
đại đã qua và nếu có viết về triều đại mình đang sống thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ ghi
chép sự việc không bình phẩm. Đó là thái độ dũng cảm bảo vệ sự thật, chính nhờ vậy mà
ngày nay chúng ta còn những trang sách nói rõ sự thật đời Hán.
-Quan điểm của Tƣ Mã Thiên là quan điểm duy vật và khoa học. Ông không thần
bí hóa vua chúa, coi việc trị vì của dòng họ là mệnh trời. Theo ông, sự thay đổi các triều
đại là có quy luật, là sự vận động của lịch sử. (các sử gia đời sau huyền bí hóa sự xuất
hiện của Lƣu Bang, ông thì không, ông miêu tả Lƣu Bang từ lúc xuất thân, đến lúc cùng
nông dân khởi nghĩa… cách lý giải việc dựng nghiệp của Lƣƣ Bang là có thực và thuyết
phục).
-Bám chắc vào sự thật, nhân vật của Tƣ Mã Thiên có một độ tin cậy khá cao, đó là
do ông tôn trọng sự thật. Quan niệm này khác xa những nhà viết sử Hy Lạp, La Mã cổ
đại (trừ Thuxiđit), họ thƣờng xem sử là một công trình nghệ thuật, nhân vật thƣờng có
những bài diễn văn rất hay nhƣng là do tác giả viết ra, không ai lấy đó làm cơ sở chính
cho việc nghiên cứu Hy Lạp, La Mã cả. Còn Sử ký trƣớc nay vẫn là uy tín lớn nhất của
cổ sử Trung Hoa.
-Ông có quan điểm nhân dân khi viết sử. Lịch sử không phải do vua chúa tạo nên
mà là quảng đại quần chúng. Ông ca ngợi Trần Thiệp, Ngô Quảng, những lãnh tụ khởi
nghĩa nông dâ, chính những cuộc khởi nghĩa này là tiền đề cho sự sụp đổ của đế chế Tần.
Tóm lại, với tƣ cách là một nhà viết sử, Tƣ Mã Thiên đã đứng trên lập trƣờng
nhân dân, có thái độ khoa học và đã dũng cảm bảo vệ chân lý. Sử ký do đó trở thành một
bộ sử có giá trị khoa học cao.
III. Giá trị văn học của Sử ký.
Lỗ Tấn gọi Sử ký là “văn vận chi Ly Tao” (Thiên Ly tao viết bằng văn xuôi). Trừ
Thƣ và Biểu ra, Liệt truyện, Thế gia, Bản kỷ là những tác phẩm truyện ký sinh động,

chân thực, nét cá tính nhân vật cao. Liệt truyện có thể coi là những tác phẩm văn học
hoàn chỉnh. Giá trị văn học của sử ký ở những mặt sau: nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật
xây dựng nhân vật và ngôn ngữ.
1.Nghệ thuật kể chuyện: sử gia tiên Tần là những nhà kể chuyện khá hứng thú và
đó chính là nguồn tƣ liệu nhất định cho Sử ký. Tuy vậy, sử tiên Tần chủ yếu vẫn là ghi
chép, kể lại những sự kiện lịch sử có đầu có đuôi một cách hoàn chỉnh, thái độ kể chuyện
mang tính sử học (thông qua những sự kiện đó bày tỏ thái độ- phê phán hay khen chê về
mặt chính trị và đạo đức). Tƣ Mã Thiên trái lại, ngoài ghi chép, kể lại sự việc còn cố
gắng tái hiện cảnh tƣợng từng xảy ra trong lịch sử và ý thức hoạt động của nhân vật,
phản ánh mạnh mẽ nhiều mặt sinh hoạt của loài ngƣời, vì thế thái độ kể chuyện của Tƣ
Mã Thiên mang tính văn học rõ rệt.
*Phƣơng thức kể chuyện cơ bản trong Sử ký là kể lại một cách khách quan, đứng
ngoài sự kiện, luôn ở ngôi thứ ba. Chỉ có phần bình sau cùng, ông mới xuất hiện với tƣ
cách là ngƣời luận bàn.->tạo một không gian xoay trở rất rộng cho ngòi bút. Tuy vậy ông


cũng bộc lập trƣờng và khuynh hƣớng của mình thông qua so sánh những hoạt động
khác nhau của các nhân vật lịch sử, sự triển khai các sự kiện lịch sử.
*Lối kể chuyện sống động nhƣ thật, tạo ra chuỗi chuyện kể liên hoàn (truyện Tín
Lăng Quân là do những câu chuyện nhƣ thân nghinh Hầu Sinh, trộm phù cứu Triệu…;
truyện Liêm Pha và Lạn Tƣơng Nhƣ thì gồm hoàn trả ngọc cho nƣớc Triệu, cuộc họp tại
Mãnh Trì, tự mang roi đến tạ tội…-> câu chuyện phức tạp, biến hóa, hấp dẫn chứ không
đơn giản, một chiều), chuyện về nhân vật này liên quan đến nhân vật khác và có thể xem
qua lại để bổ túc tính cách nhân vật (tính cách Ngũ Tử Tƣ đƣợc bổ túc trong phần viết về
Việt vƣơng Câu Tiễn, Ngô vƣơng Phù Sai; của Lƣu Bang trong phần viết về Hạng Võ và
ngƣợc lại, của Lã Bất Vi trong phần nói về Lý Tƣ liệt truyện, Tần Thủy Hòang bản kỷ…)
*Lối kể chuyện đầy kịch tính: Tƣ Mã Thiên thích triển khai những câu chuyện
trong hoàn cảnh hiện thực có sự xung đột mâu thuẫn gay gắt, nhân vật tự mình trực tiếp
hành động, thể hiện bản thân làm cho đ6ọc giả quên mất sự tồn tại của nhân vật ngƣời kể
chuyện (câu chuyện về Lý Quảng, câu chuyện Hồng môn yến…), lối kể chuyện này có

rất nhiều ƣu điểm: hiệu quả văn học rất hiện thực, mang tính khẩn trƣơng tạo sức hấp dẫn
cho tác phẩm khỏi phải diễn giải dài dòng, qua xung đột gay gắt dễ bộc lộ tính cách nhân
vật.
2.Nghệ thuật xây dựng nhân vật: trong Tả truyện, Chiến Quốc sách một số nhân
vật có cá tính nhất định, tuy vậy miêu tả nhân vật chỉ là vụn vặt trong quá trình kể
chuyện, thiếu tính hoàn chỉnh. Sử ký đã nâng cao, phát triển nghệ thuật xây dựng nhân
vật lên một bƣớc cao hơn với những đặc điểm rõ rệt, để lại nhiều nhân vật khá ấn tƣợng.
-Hàng nghìn nhân vật sống động với đủ mọi tầng lớp, mọi số phận. Từ đế vƣơng
(Lƣu Bang, Hạng Võ, Tần Thủy Hoàng…), anh hùng quân tử (Mạnh Thƣờng Quân, Hàn
Tín, Lý Quảng…), kẻ tiểu nhân, triết gia (Khổng Tử, Trang Tử…), nhà du thuyết
(Trƣơng Nghi, Tô Tần), các lãnh tụ nông dân (Trần Thiệp, Ngô Quảng…), các hiệp
khách (Kinh Kha, Nhiếp Chính…)… Trong Sử ký có cả một nhân loại mênh mông, về
mặt này, Tƣ Mã Thiên có thể sánh với những nhà văn lớn nhất của nhân loại, với những
âm hƣởng lãng mạn, màu sắc truyền kỳ về những nhân vật trong truyện, thật chẳng khác
nào một bộ sử thi anh hùng. Quy mô của tác phẩm làm ta choáng ngợp, bút lực của tác
giả làm ta kinh sợ.
-Khi xây dựng nhân vật, các nhà viết sử thƣờng xét tƣ thế lịch sử của họ (mô tả họ
trong những giây phút làm nên lịch sử), Tƣ Mã Thiên còn chú ý đến quá trình hình thành
tính cách, sự thay đổi trong vận mệnh nhân vật. Đối với những nhân vật có sự nghiệp lẫy
lừng, ông thƣờng miêu tả ngƣời đó khi hãy còn hàn vi, bị khinh khi chà đạp, khi họ chƣa
đóng vai trò lịch sử, thì tính cách nhân vật mới dày dạn, sắc nét. (ví dụ Lƣu Bang lúc còn
hàn vi ăn quỵt tiền rƣợu của bà Vƣơng, cho đến khi trở thành vua thì ngồi xổm mà tiếp
khách…). Thái độ của Tƣ Mã Thiên nghiêng hẳn về những nhân vật bi kịch anh hùng
(Hạng Vũ, Khuất Nguyên, Lý Quảng…), ông không tán thành một cuộc sống cầu an, vụn
vặt, vì vậy những đoạn viết về Hạng Vũ lúc tự sát khi thất bại đến 1,2 nghìn chữ đối với
việc viết sử hoàn toàn không cần thiết nhƣng lại đem đến hiệu quả cao cho một tác phẩm
văn học. Những bi kịch đó cho thấy tâm tƣ của riêng tác giả gửi vào trang viết, đó là sức
phản kháng mãnh liệt của những con ngƣời có nhân cách cao thƣợng đối với số phận.
-Khéo miêu tả tính cách nhân vật thông qua:
+Ngoại hình và tinh thần thƣờng thống nhất với nhau .

+Hành động bộc lộ tính cách, mở đầu cho truyền thống dùng hành động thể hiện
tính cách trong văn học cổ điển Trung Quốc.
+Giải thích lý do phát triển tính cách là do hoàn cảnh sống của nhân vật (Lã bất
Vi là thƣơng nhân nên cách suy nghĩ, hành động giống nhƣ con buôn…)
+Qua đối thoại bộc lộ tính cách( Lƣu Bang khi thấy Tần Thủy Hoàng làm vua thì
thèm muốn, Hạng Vũ thì nghĩ có thể lật đổ hắn để thay thế ->chí khí hai ngƣời đã khác


nhau; Trần Thiệp khi làm vua có ngƣời bạn nông dân đến thăm nói “chu choa, Thiệp làm
vƣơng trông sang gớm -> tính chất phác và lỗ mãng của ngƣời phát ngôn, rất gần với sự
thật).
+Đặt nó trong sự đối lập với các nhân vật khác: Lý Tƣ- Triệu Cao, Hạng Vũ- Lƣu
Bang, Ngũ Tử Tƣ- Bá Phỉ…
Cái hay trong việc xây dựng nhân vật của Tƣ Mã Thiên là thế, ông khai thác các
nguyên nhân hình thành và phát triển tính cách một cách hợp lý, logich, đầy thuyết phục,
không phải sinh ra đã là vĩ nhân.
3.Nghệ thuật ngôn ngữ: đƣợc mọi ngƣời khen là thành tựu mẫu mực của cổ văn,
Tƣ Mã Thiên đã hình thành một lối văn tự sử giản dị, thuần phác, lƣu loát nhƣng sinh
động và đa dạng, đồng thời không kém tính chính xác của một tác phẩm sử học.
Về cơ bản Sử ký đƣợc viết theo lối văn víêt sách, nhƣng lại không khác khẩu ngữ
đƣơng thời, trong sách còn trích dẫn nhiều lối nói của quần chúng, tục ngữ phƣơng ngôn
làm tăng thêm sinh khí cho ngôn ngữ, câu văn dƣờng nhƣ không trau chuốt lắm, nhƣng
lại rất xuôi tai, do Tƣ Mã Thiên trong lúc kể chuyện dốc hết tình cảm của mình vào nên
câu văn có sức truyền cảm mạnh.
Tóm lại, Sử ký là tác phẩm có giá trị nhiều mặt, trƣớc hết là một tác phẩm sử học
có giá trị vì tính khoa học, quan điểm tiến bộ; cũng đồng thời là một tác phẩm văn học
lớn vì nó mang đặc trƣng của văn học, đó là tính hình tƣợng thể hiện qua cuộc sống
muôn hình muôn vẻ, qua những nhân vật sống động. Mặc dù Tƣ Mã Thiên tự nhận “tôi
chỉ ghi chép mà không sáng tác” nhƣng cho đến nay, nó vẫn là một đỉnh cao của văn học
cổ Trung Quốc.

4.Địa vị và ảnh hưởng của Sử Ký.
-Trƣớc hết là về mặt nhận thức lịch sử: Ngƣời Trung Quốc đọc Sử ký để hiểu lịch
sử 3000 năm từ Hoàng đế đến Hán Vũ Đế, ngƣời nƣớc ngoài đọc Sử ký để hiểu lịch sử
cổ đại Trung Quốc. Với giá trị khoa học, Sử ký cho ta hiểu đƣợc quy luật vận động của
lịch sử, nhìn nhận và công nhận những công lao đóng góp của một số nhân vật đối với
lịch sử :Trần Thiệp đƣợc đề cao vì là lãnh tụ nông dân khởi xƣớng vũ trang lật đổ Tần,
Hạng Vũ đƣợc đánh giá đúng dù thất bại và tàn bạo…
-Mở đầu một phong cách văn học, đó là truyện ký lịch sử. Cách viết văn học hóa
chuyện lịch sử bắt nguồn từ Sử ký, sau này Trung Quốc trở thành nƣớc viết nhiều truyện
lịch sử nhất thế giới; Đông Chu Liệt quốc, Tam Quốc chí, Thủy hử… đều là những tác
phẩm bắt nguồn từ lịch sử.
-Một số nhân vật, cốt truyện, chi tiết là kho đề tài vô tận cho văn học nghệ thuật
đời sau, đƣợc tiếp thu một cách trọn vẹn về ngoại hình, tính cách…chúng tỏ sự hoàn hảo
của nó. Nhân dân đã tiếp thu trọn vẹn và quen thuộc với những hình tƣợng điển hình này
nên đời sau khó lòng thay đổi tính cách, chỉ có thêm bớt, gia giảm mà thôi.
-Sử ký đƣợc viết ra cách đây 20 thế kỷ. Thế giới quan của Tƣ Mã Thiên cho dù
tiến bộ cách mấy cũng mang những hạn chế không tránh khỏi nhƣ: thuyết định mệnh,
tƣớng số, Nho gia bảo thủ… Tiếp thu Sử ký phải là sự tiếp thu có chọn lọc.
-Sử ký là một tác phẩm khó đọc nhƣng rất hay, vì cách diễn đạt kín đáo nên phải
đọc đi đọc lại nhiều lần. Hƣơng dẫn sinh viên: tác phẩm có quá nhiều nhân vật, chỉ chú ý
đến nhân vật chính, đừng chú ý những nhân vật râu ria sẽ mất tập trung. Đọc nhân vật
nào xong mở ngay chƣơng nói về nhân vật liên quan để hiểu rõ hơn về thời đó, con
ngƣời đó, ví dụ: Câu Tiễn- Ngũ Tử Tƣ; Tần Thủy Hoàng- Hạng Vũ- Lƣu Bang… chỉ chú
ý các phần liệt truyện và bản kỷ.
Đọc kỹ: Tần Thủy Hoàn bản kỷ, Hạng Vũ bản kỷ, Hán Cao Tổ bản kỷ, Trần
Thiệp thế gia, Liêm Phả, Lạn Tƣơng Nhƣ liệt truyện, Khuất Nguyên liệt truyện, Lý
tƣớng quân liệt truyện, Thích khách liệt truyện, Hoài Âm Hầu liệt truyện…


B.3.VĂN HỌC THỜI NGỤY TẤN VÀ

NAM BẮC TRIỀU.
( 3 tiết)

B.3.1.BỐI CẢNH XÃ HỘI.
Cuối đời Đông Hán, xã hội Trung Quốc lại rối loạn. Vua chúa ngu si nhu nhƣợc,
hoạn quan và ngoại thích tranh nhau chính quyền. Bọn quân phiệt thừa cơ nổi lên cát cứ
khắp nơi, chiến tranh xảy ra liên miên. Dân tình khổ sở vì loạn ly, thuế khoá. Các cuộc
nổi dậy xảy ra liên tiếp, mạnh nhất là lực lƣợng quân Khăn Vàng (Hoàng Cân) của
Trƣơng Giác. Về sau, Tào Tháo diệt họa Khăn Vàng, trừ họa Đổng Trác, thâu tóm binh
quyền trong tay rồi với danh nghĩa phò nhà Hán, lần lƣợt đánh tan các lực lƣợng quân
phiệt khác. Về sau còn lại Lƣu Bị và Tôn Quyền, mỗi ngƣời chiếm cứ một phƣơng, hình
thành cục diện Tam Quốc. Ba lực lƣợng này tiếp tục đánh nhau gần 100 năm, khiến nhân
dân lầm than không kể xiết.
Cuối cùng họ Tào thắng thế, triều Ngụy bắt đầu, đƣợc hơn 40 năm lại bị họ Tƣ
Mã lật đổ, lập nên nhà Tấn. 125 năm sau, bị tộc Hồ ở phƣơng Bắc uy hiếp nên dời đô về
phƣơng Nam (Đông Tấn), rồi bị Tống, Tề, Lƣơng Trần thay nhau cƣớp ngôi, phía Bắc
thì Hậu Ngụy và Chu. Sử gọi thời này là Nam Bắc Triều hoặc Lục Triều.
Tóm lại, trong hơn 300 năm này, Trung Quốc chƣa bao giờ bị chia cắt, loạn ly
nhiều nhƣ vậy, đời sống nhân dân khốn khổ, lòng dân ngán ngẩm, kể cả những ngƣời có
học cũng chán nản (giải thích dòng thơ điền viên, ẩn sĩ đời Tấn- Đào Uyên Minh). Về
mặt tƣ tƣởng xã hội, đây là thời kỳ phát triển tự do, không câu nệ, đạo Nho không đƣợc
tôn sùng nữa, sau thời kỳ “bách gia tranh minh”, đây là thời kỳ phát triển nhất. Lão
Trang và Phật giáo đƣợc ƣa chuộng.

B.3.2.VĂN HỌC.
Thơ phát triển chủ yếu thời Ngụy Tấn. Nam Bắc triều phat triển văn phê bình.
B.3.2.1.THI VĂN KIẾN AN.
Năm công nguyên 196, Tào Tháo vâng mệnh vua Hán Hiến Đế dời đô về Hứa
Xƣơng, đổi niên hiệu là Kiến An, chiêu nạp những kẻ sĩ có tài và hình thành ở phía Bắc
một trung tâm văn học. Sự sáng tác văn học trong thời Kiến An vì thế theo thói quen vẫn

gọi là “văn học Kiến An”.
Đặc điểm chính của giai đoạn văn học này là: từ phú vẫn phát triển, nhƣng tiểu
phú trữ tình đã thay thế đại phú miêu tả sự vật nhƣ kiểu Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ; văn chƣơng
thời này hoa mỹ, trau chuốt có ý thức, tuy vậy chƣa đến nỗi quá lạm dụng điển tích, phô
trƣơng quá nhiều mà vẫn trong sáng, dễ hiểu, rõ ràng, chặt chẽ, giàu truyền cảm.
Những đại biểu của văn học Kiến An là ba cha con họ Tào, Kiến An thất tử
(Khổng Dung, Trần Lâm, Vƣơng Xán, Từ Cán, Nguyễn Vũ, Ứng Sƣớng, Lƣu Trinh),
Thái Diễm, tự Văn Cơ…
Ba cha con họ Tào vừa là đầu não chính trị, vừa là lãnh tụ văn đàn trong thời Kiến
An. Trong đó, Tào Thực tuy bị thất bại về mặt chính trị, nhƣng về mặt văn học lại là
ngƣời có thành tựu lớn nhất.
Tào Tháo xuất thân trong một gia đình hèn kém, không có chỗ dựa cao quý về
mặt huyết thống, lại chịu ảnh hƣởng của phong cách thời đại, nên ông không bị ràng
buộc bởi tiêu chuẩn giá trị và quan niệm luân lý truyền thống. Trong chính trị, ông chú
trọng hiệu quả thực tế và khinh thƣờng những lễ nghi phiền phức, vụn vặt, tính tình ông
không câu nệ, cố chấp, cá tính và tình cảm thƣờng bộc lộ một cách thẳng thắn. Sáng tác
của ông bộc lộ rõ rệt cá tính và tƣ tƣởng của ông. Tào Tháo đặc biệt yêu thích hình thức
tho ca nhạc phủ, ông thƣờng phản ảnh những nỗi đau khổ của dân chúng, đời sống và
tình cảm của ngƣời dân lớp dƣới chứ không phải là của vị chủ soái. Tuy vậy, vừa là một


nhà chính trị, quân sự, có hoài bão lớn lao, thơ ông vƣợt ra ngoài cuộc sống hạn hẹp mà
vƣơn tới tầm nhìn rộng rãi hơn, các bài nhƣ Giới lộ, Cao lý hành, Thiện tai hành…
phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng cuối đời nhà Hán.
Cao lý hành:
Quan Đông hữu nghĩa sĩ, hưng binh thảo quần hung. Sơ kỳ hội Mạnh Tân, nãi
tâm tại Hàm Dương. Quân hợp lực bất tề, trù trừ nhi nhạn hành. Thế lợi sử nhân tranh,
tự hoàng tự tương thương. Hoài nam đệ xưng hiệu, khắc tỷ ư bắc phương. Khải giáp sinh
ki sắt, vạn tính dĩ tử vong. Bạch cốt lộ ư dã, thiên lý vô kê minh. Sinh dân bách di nhất,
niệm chí đoạn nhân trường. (Quan Đông có nghĩa sĩ, hưng binh diệt bạo tàn. Mạnh Tân

đầu tiên hợp, Hàm Dương nơi lo toan. Quân hợp sức còn yếu, do dự chưa dám tiến.
Quyền lợi cùng tương tranh, về sau tự giao chiến. Hoài Nam em xưng đế, đất bắc khắc
ấn vua. Ao giáp đầy trứng rận, muôn dân chết bốn mùa. Xương trắng phơi đầy đồng,
nghìn dặm tiếng gà không. Trăm dân chỉ sót một, nghĩ tới đứt ruột không.). Bài thơ khái
quát việc hợp nhất quân đội để trừng phạt Đổng Trác, nhƣng do hai anh em Viên Thiệu
và Viện Thuật có mƣu đồ riêng nên xảy ra chiến tranh kéo dài làm bá tánh đau khổ.
Ngôn ngữ giản dị, khí phách to lớn, cảm tình sâu đậm.
Tào Tháo là một vị anh hùng nhƣng về mặt yêu nghệ thuật thì ông không kém một
văn nhân nào, thơ ông rất ít từ ngữ hoa mỹ, thƣờng mô tả những gì hùng vĩ, ngôn ngữ
chất phác, khí thế mạnh mẽ, nội dung sâu xa. Văn xuôi của ông cũng rất đặc sắc, Lỗ Tấn
gọi ông là “tổ sư cải tạo văn chương”, văn chƣơng ông không chịu sự ràng buộc của
những quy luật cũ kỹ, rất sắc bén và lƣu loát, không trích dẫn kinh điển dài dòng rỗng
tuếch của văn chƣơng Nho sinh đời Hán.
Tào Phi (187-226) là con trai thứ của Tào Tháo, ông dựa vào nền tảng do cha để
lại, thay thế triều đại nhà Hán, làm hoàng đế lấy quốc hiệu là Ngụy. Tào Phi học rộng
biết nhiều, rất siêng viết lách, yêu thích văn học. Ngôn ngữ dễ hiểu, tinh tế hơn dân ca,
sở trƣờng diễn tả những tình cảm uyển chuyển, tinh tế, thanh nhã. Bài Yến ca hành rất
nổi tiếng:
Thu phong tiêu sắc thiên khí lương,
(Gió thu xạc xào hơi thu lạnh
Thảo mộc dao lạc lộ vi sương.
Cây cỏ nhạt nhòa móc làm sương
Quần yến từ quy nhạn nam tường, Bầy én giã từ nam nhạn xuống.
Niệm quân khách du tư đoạn trường, Nhớ chàng đi xa thiếp xót thương.
Khiển khiển tư quy luyến cố hương, Mênh mang mong nhớ về cố hương,
Quân hà yêm lưu ký tha phương?
Vì đâu chàng mãi ở tha phương?
Tiện thiếp Huỳnh Huỳnh thủ
Tiện thiếp phòng không luôn chiếc không phòng,
bóng

Ưu lai tư quân bất cảm vong,
Khi nghĩ đến chàng càng nhớ thương.
Bất giác lệ hạ triêm y thường.
Bất giác lệ rơi ướt xiêm y,
Viện cầm minh huyền phát
thanh thương
cầm đàn lên gảy khúc thanh thương,
Đoản ca vi ngâm bất năng trường. Đoản ca khẽ ngâm đâu dài được,
Minh nguyệt giảo giảo chiếu
ngã sàng,
Trăng xanh vằng vặc soi tận giường.
Tinh hán tây lưu dạ vị ương.
Ngân hà đã chếch đêm còn dài,
Khiên Ngưu Chức Nữ dao
Ngưu lang Chức nữ ngóng nhau hoài
tương vọng,.
Nhĩ mộc hà cô hạn hà lương?
Cầu sông hà cớ ngăn họ mãi?)
Miêu tả thành công tâm trạng của ngƣời phụ nữ mong nhớ chồng giữa đêm thu
trằn trọc không ngủ đƣợc, tình cảm triền miên, âm điệu hài hòa, tinh tế, thanh nhã. Là
một dấu mốc phát triển mới trong lịch sử thơ thất ngôn.


×