Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Khảo sát khái niệm câu đơn theo quan điểm truyền thống và cú đơn theo quan điểm của ngữ pháp chức năng (hệ thống)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.92 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG ANH TUẤN

KHẢO SÁT KHÁI NIỆM CÂU ĐƠN THEO QUAN ĐIỂM TRUYỀN
THỐNG VÀ CÚ ĐƠN THEO QUAN ĐIỂM CỦA NGỮ PHÁP CHỨC
NĂNG (HỆ THỐNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 5 04 08
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Văn Vân

Hà Nội - 2005

1


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này em đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ, động viên. Trong đó PGS. TS Hoàng Văn Vân là nguời có vai trò
quan trọng nhất. Quãng thời gian làm việc vớí Thầy là quãng thời gian
em có thêm nhiều kiến thức bổ ích từ chính sự dìu dắt, chỉ bảo ân cần
cũng như thái độ làm việc nghiêm túc của Thầy. Em xin được bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc vì những giúp đõ to lớn của Thầy để em có thể
hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn đến các Thầy Cô trong
Khoa ngôn ngữ học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Đại học quốc gia Hà Nội, vì sự khích lệ, động viên cũng như những
chỉ bảo giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy, Cô.


Hà Nội 24 tháng 10 năm 2005

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

3


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ƯT

Ứng thể

Đht

Đại hiện tượng

ĐN

Đề ngữ


ĐNT

Đích ngôn thể

ĐT:đt

Đích thể: đối tượng

Đth

Đương thể

BN

Bổ ngữ

BN:đt

Bổ ngữ: đối tượng

CC

Chu cảnh

CC:tg

Chu cảnh thời gian

CC1


Chu cảnh 1

CC2

Chu cảnh 2

CN

Chủ ngữ

CT

Cảm thể

HHT

Hiện hữu thể

HT

Hành thể

KNgh

Kinh nghiệm

LG

Lô gích


LN

Liên nhân

NgB

Ngôn bản

PN

Phụ ngữ

PN1

Phụ ngữ 1

PN2

Phụ ngữ 2

PNT

Phát ngôn thể

QT: hh

Quá trình hiện hữu

QT: hv


Quá trình hành vi
4


QT: pn

Quá trình phát ngôn

QT: qh

Quá trình quan hệ

QT: tt

Quá trình tinh thần

QT: vc

Quá trình vật chất

ThN

Thuyết ngữ

ThT

Tham thể

TNT


Tiếp ngôn thể

VN

Vị ngữ

á

Cú chính

â

Cú thứ

HỆ THỐNG KÍ HIỆU QUY ƢỚC
/

Ranh giới cụm từ, nhóm từ

//

Ranh giới cú

///

Ranh giới cú phức

[]

Ranh giới cụm từ bị bao


1+2

Quan hệ mở rộng

á + â

Quan hệ phóng chiếu

á ^â

Quan hệ phóng chiếu â phụ thuộc á

1 ^2

Quan hệ bành trướng 2 phụ thuộc 1

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
1.1. Đối tƣợng nghiên cứu và lý do chọn đề tài
Định nghĩa thế nào là câu, vấn đề từ xưa tới nay vẫn được xem là khó
khăn bậc nhất của cú pháp học nói riêng và ngữ pháp học nói chung. Con
số trên 300 định nghĩa về câu (Hoàng Trọng Phiến 1980: 14 ) hẳn đã phần
nào chứng tỏ được điều này. Bên cạnh khái niệm câu ( sentence) trong
truyền thống nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt còn tồn tại một khái niệm
khác - khái niệm cú (clause), sẽ chẳng có gì phải bàn cãi nếu chỉ nhìn qua
hai thuật ngữ này. Tuy nhiên, khác với câu trong truyền thống nghiên cứu

ngữ pháp tiếng Việt, khái niệm cú rất ít khi được thảo luận, nó chủ yếu
được đặt trong khái niệm câu đơn. Điều này không khỏi dẫn đến nhiều hoài
nghi xung quanh vai trò và vị thế của hai khái niệm được xem là “có nhiều
điểm tương đồng” này.
Trong các đường hướng nghiên cứu ngôn ngữ hiện nay, ngữ pháp
chức năng được đánh giá là hướng đi mới đầy triển vọng. Ra đời muộn hơn
(chỉ vào khoảng những năm 70 của thế kỷ 20) nhưng ngay lập tức ngữ
pháp chức năng đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu.
Trong nội bộ của ngữ pháp chức năng người ta thấy có nhiều hướng đi
khác nhau nhưng có hai hướng đi giành được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Đó là hướng chức năng của S . Dik (Funtional Grammar) và
hướng ngữ pháp chức năng thiên về (hệ thống) của M.A.K Halliday
(Systemic Funtional Grammar). Cả hai dòng ngữ pháp chức năng này đều
gắng đạt đến tính phổ quát cao, mong muốn bao q uát được mọi ngôn ngữ.
Tuy nhiên, khi so sánh hai dòng ngữ pháp này người ta thấy ngữ pháp chức
năng hệ thống của M.A.K Halliday có tính ưu việt hơn hẳn trong quan
điểm ba bình diện ngữ pháp câu xét về mặt lý thuyết. Tính ưu việt của ngữ
pháp chức năng của M.A.K Halliday còn thể hiện ở lý thuyết các loại hình
6


sự thể với một vòng tròn khép kín bởi ba khu vực lớn với ba miền trung
gian, phản ánh được tất cả các loại hình sự thể. Ngoài ra ngữ pháp chức
năng của M.A.K Halliday còn được đánh giá cao về tính linh hoạt trong
ứng dụng thực tiễn (Diệp Quang Ban 2003: 14, 15 ).
Đi theo hướng ngữ pháp chức năng, cả S. Dik và M.A.K Halliday đều
lấy cú làm trung tâm, đối tượng nghiên cứu, làm điểm xuất phát. Theo
M.A.K Halliday thì cú là một đơn vị có vị thế quan trọng nó là đơn vị hội
tụ đầy đủ ba siêu chức năng (tư tưởng, ngôn bản, liên nhân), nó nằm ở giao
điểm của ba bình diện (tầng, cấp độ và siêu chức năng). M.A.K Halliday

cho rằng “cú (cú phức) có thể giúp ta giải thích đầy đủ tổ chức, chức năng
của các câu vì thế không nhất thiết phải đưa vào khái niệm câu như là một
phạm trù ngữ pháp tách biệt”, chỉ nên xem “nó như là đơn vị nằm giữa hai
dấu chấm”. “Làm như vậy sẽ tránh được sự tối nghĩa” ( M.A.Halliday (bản
dịch tiếng Việt) - 2001: 358).
Tuy đạt được những kết quả khá khả quan nhưng sự vận dụng các
đường hướng nghiên cứu vào tiếng Việt vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là các
công trình có vận dụng ngữ pháp chức năng còn khá khiêm tốn. Đến nay,
tính ứng dụng rộng rãi và tính ưu việt của ngữ pháp chức năng đã rõ ràn g,
nhưng những lý thuyết chung mà M.A.K Halliday lấy tiếng Anh làm ví dụ
minh hoạ cho đến một ngữ pháp chức năng (hệ thống) của tiếng Việt là
một con đường không ngắn, và dễ đi đòi hỏi có sự góp sức của nhiều
người, chính vì thế, việc vận dụng lý thuyết này vào thực tế tiếng Việt lúc
này là một việc làm cần thiết.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “ Khảo sát khái
niệm câu (đơn) theo quan điểm truyền thống và cú(đơn) theo quan điểm
của ngữ pháp chức năng hệ thống”. Lấy câu (cú đơn) trong tiếng Việt làm
đối tượng nghiên cứu. Hy vọng có thể làm sáng tỏ một số vấn đề.

7


1. 2. Dự kiến những đóng góp của luận văn
Đề tài dự kiến sẽ có những đóng góp sau đây:
 Chỉ rõ bản chất của hai khái niệm “câu đơn” trong ngữ pháp
truyền thống và “cú” trong ngữ pháp chức năng.
 Cho thấy được vai trò và vị thế quan trọng của cú trong nghiên
cứu ngữ pháp tiếng Việt, một khái niệm xưa nay chưa được công
nhận là đơn vị ngữ pháp cao nhất.
 Góp phần giải quyết vấn đề vẫn còn tồn tại lâu nay, trong ngữ

pháp tiếng Việt.
1. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Muốn làm được vậy chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ sau đây:
 Khảo sát khái niệm về câu theo quan điểm truyền thống, những
đóng góp và những vấn đề còn tồn tại.
 Các tiêu chí phân loại câu theo truyền thống những ưu, nhược
điểm của những tiêu chí phân loại này.
 Khảo sát vai trò của cú trong tiếng Việt theo quan điểm của ngữ
pháp chức năng hệ thống của M.A.K Halliday, so sánh với khái
niệm câu trong ngữ pháp truyền thống, từ đó chỉ rõ vai trò của nó
trong nghiên cứu ngữ pháp.
 Tiêu chí đề phân loại cú, có so sánh với các tiêu chí phân loại
câu, từ đó chỉ rõ những điểm mạnh của những tiêu chí này.
1. 4. Lịch sử vấn đề
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ngành khoa học ngôn ngữ ở
Việt Nam phát triển muộn hơn nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, những
thành tựu mà ngành ngôn ngữ học nói chung và cú pháp học ở Việt Nam
8


nói riêng đã đạt được là khá khả quan. Các nhà Việt ngữ học đã cố gắng
vận dụng những đường hướng, quan điểm tiên tiến của nhiều tác giả,
trường phái ngôn ngữ trên thế giới để giải quyết các vấn đề cụ thể của tiếng
Việt. Trong số những vấn đề nổi lên, thu hút được sự quan tâm của đông
đảo các nhà nghiên cứu thì việc tìm ra một định nghĩa cho câu tiếng Việt là
vấn đề được quan tâm hơn cả. Song cũng như nhiều nơi có ngành khoa học
ngôn ngữ phát triển vấn đề về câu tiếng Việt đến nay vẫn chưa được giải
quyết ổn thoả. Với câu hỏi câu là gì? Các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau. Bên cạnh khái niệm câu, khái niệm cú trong truyền
thống nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt cũng tồn tại như là một đơn vị có vai

trò và vị thế đặc biệt. Tuy nhiên, theo Cao Xuân Hạo “Thật không có một
thuật ngữ nào bất hạnh hơn”. Khái niệm cú rất ít khi được thảo luận và chủ
yếu được đặt trong khái niệm câu đơn. Sở dĩ, cú ở đây được chúng tôi đề
cập đến là vì trong truyền thống câu và cú là hai khái niệm chưa được phân
biệt một cách rạch ròi.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn trình bày lịch sử của hai vấn đề
mà các nhà nghiên cứu còn nhiều ý kiến khác nhau. Hai vấn đề k hông nằm
ngoài phạm vi câu hỏi mà các nhà nghiên cứu theo quan niệm truyền thống
đã cố gắng tìm cho nó câu trả lời thoả đáng, đó chính là hai vấn đề và cũng
là hai nhiệm vụ quan trọng của cú pháp học: Câu và cú là gì?
Để tiện cho việc trình bày chúng tôi chia lịch sử nghiên cứu vấn đề
thành hai giai đoạn. Giai đoạn từ 1945 trở về trước và giai đoạn từ 1945
đến nay. Lý do chúng tôi chọn năm 1945 làm ranh giới phân chia hai giai
đoạn là vì năm này đánh dấu sự ra đời của nhà nước Việt Nam. Sự ra đời
này có vai trò to lớn với sự phát triển không chỉ của ngôn ngữ học mà còn
với nhiều ngành khoa học khác. Nhà nước Việt Nam với vị thế mới, đã
nâng tiếng nói Việt Nam lên một tầm cao tương ứng và cũng nhờ những
chính sách đúng đắn về ngôn ngữ, đã tạo ra được một sự chuyển biến to lớn
9


cả về chất và lượng. Đây cũng là mốc thời gian vững chắc để Nguyễn Tài
Cẩn phân kỳ “Giai đoạn tiếng Việt hiện nay” (Nguyễn Tài Cẩn – 1998 : 8).

1. 4.1 Giai đoạn trƣớc 1945
Ở giai đoạn này việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt xét về đại cục
chưa có tính chất của một ngành khoa học đích thực. Tuy nhiên, có thể xem
đó là những “thử nghiệm đầu tiên” đối với một ngành khoa học còn rất mới
ở Việt Nam. Nhìn chung, có thể tóm lược việc nghiên cứu giai đoạn này
bằng hai từ “thực tế” và “mô phỏng” (Đinh Văn Đức – 1986: 3, Lưu Vân

Lăng – 1988: 5). Có thể thấy rõ điều này qua một số công trình tiêu biểu
giai đoạn này như: Grammaire de la langue Annamite của Trương Vĩnh Kí
(1883). Études sur la langue Annamite của Grammond & Lê Quang Trinh
(1911). Cours élémentaire d’ Annamite của Bouchet (1912). Việt Nam văn
- phạm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940) v.v.
1.4.1.1 Vấn đề thứ nhất: Câu là gì?
Với vấn đề “câu là gì” các nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt giai
đoạn này, không đặt ra cho mình nhiệm vụ phải trả lời và mặc nhiên coi
vấn đề như đã được giải quyết xong, hi hữu có những tác giả định nghĩa
“nhưng đó cũng chỉ là những định nghĩa nhắc lại những định nghĩa về câu
trong các sách ngữ pháp dùng ở trường trung tiểu học Pháp” (Nguyễn Kim
Thản- 1997: 501). Ngữ pháp nhà trường của Pháp vốn dĩ đã mang dấu ấn
đậm nét của ngữ pháp duy lý (chủ yếu dựa vào các khái niệm lô gíc như :
nhận định (đề nghị / phán đoán) chủ ngữ / vị ngữ.v.v. Định nghĩa câu của
Trần Trọng Kim - Bùi Kỷ – Phạm Duy Khiêm trong cuốn “ Việt Nam Văn phạm” là một ví dụ tiêu biểu cho nhận định này. Theo tác giả của “ Việt Nam - văn - phạm” thì phép đặt câu là phép đặt các tiếng lập thành mệnh
đề và các mệnh đề thành câu. Theo các tác giả này thì một mệnh đề bao
gồm một chủ từ cộng với một tĩnh từ hay một động từ, chủ từ là tiếng đứng
10


làm chủ ở trong mệnh đề. Tính từ là tiếng chỉ cái thể của chủ từ, những từ
này có thể có nhiều bổ từ (túc từ).v.v, định nghĩa của họ có thể diễn giải
như sau:
Câu = Một chủ từ + một tính từ (hay một động từ) N túc từ.
Câu = N chủ từ + N tính từ (hay N động từ) + N túc từ
( Nguyễn Kim Thản - 1997: 501 )
1.4.1.2 Vấn đề thứ hai : Cú là gì?
Trong giai đoạn này tên gọi “cú” chưa được các nhà nghiên cứu đề
cập đến. Tuy nhiên có thể thấy về cơ bản nội dung của chúng đã được thảo
luận dưới tên gọi mệnh đề. Cách làm này có thể thấy ở các tác giả cuốn

“Việt Nam Văn - phạm” theo họ thì phép đặt câu bao gồm hai bước: bước
đặt các tiếng thành mệnh đề và bước đặt mệnh đề thành câu và trong phần
tiếp theo các tác giả đã đi thảo luận khá kĩ về các kiểu loại mệnh đề, cách
(phép) lập mệnh đề thành câu. Song họ lại không cho biết thế nào là một
mệnh đề. Cách làm này xuất phát từ sự ảnh hưởng sâu rộng của ch ủ nghĩa
truyền thống Pháp và dấu ấn của nó còn để lại đến mãi về sau này. Có thể
thấy, sự khác biệt giữa câu và mệnh đề theo các tác giả của cuốn “Việt
Nam văn phạm” chỉ là sự khác biệt về mặt số lượng của các mệnh đề và sự
khác biệt đó không phải thuộc về những phẩm chất cơ bản của đơn vị mà
nó mang tên.
1.4.2 Giai đoạn từ 1945 đến nay
Giai đoạn này đã chứng kiến sự trưởng thành và lớn mạnh của ngành
ngôn ngữ học ở Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn
chất lượng, là giai đoạn đánh dấu sự vận dụng có chọn lọc các đường
hướng nghiên cứu ngôn ngữ trên thế giới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
chủ quan, khách quan khác nhau mà việc nghiên cứu ngôn ngữ học ở Việt
Nam giai đoạn này cũng còn nhiều điểm hạn chế. Một trong những hạn chế
đó xuất phát từ nguyên nhân chiến tranh, hai miền Nam – Bắc vì thế trong
11


một thời gian dài không có sự trao đổi qua lại về mặt học thuật và hậu quả
tất yếu là mỗi miền lại phát triển theo một xu hướng riêng của mình. Cũng
do hoàn cảnh chiến tranh nên các đường hướ ng nghiên cứu ngôn ngữ du
nhập vào Việt Nam bằng nhiều nguồn và không đầy đủ. Điều này đã gây trở
ngại không nhỏ cho việc có được một giải pháp trọn vẹn theo một đường
hướng nào đó.

1.4.2.1 Vấn đề thứ nhất: Câu là gì?
Trước câu hỏi câu là gì, mặc dù chưa đưa ra được trả lời có sự nhất

trí hoàn toàn nhưng khác với giai đoạn trước, giai đoạn này các nhà nghiên
cứu tiếng Việt đã cho thấy sự tìm tòi và có sự vận dụng sáng tạo trong
nghiên cứu. Đi theo những đường hướng khác nhau mỗi nhà nghiên cứu có
cánh nhìn nhận vấn đề riêng, và có sự vận dụng cụ thể. Đi tìm câu trả lời,
có tác giả nhấn mạnh đến bình diện cấu trúc của câu, có tác giả nhấn mạnh
đến ý nghĩa hoặc cả hai. Giai đoạn này chứng kiến ba hướng đi nổi bật đó
là :
 Hướng đi thiên hơn về ngữ pháp truyền thống.
 Hướng đi chịu ảnh hưởng của cấu trúc luận và cấu trúc chức năng luận.
 Hướng đị chịu ảnh hưởng của ngữ pháp chức năng.
1.4.2.1.1 Hƣớng đi thiên hơn về ngữ pháp truyền thống
Tiếng Việt là một ngôn ngữ không biến hình từ nên có lẽ vì vậy trong
hầu hết các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt “không có công
trình đáng kể nào mà lại theo khuynh hướng hình thức một cách tuyệt đối”.
Đi theo hướng ngữ pháp truyền thống các nhà nghiên cứu ngữ pháp giai
đoạn này đã nhìn nhận vấn đề theo hướng chú ý đến cả hình thức lẫn nội
dung, thậm chí coi trọng mặt nội dung hơn cả hình thức. Định nghĩa của tác
giả cuốn “Ngữ pháp Việt Nam” là một ví dụ. Định nghĩa này không chỉ
12


phản ánh sự tìm tòi, thể nghiệm của tác giả khi đi giải quyết một vấn đề nan
giải của cú pháp mà nó còn đánh dấu bước phát triển của ngữ pháp tiếng
Việt đang cố thoát ra khỏi cái bóng của ngữ pháp nhà trường Pháp, mặc dầu
nó không khỏi gợi ra cho người ta nhiều thắc mắc như: liệu câu có nhất
thiết do nhiều từ hợp lại? Một ý hoàn toàn là như thế nào?.v.v. Đi theo
hướng này còn phải kể đến Phan Khôi với Việt ngữ nghiên cứu (1955),
Thanh Ba- Bùi Đức Tịnh với Văn phạm Việt Nam (1952), Nguyễn Hiến Lê
với Để hiểu văn phạm (1952).
1.4.2.1.2 Hƣớng đi chịu ảnh hƣởng của cấu trúc luận và cấu trúc chứ c

năng luận
Do chiến tranh nên giai đoạn này Việt Nam bị chia cắt thành hai miền
Nam - Bắc. Đi theo hướng cấu trúc nhưng ở mỗi miền lại có sự khác biệt.
Miền Nam chịu ảnh hưởng của trường phái cấu trúc miêu tả Mỹ, còn miền
Bắc lại chịu ảnh hưởng của trường phái cấu trúc châu Âu (đặc biệt là lý
thuyết đại cương của Ferdinand de Saussure). Theo hướng cấu trúc luận, ở
miền Nam, giai đoạn này nổi bật lên đó là “ Khảo luận ngữ pháp Việt Nam ”
(1963) của Trương Văn Trình và Nguyễn Hiến Lê. Còn tiêu biểu cho hướ ng
đi chịu ảnh hưởng của trường phái miêu tả Mỹ, ở miền Nam, đó là những
công trình nghiên cứu về tiếng Việt của Lê Văn Lý. Cũng theo hướng này
còn có những tác giả như: Bùi Đức Tịnh với “ Văn phạm Việt Nam - giản dị
và thực dụng” (1962), Trần Ngọc Ninh với “Cơ cấu Việt ngữ” (1973).
Ở miền Bắc, giai đoạn này, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn
khách quan, các nhà nghiên cứu Việt ngữ chịu ảnh hưởng nhiều quan điểm
của các học giả Nga (Liên Xô cũ). Định nghĩa về câu của viện sĩ
Vinagradov là một trong số đó . Có thể tìm thấy sự ảnh hưởng này trong
những công trình nghiên cứu về câu của nhiều học giả Việt Nam giai đoạn
này như: Hoàng Trọng Phiến “ Cú pháp tiếng Việt (câu) (1980)”, Diệp
Quang Ban “Câu đơn tiếng Việt (1978)”, Hoàng Tuệ “ Giáo trình về Vịêt

13


ngữ (1962)”, Nguyễn Kim Thản “ Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt (1963)”,
Lê Cận, Phan Thiều “ Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (1983)” v.v.
1.4.2.3 Hƣớng đi chịu ảnh hƣởng của ngữ pháp chức năng
Ra đời muộn hơn nên ngữ pháp chức năng đã kế thừa được những
ưu điểm và khắc phục được những điểm hạn chế của các đường hướng
nghiên cứu trước nó. Ngữ pháp chức năng xuất hiện ở Việt Nam khá muộn
- vào đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 - nghĩa là chậm hơn so với việc xuất

hiện của nó ở một số nước khoảng 20 năm. Con số những c ông trình có vận
dụng lý thuyết chức năng cũng còn rất “khiêm tốn”. Ở Việt Nam công trình
có vận dụng ngữ pháp chức năng được biết đến đầu tiên đó là “ Tiếng Việt:
sơ thảo ngữ pháp chức năng ” (quyển1) Cao Xuân Hạo do nhà xuất bản
KHXH ấn hành năm 1991. Khác với các đường hướng ngữ pháp hình thức,
câu hỏi để khái luận hoá câu thường là “câu có cấu trúc hình thức như thế
nào ?”. Ngữ pháp chức năng lại nhìn nhận vấn đề ở góc độ khác : “Câu có
chức năng gì ?”. Cùng theo quan điểm này còn có Hoàng Xuân Tâm,
Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tất Tươm trong cuốn “ Ngữ pháp chức năng tiếng
Việt. Quyển 1. Câu trong tiếng Việt. Cấu trúc, nghĩa, công dụng ” do Cao
Xuân Hạo chủ biên, nhà xuất bản giáo dục ấn hành năm 1992.
1.4.3 Vấn đề thứ hai: Cú là gì?
Trong giai đoạn này đi theo quan niệm truyền thống khái niệm cú cũng
đã được một vài nhà nghiên cứu thảo luận tuy nhiên vẫn chưa có sự phân
biệt rạch ròi về bản chất giữa hai loại đơn vị này, chủ yếu sự phân biệt vẫn
dựa trên tiêu chí về số lượng. Ví dụ: theo Trương Văn Trình và Nguy ễn
Hiến Lê, “Trong một câu diễn tả nhiều sự tình thì mỗi tổ hợp diễn tả một sự
tình chúng tôi gọi là một cú. Câu diễn tả một sự tình là câu đơn cú ( Trương
Văn Trình, Nguyễn Hiến Lê 1963: 477 ). Quan niệm này không khác với
quan niệm về cú ở giai đoạn trước. Đa số các nhà nghiên cứu giai đoạn này
thảo luận cú dưới hình thức câu đơn và sự phân biệt giữa câu và cú chỉ diễn
14


ra khi có một bộ phận của câu được cấu tạo nên từ một ngữ đoạn có cấu
trúc của một câu đơn nhưng chúng chỉ giữ vai trò bổ sung nếu đem so vớ i
cấu trúc lớn.
Theo Cao Xuân Hạo thì sự khác biệt giữa câu và cú “tiểu cú” chỉ ở chỗ
câu thể hiện một nhận định (statement) còn cú không có được điều này,
hành động này được thực hiện ngay khi phát ngôn để đưa ra một mệnh đề

mà biểu thị một cái gì đó đ ược xem như có sẵn và mặc dù ở đó có kết cấu
được xem là cấu trúc chủ vị đi chăng nữa thì hành động mà nó phản ánh
được xem như là có sẵn và thuộc về quá khứ. Nó là tiền giả định chứ không
có mặt trong câu và ngôn ngữ nào cũng có những đặc trưng để phân biệt
tiểu cú với câu.
Cũng chịu ảnh hưởng của ngữ pháp chức năng, nhưng theo hướng (hệ
thống). “Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt mô tả theo quan điểm
chức năng hệ thống” của Hoàng Văn Vân, do nhà xuất bản KHXH ấn hành
năm 2002 là một thể nghiệm khác c ủa việc vận dụng lí thuyết chức năng
vào thực tế tiếng Việt. Lấy cú làm đơn vị mô tả và xem xét nó ở cả ba bình
diện: chuyển tác, thức, văn bản. Xem cú như là một đơn vị ngữ pháp cao
nhất. Đây là một cách làm mới vì trong truyền thống cú không được công
nhận như là một đơn vị mô tả một cách hiển ngôn. Trong truyền thống
nghiên cứu tiếng Việt, khái niệm cú cũng nhiều lần được nhắc đến. Tuy
nhiên, vai trò của chúng rất mờ nhạt, các nhà nghiên cứu dành cho nó một
sự quan tâm không nhiều. Việc khẳng định vai trò và tiềm năng to lớn của
cú trong mô tả ngữ pháp là một hướng đi mới.
Như vậy, có thể thấy vấn đề về “câu” trong tiếng Việt là một vấn đề
rất phức tạp, được tiếp cận và nhìn nhận từ rất nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, vấn đề câu là gì đến nay xem ra vẫn còn là một thách thức lớn bởi
trước một vấn đề đa diện lại được nhìn nhận từ nhiều góc đội khác nhau thì
việc có được sự nhất trí cao là một việc rất khó. Hầu hết các đường hướng
nghiên cứu trước ngữ pháp chức năng, đều xem ngôn ngữ là tập hợp các
15


quy tắc, ở đó bình diện xã hội của câu (cú) chưa được quan tâm một cách
thoả đáng. Chính vì vậy không khỏi có sự phiến diện trong nghiên cứu vấn
đề này. Do vậy việc xem xét câu (cú) tiếng Việt, trong cảnh huống/ văn
hoá xã hội là một việc làm cần thiết lúc này.

2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƢ LIỆU
Phương pháp làm việc chính là phương pháp so sánh kết hợp với các
phương pháp luận khoa học chung là quy nạp, diễn dịch: trên cơ sở phân
tích những cứ liệu được rút ra từ các tài liệu, các văn bản bằng tiếng Việt,
từ đó đem so sánh để tìm ra những tồn tại, hạn chế của các đường hướng
nghiên cứu khác khi nghiên cứu vấn đề câu.
Luận văn còn sử dụng phương pháp chức năng hệ thống của M.A.K
Halliday phát triển từ lý luận ngôn ngữ học chức năng. Từ quan niệm xã
hội học - ký hiệu về ngôn ngữ, lấy cú làm trung tâm từ đó xem xét nhận
diện nó từ các bình diện khác nhau nhằm mục đích làm sáng tỏ đơn vị ngữ
pháp quan trong của tiếng Việt.
Nguồn tư liệu chủ yếu được lấy từ các tài liệu, sách báo, tạp chí bằng
tiếng Việt, xuất bản trong nước, và những văn bản đã được đăng tải trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
3. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn trừ phần mở đầu và phần kết luận sẽ được cấu trúc thành ba
chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Cú pháp – những vấn đề chung và việc nghiên cứu cú
pháp tiếng Việt. Chương này, chúng tôi trình bày về cú pháp với những vấn
đề cơ bản như: vấn đề về đối tượng của cú pháp, mối quan hệ giữa quan hệ
ngữ pháp với hình thức cú pháp. Chúng tôi cũng trình bày khái quát về việc
nghiên cứu cú pháp ở trong và ngoài nước, sau đó trình bày một vài đặc
điểm cơ bản của cú pháp tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ đơn lập.
Chương 2: Khái niệm câu đơn tiếng Việt theo quan niệm truyền
thống. Trong chương này chúng tôi sẽ đi tìm hiểu và phân t ích khái niệm về
16


câu (đơn) theo quan niệm truyền thống và các tiêu chí đề phân loại và nhận
diện đơn vị câu. Từ đó chỉ ra những tồn tại của vấn đề theo đường hướng

này.
Chương 3. Khái niệm cú tiếng Việt theo quan điểm chức năng hệ
thống. Trong chương này c húng tôi sẽ trình bày về khái niệm cú (đơn)
trong tiếng Việt theo quan điểm của lý thuyết chức năng hệ thống, vận
dụng các tiêu chí nhận diện cú theo lý thuyết này để giải quyết vấn đề cú
trong tiếng Việt. Các tiêu chí nhận diện được chia theo hai nhóm: nh óm các
tiêu chí về ngữ nghĩa và nhóm các tiêu chí về ngữ pháp - từ vựng. Trong
chương này chúng tôi dành một phần (3.5) để so sánh giữa việc khái luận
cú theo quan điểm truyền thống với cú theo quan điểm của ngôn ngữ học
chức năng hệ thống từ đó chỉ ra tính chất ưu việt của ngôn ngữ học chức
năng hệ thống trong việc giải quyết vấn đề câu.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Hữu Châu, 2001. Đại cương ngôn ngữ học (tập 2). Hà Nội:
Nxb GD
2. Đinh Văn Đức, 2001. Ngữ Pháp tiếng Việt (từ loại). Hà Nội:
Nxb ĐHQGHN
3. Đinh Văn Đức & Lê Xuân Thọ, 2005. Trạng ngữ ngữ dụng –
một thành tố cú pháp giao tiếp của phát ngôn tiếng Việt . T/c
ngôn ngữ, số 8 /2005.
4. Cao Xuân Hạo, 1991. Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng
(quyển 1). Hà Nội: Nxb KHXH.
5. Cao Xuân Hạo (chủ biên), 1992. Câu trong tiếng Việt. Hà Nội:
Nxb GD-HN.
6. Diệp Quang Ban, 1992. Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: Nxb GD.
7. Diệp Quang Ban, 2003. Phân biệt ba bình diện văn bản, giao
tiếp, biểu hiện trong ngữ pháp câu.T/c ngôn ngữ, số 7. 2003.

8. Diệp Quang Ban, 2000. Thử điểm qua việc nghiên cứu ngữ
pháp tiếng Việt trong nửa thế kỉ qua- T/c ngôn ngữ, số 9. 2000.
9. Diệp Quang Ban, 1995. Tiếng Việt lớp 7 (tập 2). Hà Nội: Nxb
GD.
10. Hữu Quỳnh, 1980. Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: Nxb
GD.
11. Hồ Lê, 1991. Cú pháp tiếng Việt. Hà Nội: Nxb KHXH.
12. Hoàng Trọng Phiến, 1980. Ngữ pháp tiếng Việt (câu). Hà Nội:
Nxb ĐH&THCN.
13. Hoàng Văn Vân, 2000. Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt
(mô tả theo quan điển chức năng hệ thống). Hà Nội: Nxb KHXH.
14. Lê Xuân Thại, 1969. Cụm từ và phân tích câu theo cụm từ. T/c
ngôn ngữ, số 2/1969
18


15. Lê Xuân Thại, 1998. Câu chủ vị trong tiếng Việt. Hà Nội: Nxb
KHXH.
16. Lƣu Vân Lăng, 1975. Một số mâu thuẫn trong quan niệm cụm
từ là trung tâm của ngữ pháp tiếng Việt.T/c ngôn ngữ, số 1.
1975.
17. Lƣu Vân Lăng, 1970. Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt trên
quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân - T/c ngôn ngữ, số 3.
1970.
18. Lƣu Vân Lăng, 1994. Những vấn đề của ngữ pháp tiếng Việt
(chủ biên). Nxb KHXH.
19. Lý Toàn Thắng, 1981. Giới thiệu lý thuyết phân đoạn thực tại
câu. T/c ngôn ngữ, số 1/1981.
20. Halliday. M.A. 2001. Dẫn luận ngữ pháp chức năng. Hà Nội:
Nxb ĐHQGHN. Bản dịch của Hoàng Văn Vân.

21. Nguyễn Đức Dân, 1987. Lô gich – ngữ nghĩa – cú pháp. Hà
Nội: Nxb ĐH & THCN.
22. Nguyễn Chí Hoà, 2003. Đề- chủ ngữ- vai ngữ nghĩa trong tiếng
Việt. Ngữ học trẻ, 2003.
23. Nguyễn Kim Thản, 1991. Một số vấn đề về việc biên soạn
quyển ngữ pháp phổ thông.T/c ngôn ngữ, số 1/1969
24. Nguyễn Kim Thản, 1997. Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Hà
Nội: Nxb GD.
25. Nguyễn Lai, 1997. Những bài giảng về ngôn ngữ học đại
cương. Hà Nội: Nxb ĐHQGHN.
26. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp – Thành phần câu
tiếng Việt - Nxb ĐHQGHN-HN 1998.
27. Nguyễn Tài Cẩn - Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt T/c NN số 6. 1998.

19


28. Nguyễn Tài Cẩn- ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng -từ ghép-đoản
ngữ)- Nxb ĐHQGHN- HN 1998.
29. R. H. Robins – Lược sử ngôn ngữ học (Hoàng Văn Vân dịch) –
Nxb ĐHQG HN 2003.
30. Trƣơng Văn Trình, Nguyễn Hiến Lê - Khảo luận về ngữ ph áp
Việt Nam – Nxb Đại học Huế – H 1963.
31. Trần Ngọc Thêm – Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt – Nxb
GD –TP.Hồ Chí Minh 2000.
32. Uỷ ban KHXH – Ngữ pháp tiếng Việt – Nxb KHXH-HN
1983(sách tái bản L3).

20



NGỮ LIỆU MINH HOẠ
1. Hồ Chí Minh – Hồ Chí Minh- toàn tập(IV)- Nxb Chính trị quốc
gia – HN 1995.
2. Kim Lân – Vợ nhặt - (Sách văn 12) - Nxb GD- HN 1997.
3. Nam Cao - Đôi mắt- (Sách văn 12) - Nxb GD- HN 1997..
4. Nam Cao – Đời thừa - (Sách văn 11) - Nxb GD- HN 1997
5. Nam Cao – Chí Phèo- (Sách văn 11) - Nxb GD- HN 1997
6. Nguyễn Công Hoan - Mất cái ví - (Sách văn 11)- Nxb GD - HN
1997.
7. Nguyễn Tuân – Người lái đò sông Đà -(Văn 12)- Nxb GD-HN
1997.
8. Nhiều tác giả -Truyện ngắn Việt Nam chọn lọc– Nxb TN- HN –
2000.
9. Tô Hoài – Vợ chồng A Phủ – (Sách văn 12)- Nxb GD- HN 1997.
10. Thạch Lam- Hai Đứa trẻ - (Sách văn 11) - Nxb GD- HN 1997.
11. Vũ Trọng Phụng- Giông tố- (Sách văn 11)- Nxb GD- HN 1997.
12. Vũ Trọng Phụng- Số đỏ - (Sách văn 11) - Nxb GD- HN 1997.

21



×