Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Sự tha hóa của con người trong sáng tác của nam cao trước 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.4 KB, 37 trang )

Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Báo cáo đề tài:

Sự tha hóa của con người trong sáng tác của
Nam Cao trước 1945

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

1

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con
người ở nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học,
là những câu chuyện về cuộc đời, về những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì,
mỗi giai đoạn văn học khác nhau, số phận con người cũng được quan tâm khác
nhau, như văn học thời kì trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người
cộng đồng. Trong khi đó văn học hiện đại chuyển xu hướng đó qua từng cá nhân
cụ thể.
Văn học Việt Nam hiện đại, tiêu biểu là xu hướng văn học hiện thực phê
phán, quan tâm, khám phá sâu sắc đời sống vật chất và đời sống tinh thần của


từng cá nhân cụ thể, đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm bí ẩn của từng số
phận con người. Trong đó, nhà văn Nam Cao – một hiện tượng văn học đặc
biệt, ông không chỉ thể hiện nỗi đau của con người trong xã hội hiện tại, ông còn
bộc lộ nỗi đau của mình trước sự tha hóa của con người. Nam Cao luôn băn
khoăn, trăn trở tìm kiếm lối thoát cho những số phận luôn bị dằn vặt bởi cái
nghèo, cái đói. Họ bị biến đổi cả hình hài lẫn nhân tính cũng bởi những lo toan
cơm, áo, gạo tiền và cả ý nghĩa cuộc sống. Những bi kịch luôn xảy ra với các
tầng lớp trong đời sống xã hội từ người nông dân đến người trí thức.
Những trang viết của Nam Cao đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới nghiên
cứu văn học. Họ nghiên cứu về đời sống nhà văn, về nội dung sáng tác, về tư
tưởng, phong cách và về bút pháp nghệ thuật. Vì thế, người viết luận văn này
mong muốn được khám phá thêm một phương diện trong phong cách sáng tác
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

2

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

của Nam Cao. Đó là nỗi đau về sự tha hóa của con người trong giai đoạn
trước1945.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu về sự tha hóa của con người thể hiện trong các tác phẩm
truyện ngắn và tiểu thuyết của Nam Cao trước 1945 (khoảng 42 tác phẩm).
Nhằm khẳng định thêm một nét riêng về đặc trưng phong cách của Nam Cao

trong số các nhà văn cùng khuynh hướng hiện thực phê phán. Đồng thời tham
khảo ý kiến của những nhà nghiên cứu – phê bình về sáng tác của Nam Cao.
“Người và tác phẩm Nam Cao “ (1956) hay “Những kỉ niệm Nam Cao” (1991) và
khẳng định “Nam Cao không che dấu, không màu mè gì hết, nói toạc cái cuộc
sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như anh”. Ông khẳng
định tác phẩm Nam Cao luôn thể hiện những trải nghiệm từ cuộc sống của tác giả.
Nằm trong số những người đầu tiên nghiên cứu về Nam Cao, từ năm 1960,
Phong Lê – Huệ Chi có công trình nghiên cứu “Đọc truyện ngắn Nam Cao soi
lại những bước đi lên của nhà văn hiện thực”, ông có nhận định “Đọc tập
truyện ngắn của Nam Cao trước tiên chúng ta hiểu và yêu mến thêm Nam Cao,
nhà văn đã chân thành giãi bày cuộc đời mình, một cuộc đời vốn mang theo
bao nhiêu tâm trạng tủi hổ, xót xa nhưng luôn luôn ngoi lên chửi trả lại cuộc
sống tối tăm và luôn luôn khao khát tìm đến cho mình và con người của tầng lớp
mình một cuộc sống sao cho thật có ý nghĩa nhân đạo và sáng tạo” Ông nhấn
mạnh những sáng tác của Nam Cao có mối quan hệ trực tiếp từ hiện thực cuộc
sống. Luận văn khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu trong những sáng tác của
Nam Cao trước 1945 (dựa theo Nam Cao toàn tập, 3 tập do Hà Minh Đức, Nxb
Văn học, 2000). Và nghiên cứu vị trí của Nam Cao trong trào lưu hiện thực phê

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

3

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng


phán gồm các nhà văn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan… và những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề cương đưa ra một số phương pháp nghiên cứu để làm tiểu luận
như:
Phương pháp hệ thống: xem xét tác phẩm như một chỉnh thể, toàn bộ tác
phẩm của Nam Cao như một hệ thống và là một yếu tố xuyên suốt trong tất cả hệ
thống sáng tác của Nam Cao.
Phương pháp so sánh: ở hai cấp độ
So sánh các tác phẩm của Nam Cao để thấy sự ổn định, bền vững và sự phát
triển phong cách nghệ thuật nhà văn theo hướng vừa thống nhất, vừa đa dạng.
So sánh với các tác phẩm của các tác giả khác để thấy được sự độc đáo,
mới mẽ của phong cách nghệ thuật Nam Cao.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: đưa ra những dữ kiện để phân tích và tổng
hợp
Phương pháp thống kê: để tìm tần số lặp đi đi lặp lại của các yếu tố tạo nên
chủ đề và phong cách sáng tác.
4. Đóng góp đề tài
Tìm hiểu sự tha hoá của con người trong sáng tác của Nam Cao trước năm
1945 sẽ góp phần giúp chúng ta nhận thức một cách toàn diện hơn về con người tài
năng và phẩm giá, những đóng góp của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam.
5. Cấu trúc của bài tiểu luận.
Bài tiểu luận này được sắp xếp thành 3 phần.
A. Mở đầu: Giới thiệu chung, hoàn thành các mục cơ bản của bài tiểu luận.
B. Nội dung:
Chương 1: Nam Cao với chủ đề tha hoá trong sáng tác trước 1945.

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

4


Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Chương 2: Phương diện và hệ quả của sự tha hoá trong sáng tác của Nam
Cao trước 1945
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện sự tha hoá trong sáng tác của Nam Cao trước 1945.
C. Kết luận: Hệ thống lại những luận điểm, nội dung chính của bài tiểu luận.

B. NỘI DUNG
Chương 1: NAM CAO VỚI CHỦ ĐỀ THA HÓA TRONG SÁNG TÁC
TRƯỚC 1945
1.1. Khái niệm tha hóa:
1.1.1. Một số định nghĩa:
Tha hóa là một từ được dùng theo những ý nghĩa khác nhau, nói cách khác
là một từ có nhiều khái niệm:
Trong đời sống cộng đồng, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa đạo
đức, nói về những trường hợp người bị biến chất, bị mất đi những phẩm chất tốt
đẹp vốn có của mình trước đây.
Trong nghiên cứu khoa học - xã hội, tha hóa là một khái niệm có ý nghĩa
triết học, nói về một hiện tượng, một quy luật diễn ra trong đời sống xã hội.
Như vậy, theo từ điển Tiếng Việt, tha hóa mang hai ý nghĩa đạo đức và ý
nghĩa triết học. (Nhưng từ điển Tiếng Việt chỉ ghi tha hóa là “Động từ”. Thực ra
tha hóa có khi là động từ, có khi là danh từ, tính từ, vì người ta vẫn gọi là “Sự tha
hóa”.)
1.2. Vấn đề tha hóa trong sáng tác của Nam Cao:

1.2.1. Quan niệm của Nam Cao về tha hóa:
Với Nam cao, thế giới con người thật muôn màu muôn vẻ. Đời sống nhân
vật trong sáng của ông bị ảnh hưởng và chi phối từ nhiều phía.
SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

5

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Nam Cao không đưa ra ý niệm tha hóa cụ thể như Hê - ghen mà ông cụ thể
hóa nó bằng những hiện thực sinh động trong sáng tác của mình. Đó là trạng
thái con người bị mất gốc, bị cắt đứt những giá trị Người, tách rời với những
chuẩn mực đạo đức xã hội. Xa rời cộng đồng, họ biến đổi theo chiều hướng ngày
càng xấu đi, thành những cái khác đối nghịch lại cái ban đầu, những giá trị Người.
Với cách hiểu như vậy, trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng
Tám có khoảng 30 trong 136 nhân vật thuộc kiểu người đang đánh mất dần
nhân tính: liều mạng, hung dữ, bất cần đời như Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ.
Tham ăn, khát uống, giành giật, tồi tệ như anh cu Lộ trong Tư cách mõ, người cha
trong Trẻ con không được ăn thịt chó,
Trước Nam Cao đã có nhiều nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn
Công Hoan, Nguyên Hồng cũng đã viết nhiều về vấn đề tha hóa của con người
ở hai lĩnh vực giàu – nghèo trong xã hội. Họ tập trung miêu tả nhân vật bị tha hóa
bề ngoài. Trong Bỉ vỏ, Nguyên Hồng miêu tả nhân vật Tám Bính dù tha hóa
nhưng trước sau vẫn là một tâm hồn phụ nữ thuần hậu giàu đức hi sinh, muốn
sống bằng bàn tay lao động của mình. Còn Vũ Trọng Phụng miêu tả sự trụy lạc

của con người do những dục vọng không thành, đó là tình trạng tha hóa của
Long, Mịch, ông bà đồ Uẩn trong Giông tố. Ông không phơi bày những tính hư
tật xấu của nhân vật, mà từ trái tim nhân hậu, yêu thương trân trọng con người
đã cho thấy tha hóa là một quá trình biện chứng có tính quy luật do nhiều yếu tố
tác động. Cả hai yếu tố trên cũng có quan hệ biện chứng, hoàn cảnh tác động và
trách nhiệm của bản thân không vượt lên được hoàn cảnh. Đó cũng chính là
vần đề cốt lõi hình thành quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống. Từ
đó, ta có thể hình dung được phong cách và tầm vóc của nhà văn trong xã hội
đương thời.
1.2.2. Nguyên nhân của sự tha hóa:
1.2.2.1. Tha hóa do tự thân.

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

6

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Là nhà văn hiện thực, Nam Cao đã có cái nhìn tổng thể về con người, con
người chịu sự chi phối của hoàn cảnh sống và bản thân con người cũng bất
lực trước hoàn cảnh sống.
Trong những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng, cái đói, miếng ăn cứ
trở đi, trở lại như một quy luật, một nỗi ám ảnh đeo bám con người. Các nhà văn
cùng thời Kim Lân, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan…Cũng đau lòng, nhức nhối trước tình trạng đói nghèo, tha hóa ở người

nông dân. Còn đối với Nam Cao nó không chỉ tập trung ở người nông dân cùng
khổ, mà còn ở những người trí thức.
Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao đã tự thân tha hóa ở nhiều phương
diện khác nhau, từ cách ăn mặc, suy nghĩ tới lời nói và hành động của mình.
1.2.2.2. Tha hóa do các tác nhân ngoại cảnh.
Nam Cao không chỉ thể hiện lòng thông cảm, xót thương cho những
người nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội mà còn thể hiện những trăn trở, dằn
vặt khôn nguôi trước cuộc sống vô nghĩa, bế tắc. Nhà văn buồn cho những kiếp
người nhưng vẫn tin tưởng ở họ. Tin ở bản tính hiền lành, chất phát của con
người. Nên các nhân vật của ông không buông xuôi, thụ động mà luôn tích cực,
chủ động vươn lên trong cuộc sống.
Các nhân vật trong sáng tác của Nam Cao dù tự thân tha hóa hay do tác
động của ngoại cảnh thì kết cục của những sự tha hóa đó thường là cái chết nhưng
không phải cái chết theo quy luật sinh hóa lẽ thường (Sinh Lão bệnh Tử).
Các nhân vật rơi vào bi kịch, tha hóa, tìm đến cái chết nhưng không phải là
cái chết ngờ nghệch, mù quáng. Vì thế, mà cái chết của các nhân vật được Nam
Cao miêu tả không hề vô nghĩa. Đó là hồi chuông thức tỉnh mọi người, cảnh báo
một xã hội đầy rẫy những bất công, phi lí.

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

7

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng


Chương 2: PHƯƠNG DIỆN VÀ HỆ QUẢ CỦA SỰ THA HÓA TRONG
SÁNG TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC 1945
2.1.Các phương diện của sự tha hóa:
2.1.1. Tha hóa về đạo đức - nhân cách:
Đạo đức - một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội
thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực đời
sống của xã hội không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức
điều chỉnh hoạt động quần chúng như pháp quyền, những sắc lệnh nhà nước,
những truyền thống dân tộc… Những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn
phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự
ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này, có tính chất tương đối bền vững. Trong đạo
đức, bên cạnh ý thức xã hội, ý thức cá nhân đóng một vai trò không kém quan
trọng. Dựa vào những quan niệm đạo đức, lĩnh hội những quan niệm đó trong
quá trình giáo dục, với mức độ đáng kể, cá nhân có thể điều chỉnh hành vi của
mình và tự nhận định về ý nghĩa đạo đức với tất cả những gì diễn ra chung quanh.
Nét đặc trưng của nhân cách là thừa nhận “Cá nhân” là hiện thực có trước
và là giá trị tinh thần cao nhất, hơn nữa “Cá nhân” được hiểu như yếu tố tinh
thần đầu tiên của tồn tại. Tha hóa về đạo đức – nhân cách thể hiện trong sự
phát triển của cá nhân theo chiều hướng ngược lại những chuẩn mực đạo đức xã

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

8

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng


hội. Nam Cao viết nhiều về những người trí thức tiểu tư sản, tức nhắm vào
tầng lớp mình, bản thân mình.
Nam Cao luôn nhìn đời bằng con mắt của tình thương, do đó tiếng nói của
ông bao giờ cũng mang âm hưởng của tình thương. Xuất phát từ quan niệm sống
tích cực về con người nhằm giúp con người nhận ra và biết xấu hổ về những gì
là phàm tục, tầm thường của bản thân trong cái môi trường xã hội tù hãm, u
ám và thê thảm vây quanh họ. Những trang viết của Nam Cao luôn có âm hưởng
mỉa mai, chua chát pha chút đáng cay ngậm ngùi, đó là nỗi đau triền miên của
tác giả trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm. Như Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh đã có một nhận định tinh tế và xác đáng về thái độ của
Nam Cao: “Nam Cao ghét cay, ghét đắng những lối phàm tục tiểu tư sản. Đặc
biệt là lối sống nhỏ nhen, ích kỷ, tính giả dối và thái độ hèn nhát. Mỗi truyện
ngắn, truyện dài của ông viết về tiểu tư sản là một cuộc phân tích và chế giễu
cay độc những thói xấu ấy…. Tình trạng bế tắc ấy đã đem đến cho Nam Cao một
giọng văn riêng, vừa ngậm ngùi buồn tủi, vừa cay đắng chua chát lại pha chút tự
trào cười ra nước mắt”
2.1.2. Tha hóa trong lối sống - hành vi.
2.1.2.1. Con người chạy trốn thực tại:
Đúng hơn là đối diện với chính mình, với thực tại, nhân vật của Nam Cao
luôn có sự đấu tranh, giằng co tư tưởng rất quyết liệt để vươn lên cuộc sống
xứng đáng.
Nghệ thuật và đời sống luôn mâu thuẩn, muốn lao động sáng tạo nghệ thuật
nhưng những khó khăn trong cuộc sống thật khó thực hiện, không yên tâm mà
nghĩ đến việc viết văn. Đó là mâu thuẩn gặp nhiều ở những nhân vật trí thức như
Hộ, Điền, Thứ… Mơ ước của họ chỉ muốn viết văn sao cho hay, có giá trị, xây
dựng một sự nghiệp văn chương chân chính trước cuộc sống vô cùng khó khăn,
hằng ngày phải lo cơm áo. Nhân vật của Nam Cao chạy trốn thực tại khi đã đối

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân


9

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

diện với nó, đấu tranh tồn tại với nó. Họ chỉ buông xuôi khi không thể níu kéo.
Điều đáng trân trọng ở họ luôn có lòng tự trọng về nghề nghiệp và mơ ước.
Họ không ôm đồm, nữa vời để viết những tác phẩm vô vị.. Nam Cao đã không
để nhân vật có một cái nhìn phiến diện, chủ quan mà luôn biết đặt mình vào
hoàn cảnh của người khác.
Nam Cao xây dựng nhân vật rất khác các nhà tiểu thuyết lớp trước. Thế
giới nhân vật của ông không gồm hai mặt chính diện và phản diện rạch ròi. Mà
các nhân vật cũng không thống nhất giữa diện mạo và phẩm chất. Dưới ngòi bút
của ông các nhân vật thường đa dạng, phức tạp nhưng rất gần với cuộc sống.
Cuộc sống thực tế chi phối và tác động đến tính cách của nhân vật. Các nhà văn
hiện thực trước như Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng… Xây dựng các nhân vật phần nhiều thể hiện trên bình diện đạo đức, xã
hội. Còn các nhân vật của Nam Cao ngoài các bình diện trên, còn được nhà văn
chú ý đến bình diện đời sống tự nhiên, bản năng và nội tâm phức tạp.
2.1.2.2. Con người giành giật nhau từng miếng ăn:
Dân tộc ta bị giặc ngoại xâm bóc lột hàng ngàn năm, từ giặc phương Bắc
đến thực dân Pháp. Đối với nhân dân ta miếng ăn, manh áo đã trở thành nỗi ám
ảnh, sự đấu tranh sinh tồn. Thực tế đó đã được phản ánh nhiều từ văn học dân
gian, đến văn học trung đại và hiện đại. Còn đối với Nam Cao, miếng ăn là sự
thách thức ghê gớm đối với nhân cách con người, nó phá vỡ những mối quan

hệ, tình cảm thân thuộc hằng ngày hay những giá trị nhân bản. Nam Cao là đại
biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực thời kì này, ông miêu tả số phận người
nông dân cùng quẫn trong xã hội nửa thực dân phong kiến như Chí Phèo . Trong
ăn uống, người ta vẫn ưu tiên cho người có tuổi những món ngon, hiếm như sự
kính trọng. Trong sáng tác của Nam Cao, đời sống con người là sân khấu bi kịch
và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng xoay quanh việc giành giật miếng ăn
để sống. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá những suy tư của

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

10

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

con người về nhiều góc độ của miếng ăn. Miếng ăn cứu đói, miếng ăn giữa làng
hay miếng ăn vì danh dự. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả miếng ăn
rất phong phú, nó gắn liền với hoàn cảnh sống của con người. Tác giả mong
muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống xung quang cái ăn, cái uống. Nhân
tính con người một phần cũng được thể hiện ở đây. Chí Phèo phải thay hình đổi
dạng, đổ máu dọa nạt người khác để kiếm ăn, một lão Hạc tự vẫn cũng muốn giữ
lại phần của con, hay người cha “Nghèo” treo cổ cũng không muốn ăn cơm trong
khi con mình phải ăn cám… Nhân vật không chỉ tha hóa khi giành giật miếng ăn
của nhau, mà còn tha hóa khi tìm cái chết để giữ lại miếng ăn cho người khác. Ở
khía cạnh này, tha hóa có tính bi kịch hơn, đau đớn hơn. Rõ ràng, vấn đề ăn để
mà sống luôn gắn với sự tồn tại nhưng chết để giữ lại miếng ăn cho người khác

thì cái chết ấy thật ý nghĩa. Hay cái chết no của bà cái Đĩ. Cái chết trong quằn
quại vì ăn bả chó của Lão Hạc. Cái chết vì xấu hổ và trì độn của lang Rận và mụ
Lợi. Và cái chết giấu giếm vợ con của người cha đau ốm trong Nghèo. Hầu hết
họ đều chủ động tìm đến cái chết, chết trong sự bần cùng, bế tắc, bi kịch.
2.2. Hệ quả của sự tha hóa:
2.2.1. Đánh mất chính mình:
Đánh mất chính mình là một dạng của sự tha hóa. Con người đã không còn
giữ được tính cách, phẩm chất của mình, thay đổi thành một con người khác đối
lập với chính mình trước đây. Sự tha hóa này nhằm thích nghi với cuộc sống
hiện tại, với xu hướng mới, gạt bỏ đi những giá trị tốt đẹp vốn có.Những diễn
biến tình cảm suy tư của của thế giới bên trong nhân vật làm cho người đọc có
những cảm giác giày vò, nhức nhối về cuộc sống có phần bế tắc của họ. Đó cũng
là hồi chuông mà Nam Cao muốn cảnh báo đến những thành phần trong xã hội
muốn đổi đời bằng con đường bất chính, tha hóa. Cuộc sống chỉ thực sự có ý
nghĩa khi con người làm ra của cải vật chất bằng chính đôi bàn tay và khối óc,
bằng lao động chân chính. Những nhân vật như Bá Kiến trong “Chí Phèo”, Nghị

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

11

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Hách “Giông Tố” hay Nghị Quế “Tắt Đèn”… Họ đã đánh mất con người của
mình từ lâu. Với họ, ngoài đồng tiền, địa vị và quyền lực trên đời này không còn

gì đáng quan tâm cả.
2.2.2. Làm mất tính người.
Các nhân vật đánh mất tình người phần nhiều do hoàn cảnh tác động. Cuộc
đời họ cứ vậy trôi chảy trong sự bất lực của bản thân, tác giả cũng xót xa nhìn
nhân vật của mình cứ trượt dài trong quá trình đánh mất mình. Hiện tượng biến
chất ở nhân vật Chí Phèo và hàng loạt những nhân vật khác như Binh Chức,
Năm Thọ, Trương Rự… Đều do hoàn cảnh xô đẩy như một quy luật không
cưỡng lại được.
Hoàn cảnh sống có khả năng làm tha hóa con người, con người muốn không
bị tha hóa thì phải có ý thức chống lại những mặt tiêu cực của bản thân. Nhưng
trớ trêu thay, họ lại là nạn nhân của hoàn cảnh. Tác giả đã cho thấy áp lực của
hoàn cảnh gây sức ép đẩy nhân vật vào cảnh ngộ bi đát. Hầu hết, họ đều vùng vẫy
trong sự bế tắc để chống lại hoàn cảnh như sự nghèo khổ, miếng cơm manh áo,
cái tầmMái ấm gia đình là sợi dây vô hình ràng buộc con người sống với
nhau, có tình thương và trách nhiệm. Dù hoàn cảnh sống có chật vật, khó khăn
nhưng mối quan hệ của các thành viên trong gia đình luôn tác động với nhau
vươn lên trong cuộc sống. Có đôi lúc, họ xem sự hiện diện của người khác là
trách nhiệm, là gánh nặng cho bản thân họ. Dạng người mà Nam Cao miêu tả,
hiện nay khá phổ biến trong xã hội. Biết bao đứa trẻ bị bỏ rơi trong bệnh viện
khi vừa chào đời, người ta không còn nói riêng trẻ mồ côi mà nói chung “Trại
trẻ mồ côi”. Hay những người già neo đơn, cơ nhỡ, họ không phải không có
người thân mà họ có cả một gia đình hẳn hoi, nhưng đã bị chính những người
con, những người cháu được họ nuôi dưỡng khôn lớn đã ném họ ra ngoài xã hội
trong tuổi già vì nhiều lí do khác nhau nhưng nhìn chung cũng chỉ vì đồng tiền và
sĩ diện. Vì đồng tiền người ta đã tha hóa, đánh đổi tất cả, trước tiên là đánh mất

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

12


Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

bản thân. Đánh mất những giá trị nhân bản, phá vở những truyền thống tốt đẹp.
Thông qua cái chết mòn về thể xác do nghèo đói, Nam Cao muốn nhấn mạnh
đến cái chết về nhân tính đang diễn ra hàng ngày ở mọi nơi, mọi giới trong xã
hội. Vẫn còn đó những con người bất hạnh, khổ sở, những thân phận tù túng
không lối thoát hay những con người đã mòn mỏi mưu sinh đến kiệt quệ. Một xã
hội có giai cấp bóc lột, bị bóc lột, giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị. Những
người bị tha hóa ở mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Những giá trị đạo đức
truyền thống không còn đủ sức mạnh để gìn giữ, bảo vệ các mối quan hệ. Thì
nay, nông thôn cũng bị thành thị hóa về đời sống tư tưởng. Thì cái làng quê trong
sáng tác của Nam Cao là cuộc sống bình thường nhưng đầy bất ổn, rạn vỡ khi
đời sống con người đang băng hoại dần, tha hóa, biến chất. Nó được biểu hiện
qua bộ mặt của bọn cường hào hoặc những viên quan phụ mẫu. Chúng không
phải là chỗ tin cậy, hay chỗ dựa của những người dân thấp cổ bé miệng, Những
con người lam lũ, nhếch nhác không trông đợi được ở chúng sự công bằng. Mà
họ luôn chịu những oan ức bất công trong sự chịu đựng, câm lặng và tuyệt vọng
Nếu cái đói diễn ra thường xuyên, dai dẳng và lan rộng thì hệ quả của nó là cái
chết, mặc dù không phải tất cả cái đói đều dẫn tới cái chết. Dù chết vì bệnh hay
chết vì no nhưng nhìn chung do cái đói gây ra. Cái đói hủy hoại con người cả
thể xác lẫn tinh thần, hủy hoại cả nhân tính, cứ nhìn vào cách nói của bà Phó
Thụ cũng có thể khẳng định đối với người làm thuê và người thân của họ bà
chẳng thể hiện một chút cảm tình nào. Nam Cao đã phơi bày sự thật về những
thực trạng đau lòng, những thảm cảnh của người nông dân không có ruộng cày,
không có vườn tược. Họ phải tính toán, xoay xở mọi cách để sống qua ngày

như đi ở, đi làm thuê, cuốc vườn, vay nợ, chạy chợ, bán con, ăn xin, ăn chực,
lên rừng,… Tác giả cứ lật đi lật lại từng hoàn cảnh sống, từng khía cạnh tâm hồn
của mỗi người. Các hoàn cảnh điển hình đều có khả năng nhân rộng, khuất tán ra
toàn xã hội, có tính phổ quát của đời sống nhân dân lũ, sống nhịn nhục, cam

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

13

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

chịu sức ép từ nhiều phía Rõ ràng, các sáng tác của Nam Cao luôn có các mặt
tưởng chừng như trái ngược nhau mà thống nhất với nhau để làm rõ các khí
cạnh của vấn đề mà tác giả muốn đề cập. Điều đó, ông giúp cho người đọc có
cái nhìn vừa khái quát, vừa chi tiết về sự phong phú trong các trang viết của
ông. Đồng thời, đây cũng là cơ sở cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu rõ hơn về
bộ mặt nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Cái làng quê phía sau lũy tre làng
có vẻ yên lành ấy vẫn tồn tại rất nhiều mặt trái của con người. Bởi thế, dù rất
thương yêu vợ và vợ rất chung thủy với mình Dù tha hóa ở các mức độ khác
nhau, nhưng nhìn chung họ đều đánh mất tính người. Dư âm của mỗi hoàn cảnh
luôn để lại nỗi xót xa trong lòng người đọc. Cái chết và tội lỗi luôn rình rập con
người, nếu họ yếu đuối sẽ dễ bị sa ngã, rơi vào con đường tù tội, tan nhà nát
cửa. Còn nếu họ tỉnh táo hơn thì họ lại chọn cái chết như một sự giải thoát hay
mang theo một niềm hy vọng nào đó gởi gắm lại cho những con người ở lại. Các
trang viết của Nam Cao như hồi chuông dài, rung, vang, lan rộng đến mọi người

đang im lìm, cam chịu, chờ chết. Và cũng báo hiệu một xã hội đang thoái trào,
đang chết mòn, chết mỏi trong sự bất lực của con người. Với tư cánh là nhà văn
hiện thực luôn quan tâm, bênh vực quyền sống của con người trong xã hội thực
dân phong kiến, Nam Cao không ngần ngại phơi bày trên các trang viết của
mình về thực tiễn những gì đang diễn ra trong xã hội đương thời.
2.2.3. Thay đổi các mối quan hệ:
Trong đó, các quan hệ xã hội có tính chất đặc biệt. Con người có quan hệ
với những sự vật do họ tạo ra, với thế giới khách quan và những người khác. Do
đó, con người soi thấy bản thân mình trong cái thế giới mà họ khám phá ra và bắt
đầu quan hệ với bản thân mình với tính cách là một con người (Có sự tự ý thức)
chỉ khi có quan hệ với người khác như với một cái gì giống bản thân mình. Chính
vì thế, một mặt giải thích bản chất xã hội của ý thức con người và mặt khác giải
thích sự cần

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

14

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

thiết phải nghiên cứu các quan hệ xã hội để nhận thức lịch sử và nhận thức
mối quan hệ giữa con người với con người.
Mối quan hệ hợp tác làm ăn, chung sống, thể hiện rõ trong “Sống mòn” Thứ,
San, Oanh cùng sống chung một nhà, ăn chung một bàn, làm chung một chỗ, lúc
đầu họ sống rất thân thiết, gắn bó. Nhưng sự tha hóa của Oanh đã phá vỡ mối

quan hệ tốt đẹp vốn có của các thành viên trong nhà. Thứ và San đứng về một
phía đối trọng lại với Oanh từ suy nghĩ cho đến hành động đều thể hiện sự tương
phản, bất hòa. Thông thường, mối quan hệ chỉ tốt đẹp khi lợi ích của các bên
được đảm bảo. Từ đó, có sự ràng buộc qua lại và tôn trọng lẫn nhau, đồng thời
cần có nhau để cùng tồn tại và phát triển. Đó là trường hợp lúc mới lập trường,
Còn trong sáng tác của Nam Cao, ở đề tài này chỉ tìm hiểu quá trình tha hóa của
các nhân vật làm thay đổi các mối quan hệ. Các mối quan hệ trong sáng tác của
Nam Cao rất đa dạng như quan ra một thế lực đàn em như Binh Chức, Năm Thọ
và đặc biệt Chí Phèo đã trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến …. Nhưng họ đều
đều bị tầng lớp trên sử dụng như một con chốt trong kế hoạch gây áp giữa các phe
cánh. Cho nên, Mối quan hệ sống còn của các phe phái địa chủ, cường hào, ác
bá luôn bộc lộ những âm mưu nham hiểm, thâm độc mà nạn nhân trực tiếp của
chúng là đám dân lành thấp cổ bé họng. Chúng đấu tranh với nhau rất âm thầm
mà gay gắt, kín đáo mà sôi nổi. Tất cả nói lên bộ mặt tha hóa của giai cấp thống
trị, mối quan hệ đó ngày nay vẫn tồn tại, vẫn diễn ra hằng ngày ở các cấp lãnh
đạo, ở các cơ sở lao động sản xuất. Nạn đâm chọc nhau, ép phe nhau, gây hấn
nhau, âm thầm cấu kết nhau tạo thế lực, chạy chọt vận động hành lang… Để tạo
thế lực, sự ảnh hưởng, tiếng nói mạnh trong các vấn đề tranh chấp, bảo vệ quan
điểm, quyền lợi địa vị cá nhân và vây cánh thay vì chân thành góp ý phê bình,
xây dựng, rút kinh nghiệm. Một xã hội văn minh, tiến bộ khi mà các cấp lãnh
đạo có quan điểm trong sáng, tất cả vì lợi ích của nhân dân, đấu tranh cho tập

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

15

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học


GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

thể tiên tiến đại diện cho dân, thẳng thắn góp ý xây dựng vì lợi ích chung. Như
thế, mục đích và âm mưu của bọn người tha hóa sẽ không tồn tại.
Trong các quan hệ gia đình các thành viên tha hóa làm thay đổi các mối
quan hệ vốn được xem là vững vàng do được xây dựng trên nền tảng đạo đức,
sự ràng buộc của hôn nhân và tình nghĩa cha mẹ, vợ chồng, con cái. . . Lối sống
tự kỷ, ham muốn, đua đòi, vì bản thân mình gạt bỏ người thân, tình ruột thịt đó là
biểu hiện của xu hướng rất phổ biến trong xã hội đương thời. Người ta có thể vì
ham muốn, thỏa mãn dục vọng của bản thân sẳn sàng bỏ cha, mẹ, vợ chồng, con
cái… Báo chí thường xuyên có những bài viết về con cái hất hủi cha mẹ khi già
yếu, bệnh tật hay hết nguồn khai thác, bòn rút tiền bạc. Với tình yêu thương, cưu
mang của cha mẹ đối với con cái, lòng tôn kính, phụng thờ của con cái với cha
mẹ tạo nên sứ mạnh bên vững của mối quan hệ này. Nếu cha mẹ đối xử bạc
nhược đối với con cái cũng vi phạm đạo lí làm người, cha mẹ đã chấp nhận sinh
ra con cái, đó chính là khúc ruột của mình, mang nặng đẻ đau. Còn nếu con cái
đối xử thậm tệ với cha mẹ cũng vi phạm đạo hiếu, công ơn sinh thành, dưỡng dục
đến ngày khôn lớn thành người. Ca dao luôn nhắc nhỡ “Một lòng thờ mẹ kính cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con hay cơm cha áo mẹ chữ thầy, nghĩ sao cho bõ
những ngày ước ao”. Nhưng thực tế đời cuộc sống muôn màu muôn vẻ nhiều gia
đình trên dưới đảo lộn. Miếng ăn và ham muốn tầm thường đã làm thay đổi các
mối quan hệ. Bên cạnh những người cha hết lòng vì gia đình con cái đến hi sinh
cả tính mạng như lão Hạc, anh Chuột, anh Phúc... Mặt khác có những con
người sống cho thỏa mãn bản thân, bỏ bê gia đình con cái, chạy theo những
ham muốn tầm thường, phá vỡ các mối quan hệ tốt đẹp của gia đình. Sự tha hóa
của họ làm thay đổi cuộc sống, đi ngược lại những giá trị đạo lý. Cái nghịch lí
đó cho thấy các hạng người khác nhau trong xã hội, có người hi sinh bản thân
để giữ gìn mối quan hệ, đảm bảo sự sinh tồn, sống có trách nhiệm. Có kẻ vì bản


SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

16

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

thân, phá vỡ quan hệ, tìm kiếm sự tồn tại cho mình trên sự đau khổ của người
khác, vô trách nhiệm.
Bên cạnh đó, còn có mối quan hệ giữa tầng lớp thống trị nông thôn như lý
tưởng, cường hào với đám đông dân chúng, nói chung là mối quan hệ giữa tầng
lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Chẳng hạn, ở cái làng Vũ Đại nhìn bề ngoài thì rất
yên ả nhưng bên trong thì các phe đối lập luôn gầm ghè với nhau như cánh Bá
Kiến và Đội Tảo – những phe cánh thống trị, ngoài việc chúng mâu thuẩn với
nhau, thì mối quan hệ giữa chúng và đám đông dân chúng trong làng cũng
không hòa hợp. “Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ
hả: xưa nay họ chỉ mới được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ Bá chửi
người ta, bây giờ họ mới được nghe người ta chửi lại nhà cụ Bá. Mà chửi mới
sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao.” Tất cả đều sợ sệt, yếu ớt, nhu
nhược. Nói đúng hơn, họ là một tầng lao động cố nông, nhiều đời bị đè đầu cưỡi
cổ, không dám phản ứng lại. Họ không phải là giai cấp, không có tổ chức chức
lãnh đạo, nên chỉ sống lầm lủi từ đời này qua đời khác. Còn các thế lực thống
trị, cũng chẳng đại diện cho dân thế nhưng vẫn cứ dửng dưng tồn tại và cũng cố
thế lực uy danh qua nhiều đời, đời nào cũng tha hóa, đời nào cũng mâu thuẩn
với dân. Trong mối quan hệ này, phần thiệt luôn thuộc về tầng lớp thấp. Liên
tiếp những câu khẳng định với thái độ nghiêm túc, dõng dạc đầy quyết đoán. Lúc

này là lúc tinh thần anh mạnh mẽ nhất, sáng suốt nhất với bản lĩnh quyết tâm cao
độ nhất. Thế mà, thái độ của đám đông chỉ dừng Vì thế, chỉ khi Cách mạng
tháng Tám nổ ra thì mối quan hệ đó mới bị phá vở. Chúng bị lật đổ như quy luật
tất yếu của lịch sử. Ngoài ra, còn có mối quan hệ giữa các đôi trai gái dựa trên
tình cảm yêu đương chân chính. Họ mong muốn được sống bên nhau, nên vợ
nên chồng thành một gia đình hạnh phúc như bao gia đình khác. Thế nhưng,
hạnh phúc lứa đôi không phải một người mong muốn là được. Trong các mối
quan hệ, Nam Cao miêu tả thì mối quan hệ giữa các đôi trai gái là khá phức tạp

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

17

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

và dễ thay đổi. Bởi chúng không có cơ sở ràng buộc rõ ràng, nên sự phá vỡ các
mối quan hệ trên cũng không cần phải có lý do chính đáng. Đặc biệt, cách cư xử
của các nhân vật bị phụ bạc vẫn thể hiện được tính nhân văn, cao thượng. Họ
không hành xử một cách manh động hay trả thù cá nhân mà lại rất thấu tình
đạt lý. Hùng chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng người yêu mình ân ái với chàng
trai trẻ, anh chỉ âm thầm lặng lẽ rút lui. Bởi anh là nhà văn, anh có cách cư xử
của người trí thức. Ở chương trên, khi trình bày các phương diện và hệ quả của sự
tha hóa, luận văn chủ yếu tập trung vào một số phương diện và hệ quả mang tính
đạo đức, tư tưởng, hành vi và lối sống của các nhân vật. Thật khó để liệt kê và
trình bày hết các phương diện của sự tha hóa, nói đúng hơn còn rất nhiều phương

diện khác, nên chương này chỉ nêu các phương diện ở mức khái quát của phạm
trù đạo đức và lấy đạo đức làm chuẩn để lựa chọn các phương diện của sự tha
hóa. Về phần hệ quả của sự tha hóa, người viết chỉ trình bày theo hướng hậu quả
mà sự tha hóa đem lại. Phần nhiều, các hệ quả dựa trên bản thân nhân vật và mối
quan hệ giữa các nhân vật với nhau. Nhìn chung, chương này vẫn còn nhiều hạn
chế khi đặt tiêu đề cho các luận điểm, diễn đạt con nặng nề, dông dài, đề cao tính
giáo huấn, nhiều dẫn chứng chưa gọn, tiêu biểu. Bởi vậy, vấn đề mà chương này
nêu ra được là đi tìm những hiện tượng tiêu cực của nhân vật trong các trang viết
của Nam Cao. Cái tha hóa đó không chỉ nêu ra mà còn là sự cảnh tỉnh cho mọi
người.

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

18

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN SỰ THA HÓA TRONG SÁNG
TÁC CỦA NAM CAO TRƯỚC 1945

3.1. Miêu tả nhân vật:
Nhân vật trong tác phẩm văn học là những con người có tên tuổi, danh phận
như lão Hạc, Hộ, Chí Phèo… Cũng có những nhân vật không tên như bà cô thị
Nở (Chí Phèo), người bà (Một bữa no), người cha (Trẻ con không được ăn thịt
chó)… Trong thần thoại, nhân vật là các thần. Trong truyện ngụ ngôn, nhân vật

thông thường là những con vật như con cáo, con sói… Mang tính cách con
người. Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao rất phong phú, đa dạng cả về ngoại
hình, tính cách, nội tâm, hành động, cử chỉ. Một số nhân vật có những nét tương
đồng về tính cách, suy nghĩ như Thứ, Hộ, Điền… Phần lớn các nhân vật khác
đều có những nét riêng, tiêu biểu cho sự đa dạng về các hạng người trong xã hội.
3.1.1. Về ngoại hình:
Ngoại hình nhân vật có tính tha hóa thể hiện ở hầu hết các hạng người trong
sáng tác của Nam Cao. Nhưng tiêu biểu vẫn là những nhân vật như Chí Phèo, thị

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

19

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Nở, lang Rận, Trạch Văn Đoành, mụ Lợi, Oanh … Ngoại hình cũng như tính
cách của họ đều không bình thường, có phần quái dị, gớm giếc nhưng lại rất
sống động, chân thật. Đó là những con người thật của xã hội bấy giờ, mà ít nhà
văn đưa họ vào trong các sáng tác của mình. Có chăng, Nam Cao đã cho thấy cuộc
sống nghèo khổ, đói khát, bất công hoặc tù đày đã làm họ biến dạng, xấu xí đi và
tha hóa đến như vậy.
Chẳng hạn, một Chí Phèo được xây dựng theo cách đặc biệt biểu thị tính cách
lưu manh hóa “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai.
Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết! Hắn mặc

quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét trạm trổ
rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông
gớm chết Hắn về
hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa
đến xế chiều. Rồi say khướt, Hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến,
gọi tận tên tục ra mà chửi”. Với bộ dạng này, lúc đầu không ai nhận ra Chí Phèo,
ngay cả những người sống cùng làng, cùng quê với hắn. Cùng với sự thay đổi
hình dạng là sự thay đổi nhân tính. Từ một anh canh điền hiền lành, chăm chỉ
trở thành một tên lưu manh, quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chính cái chế độ nhà tù
thực dân đã hủy hoại cả hình hài và nhân tính của anh, chỉ thoáng qua vẻ bề
ngoài cũng toát lên sự tha hóa, ẩn chứa nhiều điều bất an nơi nhân vật.
Nam Cao miêu tả ngoại hình nhân vật có vẻ dị lập nhưng rất hài hòa và
tạo ấn tượng cho người đọc, có thể nói ngoại hình của mỗi nhân vật không lặp lại
mà mỗi dáng vẻ đó đều bộc lộ một tính cách rất riêng. Cuộc sống quá nghèo khổ,
đói khát có thể làm cho vẻ bề ngoài của nhân vật tha hóa, nhưng tâm hồn họ vẫn
tiềm ẩn vẻ đẹp nhân văn sâu sắc. Sự nghèo đói, bệnh tật, bất công đã dồn ép xô
đẩy họ đến ngõ cụt của cuộc đời. Nó làm biến dạng đi cả thể xác và tâm hồn

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

20

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

của những người dân hiền lành, lương thiện. Biến họ thành những con vật đội

lốt người, đần độn, ngơ ngẩn, tàn bạo, điên loạn. Nếu họ không có những phút
giây tĩnh tâm thì họ sẽ chết vùi trong thảm cảnh của đời mình. Nhưng tiếc rằng
khi họ nhận ra thảm cảnh của đời mình cũng là lúc bị kịch kết thúc.
3.1.2. Về nội tâm:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa nội tâm “Tâm tư, tình cảm, suy nghĩ riêng
của từng con người, đời sống nội tâm phong phú đa dạng, khó có thể miêu tả
nội tâm của các nhân vật”. Khi miêu tả nhân vật, Nam Cao không chỉ sắc sảo
về ngoại hình mà còn rất có biệt tài miêu tả nội tâm và diễn biến tâm lý của
nhân vật. Với thủ pháp độc thoại nội tâm, nhân vật tự bộc lộ suy nghĩ và tâm
trạng của mình. Dù là người nông dân nghèo như Chí Phèo, thị Nở, Trạch Văn
Đoành, lang Rận, người trí thức nghèo như Thứ, Điền, Hộ, hay bọn cường hào
ác bá như Bá Kiến đều có thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, nhiều mâu
thuẩn, đấu tranh tư tưởng mà lại thống nhất.
Con người chỉ liều vì mạnh và khi không còn mạnh thì người ta không dám
liều mà nghĩ đến sự tồn tại những ngày tháng còn lại của cuộc đời. cái bản chất
tha hóa trong tâm trạng của nhân vật. Nhất là sự giả tạo, cái đạo đức giả đã được
đề cập nhiều trong các trang viết của Nam Cao. Với Điền trong “Giăng sáng” Có
thể thấy được sự đồng điệu về tâm trạng của những người trí thức nghèo trong
các trang viết của Nam Cao. Đời sống cơm áo và mơ ước nhỏ nhoi luôn tương
phản với nhau, nếu họ lo cơm áo hằng ngày thì không thể nghĩ đến nghiệp văn
chương, còn nếu theo nghiệp văn chương thì lấy tiền đâu cho cuộc sống quá nghèo
khổ. Và họ cũng thừa biết sẽ không bao giờ ổn định được cuộc sống lấy gì mà
đảm bảo được hoài bảo, nhưng lại không thể bỏ nó. Đó chính là bi kịch. Nhìn
chung việc miêu tả nội tâm của nhân vật trong sáng tác của Nam Cao hầu hết
được thể hiện trên cơ sở độc thoại nội tâm. Nhân vật tự đối thoại với chính
mình trong những lúc cô đơn, trống vắng, đau khổ, thất vọng cùng những cuộc

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

21


Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

đấu tranh tư tưởng gay gắt để nghiền ngẫm về lẽ sống, nhìn lại bản thân, trở về
với chính mình. Thông qua thế giới nội tâm, nhân vật bộc lộ đầy đủ nhất cả diện
mạo và tính cách. Đặc biệt là bản chất tha hóa của nhân vật được biểu thị qua tâm
trạng nhân vật. Từ đó, có thể khẳng định rằng: Nam Cao là bậc thầy miêu tả
nội tâm nhân vật dù dung lượng truyện ngắn có giới hạn.
3.1.3. Về hành động, cử chỉ:
Bên cạnh những nét đặc sắc của nhân vật trong sáng tác của Nam Cao về
ngoại hình và nội tâm. Tác giả còn rất thành công trong việc thể hiện hành
động và cử chỉ nhân vật. Nhất là những hành động, cử chỉ biểu hiện sự tha hóa
của con người. Đó là những biểu hiện phi nhân bản, mất tính người. Nó phản ánh
cách cư xử, đối đãi với nhau trong các mối quan hệ gia đình và xã hội. Có
những hành động cử chỉ mang tính tự phát, còn lại đều có ý thức, động cơ và
nguyên nhân rõ ràng. Vì thế, hành động của nhân vật là biểu hiện cuối cùng
của thế giới nội tâm phức tạp. Những suy nghĩ, âm mưu, toan tính… rồi cũng
được thể hiện qua các hành động, cử chỉ. Nó là kết quả đánh giá mức độ tha hóa
của tư duy, cũng là cơ sở kiểm chứng quá trình nhận thức của con người trước
các vấn đề. Một thực tế xã hội đã có từ trong văn học dân gian, nay lại được
Nam Cao làm sống lại một cách mới mẻ. Với hành động và cử chỉ của Chí Phèo
khi gặp thị Nở, tuy đang ở trạng thái say khước nhưng toan tính và biểu hiện thì
tỉnh táo. “Chí Phèo vẫn say sưa nhìn và run run. Bổng nhiên hắn rón rén lại gần
Thị Nở: Lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng, thoạt tiên, hắn xách cái lọ để
ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị…Và thị Nở giật mình. Thị mới

kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám lấy thị… Thị vùng vẫy để ra, thị mở mắt,
thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn và hổn hển:
Ô hay… Buông ra… Tôi kêu… Tôi kêu làng… Buông ra. Tôi kêu làng lên bây
giờ. Thằng đàn ông cười phì. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn
mới kêu làng thôi; sao người ta lại kêu làng tranh của hắn, bổng nhiên hắn la lên,

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

22

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

kêu làng. Hắn kêu như một kẻ bị đâm. Vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị
Nở trố mắt ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn vẫn
chưa chịu thôi kêu làng.” Từ ngày về làng, chưa bao giờ Chí Phèo có một bữa
uống rượu say đến thế, từ nhà Tự Lãng về hắn chỉ đi theo hướng ra bờ sông,
nơi có cái chòi của hắn. Nhưng khi gặp thị Nở ngủ hở hang thì bản năng thú
tính của hắn trổi dậy . Nam Cao miêu tả hành động của nhân vật phát triển theo
từng giai đoạn, cấp độ từ thấp đến cao, và luôn có sự đột biến trong hành động.
Hành động cử chỉ nhân vật có tính tha hóa rất đa dạng phong phú phù hợp với
hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Sự tha hóa ấy bộc lộ ở tất cả các hạng người
trong xã hội, từ tầng lớp cường hào địa chủ nông thôn, đến trí thức tiểu tư sản và
cả những người nghèo đói bất hạnh. Nam Cao đã phát hiện và miêu tả chi tiết
từng hành động cử chỉ cụ thể cũng như hậu quả của nó. Các hành động cử chỉ
luôn sinh động, biến hóa, bất ngờ… Nhưng đều mang tính chủ quan, có ý thức.

Nên tính chất tha hóa của chúng đều có động cơ và mục đích rõ ràng. Vì thế,
tác giả đã mạnh mẽ phê phán các hành động cử chỉ trên như lời tuyên chiến
công khai với cái ác, cái xấu trong giai đoạn văn học mà ít nhà văn dám nói thật,
nói thẳng vào vấn đề.
3.2. Giọng điệu:
Giọng điệu phản ánh lập trường, thái độ tính cảm và thị hiếu thẩm mỹ của
tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng
truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết
ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật.
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người
trần thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng điệu.
Giọng điệu trong tác phẩm với cái gọng “Trời phú” của mỗi tác giả, nhưng
mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

23

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một
giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu.”
3.2.1. Giọng điệu trịnh thượng, kẻ cả:
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa trịnh thượng, “Có vẻ oai nghiêm, trang trọng
của người ở vị trí cao”, Kẻ cả “Kẻ cả đàn anh”. Âm điệu buồn, chùn xuống

hướng nhiều vào nội tâm trĩu nặng nỗi ưu tư. Giọng điệu của tác giả nói về nhân
vật của mình đã làm rõ hơn cái thế giới nội tâm nhân vật. Phong Lê trong bài
“Cấu trúc và ngôn ngữ truyện ngắn của Nam Cao” nhân kỷ niệm lần thứ 70
ngày sinh của Nam Cao đã nhận xét: “Có một ngôn ngữ tác giả mang chất giọng
riêng của Nam Cao, giàu suy nghiệm, triết lý có thể xem là âm chủ, nhưng chất
giọng đó không lấn át, không che khuất ngôn ngữ nhân vật – là một phương
diện nghệ thuật mà Nam Cao hết sức tôn trọng”.
Ở một phương diện nào đó, các giọng điệu trên biểu hiện sự tha hóa trong lời
ăn tiếng nói của nhân vật. Lời nói quá sự thật, cao ngạo, trịnh trịnh, kẻ cả xem
thường người khác. Nó biểu hiện tính cách nhân vật bị ức chế, bộc phát trong một
thời điểm nhất định.
3.2.2. Giọng điệu giễu nhại:
Giễu nhại thể hiện sự mỉa mai, châm biếm, chế giễu, cười nhạo… Trong bối
cảnh đời sống con người đang chịu nhiều tác động của lối sống thực dụng, khuôn
sáo, lỗi thời. thái độ “Giận cá chém thớt” ấy bộc lộ sự mâu thuẩn trong tâm
trạng nhân vật.
Đọc truyện Nam Cao, ta nhận ra nhiều giọng vẻ khác nhau, đối với giọng
giễu nhại đã mang một đặc trưng riêng, dù lời nói của tác giả, hay của nhân vật
cũng đều có ý nghĩa nhất định. Cái tính giễu cợt, mỉa mai trong giọng điệu ấy
bộc lộ cái suy nghĩ nghiêm túc của nhân vật. Thái độ, tính cách của nhân vật
cũng được bộc lộ ngay trong giọng điệu của họ.
3.2.3. Giọng điệu kể lể, thống thiết.

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

24

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53



Đề tài văn học

GVHD: Trần Thị Mỹ Hồng

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa kể lể “Kể dài dòng có ý phàn nàn hoặc than
thân trách phận: kể lể chuyện riêng của mình, nghe kể lể sốt cả ruột. Thống
thiết “Rất đau xót có tác dụng gợi lòng cảm thương một cách sâu sắc, lời lẽ thống
thiết, tiếng kêu cứu thống thiết, giọng văn nghe lâm li thống thiết”.
Khi viết về những cảnh đời bất hạnh, Nam Cao luôn bày tỏ lòng thương cảm
sâu sắc, một tình yêu thương vô hạn, làm xúc động lòng người Trong bài viết
“Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn của Nam Cao” , Phan Diễm
Phương có nhận định “Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta còn gặp lối kể
chuyện bằng nhiều giọng: nghiêm nghị và hài hước, trân trọng, nâng niu và
nhạo, đay mỉa. Các giọng kể này được kết hợp ở nhiều cấp độ: giữa truyện và
truyện, giữa các đoạn, phần trong một truyện và ngay trong từng đoạn truyện”
.Vì thế, sự.đa dạng, phong phú trong giọng điệu của Nam Cao góp phần vào
sự thành công trong những sáng tác của ông trước Cách mạng và đem đến cho
người đọc một thế giới nhân vật sinh động với nhiều tính cách khác nhau.
3.3. Ngôn ngữ:
Theo “Thuật ngữ từ điển Văn học” của Trần Đình Sử “Ngôn ngữ là công
cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ
thuật ngôn từ. M. Gorki khẳng định ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học,
công cụ chủ yếu của nó và – cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc
sống – là chất liệu của văn học. Ngôn ngữ nhân dân là cội nguồn ngôn ngữ
văn học, được chọn lọc, rèn giũa qua lao động nghệ thuật của nhà văn, đến
lượt mình, nó lại góp phần nâng cao làm phong phú ngôn ngữ nhân dân. Ngôn
ngữ văn học là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mỹ, nó được sử
dụng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm là xây dựng hình tượng văn học và giao tiếp
nghệ thuật. Ngôn ngữ của các tác phẩm trữ tình là ngôn ngữ được tổ chức trên
cơ sở nhịp điệu, cô đọng, hàm xúc, gợi cảm. Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ các nhân

vật được cấu trúc qua hệ thống đối thoại và gần gũi với tiếng nói thông thường

SVTH: Hoàng Thị Thuý Vân

25

Lớp: ĐHGD Tiểu học K53


×