Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.86 KB, 20 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo ngân hàng nhà nước (NHNN), tính thanh khoản ở các ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian vừa qua đang có nhiều điều đáng quan tâm và
lo ngại, đặc biệt là đối với các NHTM cổ phần nhỏ vừa mới được thành lập hoặc vừa
được chuyển đổi mô hình hoạt động từ nông thôn lên thành thị. Đối với những ngân
hàng này, khi thị trường tiền tệ gặp khó khăn thì những yếu kém trong tính thanh
khoản được bộc lộ khá rõ và các ngân hàng này đối mặt với không ít khó khăn và
thách thức.
Bên cạnh đó, vào năm 2008 một số ngân hàng đã rơi vào tình trạng thiếu thanh
khoản và biểu hiện của nó là trào lưu “siêu lãi suất” hồi đầu năm. Lãi suất tiền gửi
đồng Việt Nam liên ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các NHTM vào
cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới
18,6%/năm. Sự tăng trưởng tín dụng như trên cùng với khả năng quản lý thanh khoản
hạn chế làm cho hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại
các ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo
hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị
đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng
giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các
ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm 2008 khoảng 30- 40%.
Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến như trên đã gây
ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định đời
sống xã hội.

[11]

Từ cuối năm 2008 đến nửa đầu năm 2009, tình hình thế giới rơi vào tình trạng
khủng hoảng, hàng loạt các ngân hàng ở các nước trên thế giới tuyên bố phá sản. Điều


này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các NHTM Việt Nam và RRTK được đánh giá là rủi
ro nguy hiểm nhất. Vì trong hệ thống ngân hàng, nếu một hay hai ngân hàng rủi ro có
thể lây sang ngay các ngân hàng khác.


2

Hiệu quả quản trị RRTK không chỉ dừng ở thanh khoản mà có quan hệ mật
thiết với tất cả hoạt động của từng NHTM, của hệ thống NHTM, của hệ thống định
chế tài chính và liên quan đến cả cơ chế vĩ mô…nhưng trước hết, bản thân mỗi NHTM
phải làm tốt. [13]
Qua đó, ta có thể thấy được việc nâng cao hiệu quả quản trị RRTK cho NHTM
là một vấn đề cấp thiết được đặt ra. Nhận thức được vấn đề này, tác giả đã chọn đề tài
“NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH ĐỒNG
NAI” làm nội dung báo cáo nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu của đề tài
Quản trị rủi ro thanh khoản là một đề tài không còn mới đối với quốc tế, tuy
nhiên đối với Việt Nam thì đây là một đề tài còn khá mới và còn nhiều điều cần phải
nghiên cứu.
Hiện các đề tài về quản trị rủi ro thanh khoản của nước ngoài rất đa dạng và
phong phú như “Liquidity Risk and Competition in Banking” của Yoram Landskroner
và Jacob Paroush, “Banking Liquidity Risk Management Issues” của Rifki Ismal,
“Liquidity risk management” của Richard Barfield và Shyam Venkat... Tại Việt Nam,
hiện nay các đề tài về RRTK còn khá hiếm, chỉ có một vài đề tài nhưng tính ứng dụng
vào thực tiễn chưa cao. Các đề tài về quản trị rủi ro thanh khoản tại Việt Nam đa số
đều nói chung về quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM mà chưa thể đi sâu
nghiên cứu đến từng ngân hàng, nhất là các NHTM nhà nước.
Ta có thể thấy sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và thực trạng kém
thanh khoản tại các NHTM Việt Nam vào đầu năm 2008 thì vấn đề thanh khoản là một

đề tài nóng bỏng được đặt ra cho các NHTM Việt Nam nhưng vẫn chưa được xem xét,
nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết.
Trong phạm vi trường Đại Học Lạc Hồng, các năm vừa qua chưa có sinh viên
nào thực hiện đề tài về quản trị rủi ro thanh khoản tại NHTM, do đó báo cáo nghiên
cứu này sẽ đi sâu nghiên cứu vấn đề cụ thể về quản trị rủi ro thanh khoản tại một
NHTM nhà nước tại địa bàn Tỉnh Đồng Nai.


3

3. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp tại bàn: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu thống
kê..., phương pháp mô tả, phương pháp so sánh.

4. Mục tiêu nghiên cứu
-

Hoàn thiện, củng cố những kiến thức về quản trị RRTK từ việc áp dụng vào
thực tiễn tại ngân hàng.

-

Đi sâu nghiên cứu, phân tích thực trạng quản trị RRTK tại ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Đồng Nai. Trên cơ sở nghiên cứu,
tác giả đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị RRTK tại ngân
hàng.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu:
- Thực trạng quản trị RRTK tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
chi nhánh Đồng Nai.
• Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: cuối năm 2009 đến nửa đầu năm 2010.
- Không gian nghiên cứu: NHTM nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh
Đồng Nai.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài quản trị rủi ro thanh khoản là một đề tài khá mới đối với các nhà nghiên
cứu về kinh tế tại Việt Nam, đồng thời Việt Nam đang bước trên con đường hội nhập
với nền kinh tế thế giới.
Báo cáo nghiên cứu về quản trị rủi ro thanh khoản tại một NHTM nhà nước cụ
thể giúp ta có thể hiểu thêm về cơ cấu quản trị rủi ro thanh khoản tại NHTM nhà nước
và tình hình thanh khoản tại ngân hàng, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm giúp nâng
cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản.


4

7. Kết cấu của đề tài
Báo cáo nghiên cứu khoa học ngoài lời mở đầu và kết luận, bao gồm các nội
dung chính như sau:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO THANH KHOẢN VÀ QUẢN TRỊ
RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NHTM
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN
HÀNG AGRIBANK (CHI NHÁNH ĐỒNG NAI)
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO
THANH KHOẢN TẠI NH AGRIBANK CHI NHÁNH ĐỒNG NAI



5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO THANH KHOẢN VÀ QUẢN
TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NHTM
1.1.

QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG

1.1.1, Tổng quan về rủi ro
1.1.1.1, Khái niệm rủi ro
Rủi ro theo một số tài liệu nghiên cứu là một khái niệm trừu tượng. Nhưng nhìn
chung rủi ro được định nghĩa theo hai trường phái chính:
Theo trường phái truyền thống, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm
hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn.[10]
Theo trường phái trung hòa, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro
vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang tới những tổn thất,
mất mát, nguy hiểm,… cho con người nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội. [10]
Như vậy, rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ
được hẳn mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như những tác hại mà
chúng gây nên.[6] Nếu có những biện pháp thích hợp để khắc phục những mặt tiêu cực
và tận dụng những cơ hội thì không những có thể hạn chế được tổn thất mà còn mang
lại lợi ích cho doanh nghiệp.
1.1.1.2, Phân loại rủi ro
Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận rủi, trong phạm vi đề tài căn cứ vào phạm
vi phát sinh rủi ro và tác động của rủi ro đến đối tượng quan tâm. Tác giả chia rủi ro
thành rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
Rủi ro hệ thống (hay còn gọi là rủi ro không phân tán được) là những rủi ro do
các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả
thị trường. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên ngoài của một ngành công nghiệp



6

hay của một doanh nghiệp, chẳng hạn như chiến tranh, lạm phát, sự kiện kinh tế và
chính trị... [11]
Rủi ro phi hệ thống (hay còn gọi là rủi ro phân tán được) loại rủi ro này là kết
quả của những biến cố ngẫu nhiên hoặc không kiểm soát được chỉ ảnh hưởng đến một
công ty hoặc một ngành công nghiệp nào đó. Các yếu tố này có thể là những biến động
về lực lượng lao động, năng lực quản trị, kiện tụng hay chính sách điều tiết của chính
phủ. Vì hầu hết các nhà đầu tư có hiểu biết tối thiểu đều có thể loại bỏ rủi ro có thể
phân tán được bằng cách nắm giữ một danh mục đầu tư đủ lớn từ vài chục đến vài
trăm. [11]
1.1.2, Rủi ro và quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
1.1.2.1, Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
a. Khái niệm
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro là những biến cố không mong
đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận
thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoảng chi phí để có thể hoàn thành
được một nghiệp vụ tài chính nhất định. [1]
b. Phân loại
Phân loại các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng thể hiện tại sơ đồ 1.1
Sơ đồ 1.1: Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng[5]
RỦI RO
LÃI SUẤT
RỦI RO
NGOẠI
HỐI

RR* QUỐC

GIA VÀ RR
KHÁC

RR
TRONG
KD NGÂN
HÀNG

RR CÔNG
NGHỆ VÀ
HOẠT
ĐỘNG

RR HOẠT
ĐỘNG
NGOẠI
BẢNG

RỦI RO
TÍN DỤNG

RỦI RO
THANH
KHOẢN

*RR: rủi ro


7


Rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị trường
hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về mặt tài sản hoặc
làm giảm thu nhập của ngân hàng. [1]
Rủi ro tỷ giá (hay rủi ro ngoại hối) là rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay
ngoại tệ hoặc quá trình kinh doanh ngoại tệ khi tỷ giá biến động theo chiều hướng bất
lợi gây tổn thất cho ngân hàng. [1]
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng,
biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng
hạn cho ngân hàng. Tất cả các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng bao gồm cho vay
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cho thuê tài chính, chiết khấu các chứng từ có giá, tài
trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, bao thanh toán và bảo lãnh đều chứa rủi ro tín
dụng.[1]
RRTK (mất khả năng thanh toán) là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp
ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền, hoặc
không có khả năng vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.[1]
Rủi ro hoạt động ngoại bảng là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân
hàng phát triển các hoạt động ngoại bảng. Chẳng hạn trong trường hợp bảo lãnh công
ty phát hành trái phiếu, nếu công ty này phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán
toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát hành.[5]
Rủi ro công nghệ và hoạt động [5]
Rủi ro công nghệ là loại rủi ro phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển
công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng
qui mô hoạt động.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát
sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên
trong ngừng hoạt động.
Rủi ro quốc gia và rủi ro khác [5]


8


Rủi ro quốc gia là rủi ro xảy ra trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ
cho các công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài. Nếu công ty này không có khả
năng hoặc không sẵn lòng hoàn trả vốn vay thì rất khó có thể thu hồi lại vốn.
Rủi ro khác bao gồm thay đổi thuế đột ngột, chiến tranh, trộm cắp, lừa đảo...
1.1.2.2, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng [1]
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ
thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát,
những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro bao gồm các bước thể hiện trên sơ
đồ 1.2
Sơ đồ 1.2: Các bước quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng[1]

NHẬN
DẠNG
RỦI RO

PHÂN
TÍCH RỦI
RO

ĐO
LƯỜNG
RỦI RO

KIỂM
SOÁT VÀ
PHÒNG
NGỪA
RỦI RO


TÀI TRỢ
RỦI RO

Nhận dạng rủi ro
Để quản trị rủi ro trước hết phải nhận dạng rủi ro. Nhận dạng rủi ro bao gồm các
công việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ mọi hoạt
động của ngân hàng, nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không chỉ những loại rủi ro
đã xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro mới có thể xuất hiện đối với ngân
hàng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp.
Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt kê các dạng rủi ro đã,
đang và có thể xuất hiện đối với ngân hàng bằng phương pháp sau: lập bảng câu hỏi
nghiên cứu về rủi ro và tiến hành điều tra, phân tích các báo cáo tài chính, phương
pháp lưu đồ, thanh tra hiện trường, phân tích các hợp đồng, làm việc với các cơ quan
Nhà nước, các ban, ngành có liên quan.
Phân tích rủi ro
Phân tích rủi ro là phải xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro. Đây là
một công việc phức tạp, bởi mỗi rủi ro không chỉ do một nguyên nhân duy nhất gây ra
mà do nhiều nguyên nhân gây ra.


9

Phân tích rủi ro là nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro. Trên cơ
sở tìm ra các nguyên nhân, tác động đến các nguyên nhân thay đổi chúng. Từ đó sẽ
phòng ngừa rủi ro một cách hữu hiệu hơn.
Đo lường rủi ro
Để đo lường rủi ro, cần thu thập số liệu và phân tích, đánh giá. Trên cơ sở kết quả
thu thập được, lập ma trận đo lường rủi ro. Để đánh giá mức độ quan trọng rủi ro đối
với ngân hàng, người ta sử dụng cả hai tiêu chí: tần suất xuất hiện của rủi ro và biên độ
của rủi ro – mức độ nghiêm trọng của tổn thất, Trong đó tiêu chí thứ hai đóng vai trò

quyết định.
Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro
Công việc trọng tâm của công tác quản trị là kiểm soát rủi ro. Kiểm soát rủi ro là
việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, các công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt
động để ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng không
mong đợi có thể xảy ra với ngân hàng. Có các biện pháp kiểm soát rủi ro như: Các
biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất, chuyển giao rủi ro,
đa dạng hóa rủi ro, quản trị thông tin...
Tài trợ rủi ro
Khi rủi ro xảy ra, trước hết cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài
sản, nguồn nhân lực, giá trị pháp lý. Sau đó cần có những biện pháp tài trợ rủi ro thích
hợp.
1.1.3, Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng [1]
1.1.3.1, Nhóm nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Có nhiều nguyên nhân thuộc về năng lực quản lý dẫn đến rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng. Nhưng việc không quản lý chặt chẽ thanh khoản dẫn đến thiếu khả
năng chi trả là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Bênh cạnh
đó, việc cho vay và đầu tư quá liều lĩnh cũng dẫn đến rủi ro, cụ thể trong cho vay ngân
hàng tập trung nguồn vốn quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế
nào đó, trong đầu tư ngân hàng chỉ chú trong đầu tư vào một loại chứng khoán có rủi
ro cao. Và do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không
đầy đủ dẫn đến việc ngân hàng cho vay hoặc đầu tư không hợp lý. Ngoài ra còn có


10

nguyên nhân là do hoạt động kinh doanh trái pháp luật, tham ô, do cán bộ ngân hàng
thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ nghiệp vụ,... tất cả đều là nguyên nhân
dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng.
1.1.3.2, Nhóm nguyên nhân thuộc về phía khách hàng

Những nguyên nhân thuộc về phía khách hàng như do khách hàng vay vốn
thiếu năng lực pháp lý, sử dụng vốn vay sai mục đích, kém hiệu quả, kênh thu nhập lỗ
liên tục, hàng hóa không tiêu thụ được... Mặt khác việc khách hàng quản lý vốn không
hợp lý dẫn đến thiếu thanh khoản hay do chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực
điều hành, tham ô, lừa đảo cũng là nguyên nhân gây rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3.3, Nhóm nguyên nhân khách quan có liên quan đến môi trường hoạt
động kinh doanh
Những nguyên nhân khách quan có khá nhiều như do thiên tai, hỏa hoạn, tình
hình an ninh, chính trị trong nước, khu vực không ổn định. Hay do khủng hoảng, suy
thoái kinh tế, lạm phát, mất cân bằng cán cân thanh toán quốc tế dẫn đến tỷ giá hối
đoái biến động thất thường, môi trường pháp lý không thuận lợi... cũng dẫn đến những
rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
1.1.4, Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và kinh tế
xã hội [1]
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro đầu tiên ảnh hưởng là có thể gây
tổn thất về tài sản cho ngân hàng. Những tổn thất thường gặp là mất vốn khi cho vay,
gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị của tài sản... Bên cạnh
đó rủi ro làm giảm uy tính của ngân hàng, sự tín nhiệm của khách hàng và có thể đánh
mất thương hiệu của ngân hàng. Một ngân hàng làm ăn thua lỗ liên tục, một ngân hàng
thường xuyên không đủ khả năng thanh toán có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng rút
tiền hàng loạt của khách hàng, và phá sản là con đường tất yếu. Từ đó, ảnh hưởng đến
hàng ngàn người gửi tiền vào ngân hàng, hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp
ứng nhu cầu vốn... làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội và hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt
ngân hàng trong nước.


11

Ngoài ra, rủi ro của các ngân hàng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, vì

trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới hiện nay, nền kinh tế của mỗi
quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, mối liên hệ về
tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát tiển rất nhanh, nên rủi ro ngân hàng tại một nước
luôn ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. Thực tế đã chứng
minh qua cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997), cuộc khủng hoảng tài chính Nam
Mỹ (2001-2002) và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ (2008).
1.2.TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN NGÂN HÀNG
1.2.1, Bản chất của RRTK (RRTK)
1.2.1.1, Các khái niệm về thanh khoản
a. Thanh khoản (Liquidity) là khả năng tiếp cận các khoản tài sản hoặc
nguồn vốn có thể dùng để chi trả với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát
sinh. [3]
b. RRTK (Liquidity risk)
RRTK là rủi ro khi ngân hàng thiếu ngân quỹ hoặc tài sản ngắn hạn mang tính
khả thi để đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và người đi vay (Thomas.P. Fitch) [4]
RRTK là sự biến động về thu nhập ròng và thị giá của vốn sở hữu, xuất phát từ
khó khăn của ngân hàng trong việc huy động ngay lập tức các khoản ngân quỹ sẵn
bằng hình thức vay mượn hoặc bán tài sản (Timothy W.Koch) [4]
Như vậy, RRTK là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả
năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay
mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán. [3]
c. Quản trị thanh khoản Là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh
khoản (tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn.
[3]

d. Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng qũy của ngân hàng, là
nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng. [3]
e. Cầu thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích của ngân hàng làm
giảm qũy của ngân hàng đó. [3]



12

Bảng 1.1: Các yếu tố của cung cầu thanh khoản [3]
CUNG THANH KHOẢN St
1. Các khoản tiền gửi đang đến (S1)

CẦU THANH KHOẢN Dt
1. Khách hàng rút các khoản tiền gửi (D1)

2. Thu nhập bán các khoản dịch vụ (S2) 2. Yêu cầu cấp các khoản tín dụng (D2)
3. Thu hồi tín dụng đã cấp(S3)

3. Hoàn trả các khoản vay mượn phi tiền

4. Bán các tài sản đang kinh doanh và gửi (D3)
sử dụng (S4)

4. Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản

5. Các khoản cung khác (S5).

phẩm và dịch vụ (D4)
5. Thanh toán cổ tức cho các cổ đông (D5).

f. Trạng thái thanh khoản ròng (Net Liquidity Position) [3]
Căn cứ vào dữ kiện trình bày tại Bảng 1.1 cho ta kết quả sau:
Trạng thái thanh khoản ròng = Tổng cung thanh khoản – Tổng cầu thanh khoản
(NLPt)


= (S1+S2+S3+S4+S5) –

(D1+D2+D3+D4+D5)

Ba khả năng có thể xảy ra như sau:
NLPt=0: ngân hàng trong trạng thái cân bằng thanh khoản, trường hợp này
rất hiếm có thể xảy ra trong thực tế.
NLPt>0: ngân hàng trong tình trạng thặng dư thanh khoản (Liquidity
surplus).
Do nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, ngân hàng không cho vay hay đầu tư
được. Trong phạm vi của một ngân hàng, đây là việc không khai thác hết tiềm năng
sinh lời của tài sản Có, chiếm giữ quá nhiều tài sản Có ở dạng trực tiếp hay gián tiếp
không có khả năng sinh lời (Tồn quỹ tiền mặt quá lớn); hoặc cũng có thể do ngân hàng
tăng vốn quá nhanh trong khi chưa có phương án sử dụng vốn hiệu quả.
Nhà quản trị phải lập kế hoạch đầu tư số vốn thặng dư để mang lại hiệu quả (ví
dụ như mua các chứng khoán dự trữ thứ cấp đã bán ra trước đó, cho vay trên thị
trường tiền tệ, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng khác...)


13

NLPt<0: ngân hàng trong tình trạng thiếu hụt thanh khoản (Liquidity deficit )
Khi đó, ngân hàng sẽ mất những cơ hội đầu tư tốt có thể mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng, mất khách hàng khi họ phải đến ngân hàng khác để vay. Từ việc mất khách
hàng vay vốn sẽ dẫn đến mất khách hàng tiền gửi, vì giảm lòng tin của người gửi tiền.
Nhà quản trị phải quyết định bổ sung nguồn tài trợ và chi phí tài trợ một cách
hợp lý (ví dụ như bán dự trữ thứ cấp,vay qua đêm, vay tái chiết khấu NHNN, phát
hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn để huy động vốn,huy động từ thị trường tiền
tệ...)
1.2.1.2, Nguyên nhân RRTK [5]

Những nguyên nhân của RRTK thể hiện trên sơ đồ 1.3
Sơ đồ 1.3: Các nguyên nhân chính của RRTK [5]
NGUYÊN NHÂN
RỦI RO THANH
KHOẢN
NHỮNG
NGUYÊN NHÂN
TIỀN ĐỀ

NHỮNG
NGUYÊN NHÂN
TỪ HOẠT ĐỘNG

a. Những nguyên nhân tiền đề: có ba nguyên nhân chính
Nguyên nhân thứ nhất, sự không cân xứng về kỳ hạn của tài sản có và tài
sản nợ. Nghĩa là ngân hàng huy động và đi vay vốn với thời hạn ngắn, đồng thời tuần
hoàn chúng để sử dụng cho vay với thời hạn dài hơn. Do đó nhiều ngân hàng phải đối
mặt với sự không trùng khớp về thời hạn đến hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Hiếm
khi luồng tiền ròng bên tài sản có lại vừa khít để trang trãi luồng tiền ròng bên tài sản
nợ. Trên thực tế ngân hàng thường có một tỷ lệ đáng kể tài sản nợ có đặc điểm là phải
được hoàn trả tức thời nếu người gửi có nhu cầu, như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn có thể rút trước hạn... do đó ngân hàng luôn phải đối mặt với RRTK.
Nguyên nhân thứ hai là do sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay
đổi lãi suất. Khi lãi suất ngân hàng giảm (tức là lãi suất đầu tư cao hơn lãi suất ngân
hàng), nhiều khách hàng gửi tiền rút vốn của họ ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi
có tỷ suất sinh lợi cao hơn, còn các khách hàng vay tiền sẽ tích cực tiếp cận các khoản


14


tín dụng vì có lãi suất thấp hơn. Như vậy sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời đến
luồng tiền gửi cũng như luồng tiền vay, và cuối cùng là đến thanh khoản của ngân
hàng. Hơn nữa, sự thay đổi lãi suất còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường của các tài
sản, mà ngân hàng có thể đem bán để tăng thanh khoản, và trực tiếp ảnh hưởng đến chi
phí đi vay trên thị trường tiền tệ của ngân hàng.
Nguyên nhân thứ ba, đó là ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh
khoản một cách hoàn hảo. Những trục trặc về thanh khoản hay tin đồn về mất khả
năng thanh khoản sẽ làm giảm niềm tin của khách hàng vào ngân hàng. Một trong
những công việc quan trọng đối với nhà quản lý ngân hàng là luôn liên hệ chặt chẽ với
những khách hàng có số dư tiền gửi lớn và những khách hàng đang còn hạn mức tín
dụng lớn chưa sử dụng để biết được kế hoạch của họ khi nào thì rút tiền và rút bao
nhiêu để có phương án thanh khoản thích hợp.
b. Những nguyên nhân từ hoạt động
Nguyên nhân bên tài sản nợ: RRTK có thể phát sinh bất cứ khi nào khi những
người gửi tiền rút tiền đột ngột, buộc ngân hàng phải đi vay bổ sung hoặc phải bán bớt
tài sản để đáp ứng khả năng thanh khoản. Trong tất cả các nhóm thuộc tài sản có, thì
tiền mặt có mức độ thanh khoản cao nhất, vì vậy ngân hàng sử dụng tiền mặt là
phương tiện đầu tiên và trực tiếp để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nhưng tiền mặt
không mang lại thu nhập lãi suất do đó các ngân hàng luôn có xu hướng giảm thiểu tài
sản có ở dạng tiền mặt. Để thu được lãi suất, các ngân hàng phải đầu tư vào những tài
sản ít thanh khoản hơn hoặc vào những tài sản có thời hạn dài. Tuy nhiên một số tài
sản chỉ có thể chuyển hóa thành tiền ngay lập tức với mức bán rất thấp, do đó có thể đe
dọa đến khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng.
Nguyên nhân bên tài sản có: RRTK phát sinh liên quan đến các cam kết tín
dụng. Một cam kết tín dụng cho phép người vay tiến hành rút tiền vay bất cứ lúc nào
trong thời hạn của nó. Một khi cam kết tín dụng được thực hiện thì ngân hàng phải bảo
đảm có đủ tiền để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nếu không ngân hàng phải đối mặt
với RRTK.



15

1.2.1.3, Sự cần thiết phải quản trị RRTK [2]
Như đã trình bày, hiếm khi nào tại một thời điểm tổng cung bằng với tổng cầu
thanh toán. Do đó ngân hàng phải thường xuyên đối phó với tình trạng thâm hụt hoặc
thặng dư thanh khoản.
Bên cạnh đó, thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với
nhau: một tài sản có tính thanh khoản càng cao thì khả năng sinh lời của nó lại càng
thấp và ngược lại; một nguồn vốn có tính thanh khoản cao thường có chi phí huy động
vốn lớn (nên làm giảm khả năng sinh lời khi sử dụng để cho vay).
Những nghiên cứu gần đây chứng tỏ rằng hiện tượng thiếu, thâm hụt thanh
khoản, thường là một trong những dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang ở tình trạng khó
khăn tài chính nghiêm trọng. Hậu quả tiếp theo có thể là ngân hàng mất dần các khoản
tiền gửi cũ vì áp lực rút tiền ngày càng gia tăng, không thể thu hút thêm các khoản tiền
gửi mới do thái độ dè dặt của công chúng đối với ngân hàng, một số ngân hàng thì ở
trong tình trạng cho vay hỗ trợ một cách miễn cưỡng, vì phải huy động vốn lãi suất
cao hơn lãi suất cho vay, càng làm suy giảm hơn nữa lợi nhuận của ngân hàng. Tình
trạng thiếu hụt thanh khoản với mức độ lớn tại một số ngân hàng và trở thành một
trong những nguyên nhân đưa đến phá sản đã khẳng định rằng không thể bỏ qua vấn
đề thanh khoản. Không chỉ có vậy, việc một ngân hàng bị thiếu hụt thanh khoản sẽ gây
tổn thất cho toàn bộ hệ thống, chính vì RRTK có tính lan truyền trên toàn hệ thống nên
việc nâng cao khả năng quản trị thanh khoản ở từng ngân hàng là một vấn đề rất quan
trọng không chỉ đối với từng ngân hàng mà còn là một vấn đề cấp thiết của toàn bộ hệ
thống.
Do đó ngày nay, công tác quả trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn so với
trước đây rất nhiều, bởi vì một số ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ
nhu cầu thanh khoản, mặc dù về mặt kỹ thuật, nó vẫn còn khả năng trả nợ. Hơn nữa,
năng lực quản trị thanh khoản là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt
đến các mục tiêu dài hạn của ngân hàng.



16

1.2.2, Nội dung quản trị RRTK
1.2.2.1, Đường lối chung về quản trị thanh khoản [1]
Thứ nhất, nhà quản trị thanh khoản phải thường xuyên bám sát hoạt động của
các bộ phận chịu trách nhiệm huy động vốn và sử dụng vốn trong phạm vi ngân hàng
và điều phối họat động của các bộ phận này sao cho ăn khớp với nhau.
Thứ hai, nhà quản trị thanh khoản cần phải biết trước khả năng ở đâu và khi
nào những khách hàng gửi tiền, xin vay dự định rút vốn hoặc bổ sung thêm tiền gửi
hoặc trả nợ của họ.
Thứ ba, nhu cầu thanh khoản của ngân hàng và các quyết định liên quan đến
vấn đề thanh khoản phải được phân tích trên cơ sở liên tục để tránh kéo dài một trong
hai trạng thái thặng dư hoặc thâm hụt.
1.2.2.2, Dấu hiệu thị trường nhận biết RRTK [5]
Để nhận biệt rủi ro thanh khoản ta có thể dự trên các dấu hiệu thị trường như
sau:
Sơ đồ 1.4: Các dấu hiệu thị trường nhận biết RRTK [5]

LÒNG TIN CỦA
DÂN CHÚNG

VAY NGÂN
HÀNG TRUNG
ƯƠNG

SỰ BIẾN ĐỘNG
CỦA THỊ GIÁ CỔ
PHIẾU


DẤU HIỆU THỊ
TRƯỜNG

KHÔNG ĐÁP
ỨNG ĐẦY ĐỦ
CÁC CAM KẾT
TÍN DỤNG

LÃI SUẤT HUY
ĐỘNG CAO HƠN
THỊ TRƯỜNG

CHỊU LỖ KHI
BÁN TÀI SẢN

a. Lòng tin của dân chúng: Ngân hàng sẽ mất dần người gửi tiền, bởi vì
những cá nhân và tổ chức lo ngại rằng ngân hàng không đủ tiền mặt và có thể
không có khả năng hoàn trả tiền gửi.


17

b. Sự biến động của thị giá cổ phiếu: Thị giá cổ phiếu của ngân hàng
giảm, bởi vì những nhà đầu tư nhận thấy rằng ngân hàng đang đứng trước một
cuộc khủng hoảng thanh khoản.
c. Áp dụng mức lãi suất huy động cao hơn thị trường: Khi ngân hàng áp
dụng mức lãi suất huy động (tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu) và chấp nhận mức
lãi suất đi vay cao hơn mức lãi suất thị trường một cách bất thường, hay nói
cách khác ngân hàng chấp nhận rủi ro dưới hình thức áp dụng chi phí vay vốn
cao là bởi vì ngân hàng được xem là đang phải đối đầu với một cuộc khủng

hoảng thanh khoản.
d. Chịu lỗ khi bán tài sản: Ngân hàng chịu sức ép bán tài sản một cách vội
vã và sẵn sàng chịu lỗ lớn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản và việc chuyển hóa
tài sản của ngân hàng là thường xuyên thì ngân hàng có thể đang phải chịu khó
khăn về thanh khoản.
e. Không đáp ứng đầy đủ các cam kết tín dụng: Ngân hàng không có khả
năng đáp ứng đúng hẹn và đầy đủ các cam kết tín dụng, thời gian giải ngân bị
kéo dài, nhu cầu xin vay của những khách hàng có hệ số tín nhiệm cao không
được giải quyết. Ta có thể kết luận rằng ngân hàng đang có khó khăn về thanh
khoản.
f. Vay Ngân hàng Trung Ương (NHTW): Khi ngân hàng buộc phải vay
NHTW với khối lượng lớn và thường xuyên hơn, NHTW đã bắt đầu đặt câu hỏi
về những khoản vay của ngân hàng thì chính là ngân hàng đang có khó khăn về
thanh khoản.
1.2.2.3, Các phương pháp quản lý RRTK [3]
Có ba phương pháp:
a. Phương pháp 1: Duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn dùng cho dự trữ
và vốn dùng cho kinh doanh
Phương pháp này phải áp dụng sao cho phù hợp với đặc điểm hoạt động của
ngân hàng.
b. Phương pháp 2: Đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả (QĐ457/2005/QĐ
– NHNN)


18

Tỷ lệ khả năng chi trả (%) = tài sản “Có” có thể thanh toán ngay / tài sản “Nợ”
phải thanh toán ngay
Tổ chức tín dụng (TCTD) phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả đối
với từng loại đồng tiền, vàng như sau:

Tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “Có” có thể thanh toán ngay và các
tài sản “Nợ” sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo.
Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong khoản
thời gian 7 ngày tiếp theo và tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán trong khoảng thời gian
7 ngày làm tiếp theo.
c. Phương pháp 3: Dự báo nhu cầu thanh khoản
Sử dụng 4 phương pháp dự báo là phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng
nguồn, phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn, phương pháp xác định xác suất mỗi tình
huống và phương pháp tiếp cận các chỉ số thanh khoản theo sơ đồ 1.5.
Sơ đồ 1.5: Các phương pháp dự báo RRTK [3]
Các phương pháp dự báo thanh khoản
PP
tiếp
cận
nguồn
vốn

sử
dụng
vốn

PP
tiếp
cận
cấu
trúc
vốn

PP
xác

định
xác
suất
mỗi
tình
huống

PP*
tiếp
cận
các
chỉ
số
thanh
khoản

*PP: Phương pháp
• Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn
Thực chất của phương pháp này là đo lường cung cầu thanh khoản, trong đó
phần chủ yếu của cung cầu thanh khoản là tiền gửi và cho vay nên phương pháp này
tập trung vào đo lường những thay đổi dự tính trong tiền gửi và cho vay của ngân
hàng.


19

Phương pháp này bắt đầu với hai thực tế đơn giản:
Một là, khả năng thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm.
Hai là, khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng.
Bước 1: Dự báo nhu cầu vay vốn và tiền gửi kỳ kế hoạch

Từ đầu năm, ngân hàng ước lượng nhu cầu thanh khoản của các tháng, quý
trong năm. Bất cứ lúc nào khi nguồn tạo ra thanh khoản và nhu cầu sử dụng thanh
khoản không cân bằng với nhau, ngân hàng có một độ lệch thanh khoản có thể đựơc
xác định như sau:
Xây dựng mô hình:
f (cho vay) = f(tăng trưởng kinh tế, tỷ suất lợi nhuận, lạm phát, lãi suất …)
Trong đó, thay đổi của tiền vay phụ thuộc vào các biến sau:
• Lãi suất cơ bản
• Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP
• Tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp
• Tỷ lệ tăng trưởng của cung tiền
• Tỷ lệ tăng trưởng của tín dụng thương mại
• Tỷ lệ lạm phát
• ...
f (Tiền gửi) = f(GDP/người, cung tiền, thu nhập, lạm phát, lãi suất…)
Trong đó, thay đổi của tiền gửi phụ thuộc vào các biến sau:
• Lãi suất cơ bản
• Tăng trưởng thu nhập cá nhân
• Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền của NHTW
• Lãi suất
• Tỷ lệ lạm phát


20

• ...
Bước 2: Xác định khe hở thanh khoản
Khe hở thanh khoản = Tổng cung thanh khoản (1) − Tổng cầu thanh khoản (2)
(Liquidity gap)
Khi khe hở thanh khoản > 0 ngân hàng có tổng cung thanh khoản lớn hơn cầu

thanh khoản, và phần thanh khoản thặng dư nhanh chóng phải được đầu tư vào những
tài sản sinh lợi cho đến khi chúng được cần đến để trang trải nhu cầu tiền sau này.
Ngược lại, khe hở thanh khoản < 0 ngân hàng có tổng cầu thanh khoản lớn hơn
tổng cung thanh khoản, trong trường hợp này, ngân hàng cần phải gia tăng thanh
khoản từ nhiều nguồn cung cấp sẵn có khác nhau một cách kịp thời và với chi phí rẻ
nhất.
• Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn
Nếu như phương pháp nguồn vốn và sử dụng vốn giúp ngân hàng đo lường cả
nguồn cung và nguồn cầu thanh khoản thì phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn chỉ quan
tâm đến cầu thanh khoản. Phương pháp đo lường RRTK dựa vào việc phân chia cơ
cấu nguồn vốn huy động theo khả năng nguồn vốn này bị rút ra khỏi ngân hàng để xác
định yêu cầu thanh khoản của ngân hàng.
Bước 1: Dự báo các nguồn vốn huy động và nhu cầu tiền vay tiềm năng
Ngân hàng ước lượng nhu cầu thanh khoản của các tháng, quý tiếp theo trong năm
bằng các số liệu của các tháng, quý trước đây. Ta tiến hành xây dựng mô hình của
từng nguồn vốn phụ thuộc vào thời gian, ví dụ như mô hình dự báo tiền gửi không kỳ
hạn như sau:
f (tiền gửi không kỳ hạn) = f(t)
Trong đó t là thời điểm cần dự báo.
Tương tự như trên đối với các nguồn vốn còn lại và nhu cầu tiền vay tiềm năng.
Bước 2: Nguồn vốn được phân chia thành các nhóm



×