Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LUẬT học THỦ tục xét xử NHỮNG vụ án mà bị cáo là NHỮNG NGƯỜI CHƯA tới TUỔI vị THÀNH NIÊN một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.98 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế, tồn tại
trong tất cả các xã hội. Trong những năm qua và nhất là thời điểm hiện nay,
tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam diễn biến rất phức
tạp. Việc giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội là việc làm cần
thiết để giữ nghiêm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, nhưng cũng là
một vấn đề phức tạp và tế nhị. Trước hết, do xuất phát từ đặc điểm tâm lý
đang phát triển, nhân cách chưa được định hình, nhận thức chưa được đầy đủ
nên một số em đã có hành vi phạm tội một cách không tự giác. Mặt khác, khi
phạm tội các em là những người phạm tội, nhưng đồng thời cũng là những
nạn nhân của sự thiếu giáo dục, chăm sóc của gia đình, nhà trường và xã hội;
hành động của các em ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh khách quan hoặc bị
xúi giục, lừa dối...
Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải
quyết tội phạm về người chưa thành niên là: "Vấn đề không phải chỉ đơn giản là
xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó, điều quan trọng là phải tìm ra
mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn
ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra" [24], quán triệt tinh thần đó, Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 2003 đã dành nguyên một chương riêng biệt
(Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên.
Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các
quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên
cứu lý luận và thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
trong việc giải quyết các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, chúng tôi
thấy, những người tiến hành tố tụng không những phải nắm vững các quy

1



định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các thủ tục tố tụng đặc biệt này mà còn
phải có kiến thức nhất định về đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành
niên để phục vụ cho công tác xét xử đạt chất lượng cao. Hơn nữa, trong quá
trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, bên cạnh những mặt tích cực, nền
kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình
hình người chưa thành niên phạm tội diễn biến ngày càng phức tạp với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng tăng. Chính vì vậy, trước
những đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, việc nghiên
cứu sâu về thủ tục xét xử đối với những vụ án mà bị cáo là người chưa thành
niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả
về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Những phân tích trên đã
đưa chúng tôi đến quyết định chọn đề tài "Thủ tục xét xử những vụ án mà bị
cáo là người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn" cho luận
văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong công tác xét xử án hình sự, việc xét xử đối với những vụ án mà
bị cáo là người chưa thành niên là một trong những nội dung quan trọng. Bởi
vì, ngoài việc quyết định hình phạt đối với họ, Tòa án còn phải thực hiện việc
giáo dục họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần,
tạo điều kiện giúp họ sớm hòa nhập cuộc sống bình thường.
Trước khi chọn đề tài "Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là người
chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn" cho luận văn thạc sĩ của
mình, chúng tôi đã tham khảo một số nghiên cứu về lĩnh vực tư pháp đối với
người chưa thành niên như: Nguyễn Trần Bích Phượng: "Thủ tục tố tụng về
những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng tại
thành phố Hà Nội", Luận văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001;
Phạm Thị Khánh Toàn: "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là
người chưa thành niên - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Luận văn cử nhân


2


Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Đỗ Thị Phượng: "Thủ tục tố tụng đối
với bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003... Tuy
nhiên, các nghiên cứu nêu trên đề cập đến cả quá trình giải quyết vụ án mà bị
can, bị cáo là người chưa thành niên từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cho
đến thi hành án.
Trong luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên cứu sâu những quy định của
pháp luật về việc xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên và thực tiễn
áp dụng những quy định đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá thực trạng của
quá trình xét xử bị cáo là người chưa thành niên, luận văn góp phần làm sáng
tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc giải quyết vụ án mà bị
cáo là người chưa thành niên để áp dụng vào thực tiễn công tác xét xử nhằm
đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất, đồng thời đưa ra một số thực trạng đối
với việc áp dụng thủ tục này và đề xuất hướng giải quyết.
b. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của thủ tục xét xử
vụ án hình sự mà bị cáo là người chưa thành niên. Trong đó tập trung nghiên
cứu các vấn đề: khái quát về người chưa thành niên; đặc điểm tâm lý lứa tuổi
của người chưa thành niên; những quy định của pháp luật nói chung về người
chưa thành niên; những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét
xử đối với vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên; thực trạng xét xử và một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục đó. Thông qua đó, luận văn có những
giải pháp để tạo ra một cơ chế pháp lý phù hợp cho việc xét xử bị cáo chưa
thành niên nhằm giáo dục, cải tạo họ thành người có ích cho xã hội.


3


4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp lịch sử, so sánh, tổng hợp, thống kê tình hình thực tiễn xét
xử tại Tòa án. Qua đó chúng tôi nghiên cứu rút ra những thành tựu cũng như
những tồn tại, hạn chế của thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa thành
niên nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ
đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử vụ án mà
bị cáo là người chưa thành niên.
5. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu: các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về thủ tục xét xử bị cáo là người chưa thành niên phạm tội từ
trước đến nay, so sánh với thủ tục tố tụng của một số nước khác trên thế giới.
Nghiên cứu thực trạng xét xử người chưa thành niên phạm tội thông
qua các phiên tòa và các bản án của Tòa án trong những năm gần đây.
6. Cơ sở khoa học của đề tài
a. Cơ sở lý luận
Phương pháp luận và phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b. Cơ sở thực tiễn
Tình hình thực tiễn xét xử tại phiên tòa và qua các bản án hình sự trên
địa bàn toàn quốc.
7. Điểm mới của luận văn
Nội dung của luận văn được trình bày một cách có hệ thống các quy
định pháp luật tố tụng về thủ tục xét xử vụ án và thực tiễn áp dụng pháp luật

4



tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án mà bị cáo là người chưa thành
niên. Từ việc nghiên cứu thực tiễn, luận văn đã nêu lên những bất hợp lý và
những vướng mắc trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
trong thực tiễn xét xử các vụ án về người chưa thành niên phạm tội. Từ đó
đưa ra những đề xuất về hướng giải quyết sao cho phù hợp với thực tế, đồng
thời hạn chế phần nào những sai lầm, khuyết điểm của cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thủ tục xét xử các vụ án mà bị cáo
là người chưa thành niên
Chương 2: Quy định về thủ tục xét xử các vụ án mà bị cáo là người
chưa thành niên trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ
tục xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
MÀ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.1. KHÁI NIỆM THỦ TỤC XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.1.1. Khái niệm bị cáo là người chưa thành niên

Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được
định nghĩa như sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ,
toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ công dân". Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ
em năm 1990 thì "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn". Bên cạnh
Công ước về quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc
về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh)
do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1992 cũng là một văn
bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến khái niệm "người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi" như là một sự kế thừa của Công ước về Quyền trẻ
em. Quy tắc Riát về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên được
Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1990 mặc dù không đưa ra một cách cụ
thể về khái niệm người chưa thành niên, song thông qua các quy định cũng
giúp chúng ta hiểu người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên,
do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm người chưa thành
niên ở các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì
Công ước về Quyền trẻ em vẫn còn những điều khoản để ngỏ cho các nước
quy định về độ tuổi cho người chưa thành niên, thậm chí ngay trong một quốc
gia các văn bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về vấn đề này.

6


Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận
trong quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang
lại cũng như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã
đưa ra khái niệm về người chưa thành niên, tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh
của từng ngành luật, như sau: Điều 18 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định:
"Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười

tám tuổi là người chưa thành niên" và Bộ luật lao động Việt Nam cũng quy
định: "Người lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi". Như vậy, có
thể thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.
Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ
em ngày 20.2.1990 mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên là những
người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn
người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm (Điều 12 của Bộ luật hình sự).
Vấn đề đặt ra là tại sao pháp luật hình sự lại quy định người chưa đủ
14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự và người từ đủ 14 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định?
Quy định này của Bộ luật hình sự về mặt lý luận có thể hiểu, người chưa đủ
14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà họ gây ra vì người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa
nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả
năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là

7


không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình
sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ
16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do

đó, họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm (rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng) chứ không phải chịu trách nhiệm
hình sự về tất cả các tội phạm. quy định này cũng thể hiện chính sách nhân
đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định bị cáo là người đã
bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, như vậy, căn cứ vào quy định này và quy
định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu
trên, thì có thể hiểu bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về bị cáo là người chưa
thành niên như sau:
Bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội
phạm bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Việc xác định tuổi của bị cáo là người chưa thành niên rất quan trọng
vì đây là căn cứ ngăn chặn, áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với bị cáo nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Việc xác định
tuổi của bị cáo còn giúp Cơ quan tiến hành tố tụng xác định được việc xét xử
và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
1.1.2. Khái niệm thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa
thành niên
Như đã nêu trên, người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi mà
khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị
hạn chế và nhiều khi do bị tác động mạnh của điều kiện bên ngoài. Chính

8


sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để phát triển lành mạnh, trở thành công

dân có ích cho xã hội.
Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ
em là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng
ngày mà ngay cả khi quyền trẻ em bị xâm phạm cần được bảo vệ hoặc khi đối
tượng này vi phạm pháp luật. Luật hình sự bảo vệ người chưa thành niên bị
coi là người phạm tội và cũng quy định một chế tài riêng để xử lý, thủ tục tố
tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi chưa thành niên nhằm thể hiện tính nhân
đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có một chương riêng (Chương XXXII) quy
định về thủ tục tố tụng đối với vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp dụng
"Thủ tục đối với người chưa thành niên", nhà làm luật Việt Nam không hề ghi
nhận khái niệm pháp lý "thủ tục đối với người chưa thành niên" là gì? Qua
nghiên cứu các quy định về thủ tục đối với người chưa thành niên trong chương
này, chúng ta có thể hiểu: Các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên có những đặc trưng so với thủ tục tố tụng áp dụng đối với người
thành niên. Những đặc trưng này thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của
người tiến hành tố tụng, về đối tượng phải chứng minh, về việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn, về việc bào chữa, việc tham gia của gia đình, nhà trường và
tổ chức xã hội vào tố tụng cũng như công tác xét xử và thi hành án. Bộ luật tố
tụng hình sự cũng quy định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều tra,
truy tố, xét xử vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối
tượng này.
Như vậy, thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là tổng hợp các quy định về thủ tục đặc
biệt mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là người chưa thành niên từ đủ

9



14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một cách khách quan, toàn diện
và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo
trong hoạt động xét xử.
1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.2.1. Phạm vi áp dụng thủ tục xét xử đối với người chưa thành niên
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự phát sinh từ khi một người bị bắt, bị tạm giữ về hình sự. Đối với
người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố, truy tố và xét
xử là người chưa thành niên thì xuất phát từ nhận thức người chưa thành niên
là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, khả năng nhận thức
về hành vi còn hạn chế, dễ bị tác động bởi những điều kiện ngoại cảnh, Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 đã dành một chương (chương
XXXII) quy định về thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên.
Phạm vi áp dụng của Chương này được thể hiện tại Điều 301 Bộ luật
tố tụng hình sự như sau: "Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái
với những quy định của Chương này".
Như vậy, có thể hiểu phạm vi áp dụng thủ tục xét xử đối với bị cáo là
người chưa thành niên bao gồm các quy định tại Chương XXXII Bộ luật tố
tụng hình sự (từ Điều 302 đến Điều 310) và tất cả những quy định khác của
Bộ luật tố tụng hình sự nếu không trái với những quy định của chương này.
Việc quy định phạm vi áp dụng như vậy để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của bị cáo là người chưa thành niên.
1.2.2. Những vấn đề cần xác định rõ trong vụ án mà bị cáo là
người chưa thành niên

10



Khi tiến hành xét xử với những vụ án mà bị cáo là người chưa thành
niên, ngoài những vấn đề bắt buộc phải chứng minh đối với các vụ án hình sự
nói chung, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 302 của Bộ luật tố tụng hình sự
Tòa án cần phải xác định rõ các vấn đề sau đây:
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức
về hành vi phạm tội của người chưa thành niên: Việc xác định tuổi của bị
cáo là người chưa thành niên đặc biệt quan trọng vì đây là căn cứ để truy
cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như việc xác định trình độ
phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội
giúp cho người tiến hành tố tụng có thể đánh giá tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của người chưa thành niên gây ra để có
thể áp dụng biện pháp tư pháp hay hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi
hành án theo quy định của pháp luật.
Điều kiện sinh sống và giáo dục: Hành vi phạm tội của người chưa
thành niên thường bắt nguồn từ điều kiện sống và giáo dục trong gia đình,
nhà trường và xã hội. Cho nên, làm rõ yếu tố này cũng xác định khả năng cải
tạo và giáo dục người chưa thành niên phạm tội, đồng thời cũng có thể giúp
cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có thể đưa ra các
biện pháp phòng ngừa thích hợp đối với người phạm tội nói chung và người
chưa thành niên phạm tội nói riêng.
Khoa học đã chứng minh con người chịu sự ảnh hưởng tác động qua
lại của môi trường xung quanh, hành vi phạm tội không phải ngẫu nhiên
hình thành, nó phát sinh không phải từ chính môi trường, chính bản thân
người đó mà là do sự tác động qua lại giữa môi trường và cá nhân con người
đó. Đối với người chưa thành niên ảnh hưởng của môi trường xung quanh
càng thể hiện rõ hơn, đó là: điều kiện sinh sống của gia đình, thái độ, cách
ứng xử của cha mẹ, những người thân trong gia đình; điều kiện học tập và
sinh hoạt của họ ở nhà trường, đoàn thể, nơi cư trú.


11


Có hay không có người đã thành niên xúi giục: Việc xác định có hay
không có người thành niên xúi giục cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm
tội là những vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc đánh giá tính chất, mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà người chưa thành niên đã thực hiện, từ
đó đề ra những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tái phạm.
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội: Việc người chưa thành niên
phạm tội là một hiện tượng đang tồn tại trong xã hội. Hiện tượng này không
phải ngẫu nhiên xuất hiện mà bao giờ cũng có nguyên nhân và điều kiện dẫn
đến nó. Chúng ta muốn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm
do người chưa thành niên thực hiện và đề ra được những biện pháp khắc phục
và ngăn ngừa có hiệu quả thì phải tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện dẫn họ
đến việc phạm tội.
1.2.3. Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là người chưa
thành niên
Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình
sự bao gồm bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Tùy theo tính chất mức độ nghiêm trọng
của hành vi phạm tội, nhân thân của bị can, bị cáo, các biện pháp ngăn chặn
này có thể được áp dụng đối với cả trường hợp người phạm tội là người
thành niên và trường hợp người phạm tội là người chưa thành niên ở các giai
đoạn tố tụng nhằm bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án. Tuy nhiên, pháp luật về tố tụng hình sự cũng có những quy định đặc biệt
để áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp bị can, bị cáo là người
chưa thành niên.
Đối với các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
Ngoài những yêu cầu chung quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88

và 120 của Bộ luật tố tụng hình sự, theo quy định tại Điều 303 của Bộ luật tố
tụng hình sự và những quy định có liên quan thì việc áp dụng biện pháp bắt,

12


tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên được thực hiện như sau:
Biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, chỉ có thể được áp dụng đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường hợp họ phạm tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đối với người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ có thể được áp dụng trong
trường hợp họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng.
So sánh với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 trước
đây, Điều 303 của Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định bổ sung khoản 3,
trong đó quy định rõ trách nhiệm của cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam
người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp
của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam tạo điều kiện cho họ thực
hiện các quyền và nghĩa vụ mà Bộ luật tố tụng hình sự cho phép để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.
Người chưa thành niên phải được giam, giữ ở khu vực riêng; không
được giam, giữ người chưa thành niên chung với người thành niên.
Về việc giám sát bị cáo là người chưa thành niên
Theo quy định tại Điều 304 Bộ luật tố tụng hình sự thì nếu xét thấy
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là
không cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có thể ra quyết
định giao bị can, bị cáo chưa thành niên cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ
giám sát để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ
quan tiến hành tố tụng. Những người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa
vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và

giáo dục người đó. Hiện nay, không có văn bản pháp luật nào hướng dẫn về
việc cha mẹ, người đỡ đầu có quyền từ chối không thực hiện nghĩa vụ giám
sát của mình khi được yêu cầu, mặt khác theo quy định của Luật bảo vệ,

13


chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
thì cha mẹ, ông bà, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình và người đỡ
đầu có trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dạy người chưa thành niên, cho
nên họ phải có nghĩa vụ giám sát, giáo dục, chăm sóc người chưa thành niên.
Như vậy có nghĩa là trong mọi trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu
thì việc giám sát bị can, bị cáo chưa thành niên phải được cha mẹ, người đỡ
đầu của họ thực hiện. Hay nói một cách khác, việc giám sát bị can, bị cáo
chưa thành niên vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc của cha mẹ, người đỡ
đầu của họ. Quy định này khác hẳn quy định tại Điều 75 Bộ luật tố tụng hình
sự về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo chưa thành niên,
thủ tục bảo lĩnh chỉ được đặt ra đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm
trọng, có nơi cư trú rõ ràng và phải có cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh. Việc
cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh là do họ hoàn toàn tự nguyện, các cơ quan
tiến hành tố tụng không thể bắt buộc họ được.
1.2.4. Việc điều tra, truy tố và xét xử những vụ án mà bị can, bị
cáo là người chưa thành niên
Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên là
thủ tục đặc biệt được quy định tại Chương XXXII, Phần thứ bảy Bộ luật tố
tụng hình sự. Những thủ tục này gồm: Điều tra, truy tố, xét xử; bắt, tạm giữ,
tạm giam; giám sát bị can, bị cáo; bào chữa; việc tham gia tố tụng của gia đình,
nhà trường và tổ chức xã hội; xét xử; chấp hành án phạt tù; chấm dứt việc
chấp hành biện pháp tư pháp và giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án.
Việc áp dụng quy định về tố tụng hình sự đối với người chưa thành

niên phải căn cứ vào tuổi chịu trách nhiệm hình sự đã được quy định trong Bộ
luật hình sự. Trong trường hợp bị can, bị cáo có hành vi phạm tội lúc chưa đủ
mười tám tuổi nhưng khi phát hiện được tội phạm thì họ đã đủ mười tám tuổi
thì áp dụng những quy định về tố tụng hình sự đối với người đã thành niên, vì
áp dụng với họ tố tụng đối với người chưa thành niên không còn phù hợp nữa.

14


Như vậy, cần phải hiểu rằng việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phụ
thuộc vào thời điểm phát hiện tội phạm mà người đó thực hiện.
Riêng về xét xử thì tuổi của người chưa thành niên được tính đến lúc
phạm tội chứ không phải đến lúc xét xử. Có thể khi xét xử người phạm tội đã
thành niên (đủ mười tám tuổi) nhưng khi phạm tội người đó chưa đủ mười
tám tuổi thì vẫn áp dụng các hình phạt đối với người chưa thành niên.
Người chưa thành niên phạm tội là người ở lứa tuổi mà khả năng nhận
thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và
nhiều khi còn bị tác động mạnh của những điều kiện bên ngoài. Do đó, quá
trình điều tra, truy tố và xét xử phải được tiến hành hết sức thận trọng, cụ thể
và chính xác trên cơ sở xem xét đầy đủ các yếu tố của bản thân và những điều
kiện bên ngoài tác động đến người đó.
Điều 302 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về yêu cầu đối với Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi tiến hành tố tụng. Đây là yêu cầu rất cao
đối với người tiến hành tố tụng về mặt phẩm chất và năng lực cần thiết để
đảm bảo cho quá trình tố tụng được tiến hành khách quan, thận trọng và chính
xác. Đồng thời yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải làm rõ
được mức độ phát triển năng lực nhận thức của họ qua lời khai của cha, mẹ,
giáo viên, bạn bè họ, nhận xét của tổ dân phố, Đoàn thanh niên, tài liệu y tế,
kết luận của giám định trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận
thức của họ. Có thể sử dụng các giáo viên về tâm lý học, các chuyên gia trong

lĩnh vực tập lý, các nhà giáo có nhiều kinh nghiệm để xác định mức độ phát
triển năng lực nhận thức của người chưa thành niên.
Cần làm rõ những đặc điểm về tính cách của người chưa thành niên,
tình trạng sức khỏe, thói quan, mức độ phát triển về nhận thức, năng khiếu,
những vấn đề mà đứa trẻ quan tâm... Những tài liệu này có ý nghĩa đối với

15


việc đánh giá chứng cứ và quy mức độ, tính chất trách nhiệm hình sự đối với
bị can, bị cáo.
Để làm rõ điều kiện sinh sống và giáo dục cần chú ý thu thập những
tài liệu như: điều kiện sống, nghề nghiệp, trình độ, nơi làm việc, lối sống đạo
đức, quan hệ xã hội của bố mẹ cũng như trách nhiệm của họ đối với con cái.
Mặt khác, cần phải tìm hiểu kỹ thái độ và kết quả học tập, lao động của người
chưa thành niên, đạo đức, lối sống, quan hệ bạn bè, sự tham gia vào các tổ
chức, tập thể... của người đó; trước khi phạm tội người chưa thành niên đó có
chỗ ở hay không; nguồn gốc phát sinh những quan niệm, thói hư tật xấu và
động cơ, mục đích phạm tội; có sự xúi giục lôi kéo của người thành niên, bạn
bè hay không để có những quyết định đúng đắn. Nhất là trong trường hợp có
sự xúi giục, lôi kéo của người chưa thành niên thì phải xử lý nghiêm khắc
người đó để phòng ngừa việc phạm tội của người chưa thành niên. Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 quy định rõ việc mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần
phải xác định khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử là "có hay không có người
thành niên xúi giúc" thay vì quy định trước đây của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 là "có hay không người lớn xúi giục" để tránh hiểu khác nhau dẫn
đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất (điểm c khoản 2 Điều 302).
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VỤ
ÁN MÀ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN


Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý, trình độ, khả năng nhận
thức của người chưa thành niên, Bộ luật tố tụng hình sự của Việt Nam có
những quy định đặc biệt để áp dụng riêng đối với những trường hợp mà người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Bộ luật tố tụng hình sự đã
dành toàn bộ Chương XXXII để quy định về thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên trên cơ sở kế thừa những quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự được Quốc hội thông qua ngày 29-6-1988, đồng thời có một số bổ sung,

16


sửa đổi để hoàn thiện hơn các quy định về thủ tục tố tụng áp dụng trong
trường hợp người phạm tội là người chưa thành niên. Theo đó, khoản 1 Điều
302 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định "...Thẩm phán tiến hành tố
tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là những người có hiểu biết
cần thiết về tâm lý học và khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm của người chưa thành niên". Đối với Hội thẩm nhân
dân, khi tham gia xét xử những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, luật
không quy định phải có những điều kiện nêu trên, nhưng trong Hội đồng xét
xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh. Những tiêu chí này là những điều kiện cần thiết để
Thẩm phán, Hội thẩm có thể hiểu và có những phương pháp phù hợp khi tiến
hành hoạt động xét xử, bảo đảm nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 69 Bộ
luật hình sự là "việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân
có ích cho xã hội". Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có văn bản pháp luật
nào quy định về đội ngũ những người tiến hành tố tụng chuyên trách trong
những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, điều đó cho thấy,
hiện nay những người tiến hành tố tụng đang phải kiêm nhiệm giải quyết cả
các vụ án do người thành niên thực hiện nên việc bồi dưỡng kiến thức chuyên

môn về lĩnh vực tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên
cho những người tiến hành tố tụng là cần thiết.
Khoản 1 Điều 302 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về yêu cầu đối với
người tiến hành tố tụng phải có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa
học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của
người chưa thành niên, nhưng thực tế đang có nhiều bất cập về số lượng, về
kiến thức của những người tiến hành tố tụng với những diễn biến phức tạp
của tội phạm trong những người chưa thành niên; vì vậy, cần mở các lớp đào
tạo đối với những người được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng trong các vụ án
người chưa thành niên phạm tội, trang bị cho họ những kiến thức cần thiết về

17


tầm quan trọng của việc bảo vệ, giáo dục, chăm sóc trẻ em, những kiến thức
pháp luật quy định đối với những người chưa thành niên phạm tội, đào tạo
cho họ kỹ năng xét hỏi những người chưa thành niên khi họ phạm tội. Cần có
chính sách cụ thể đối với những người tiến hành xét xử những người chưa
thành niên phạm tội. Cần nghiên cứu để thành lập các bộ phận chuyên trách
trong cơ quan xét xử các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên. Trước
mắt, khi chưa có điều kiện thành lập bộ phận này thì cần phải cử những người
tiến hành tố tụng có nhiều kiến thức và kinh nghiệm giải quyết loại án liên
quan đến người chưa thành niên phạm tội. Song song với đó là cần phải có sự
tham gia của các chuyên gia tư vấn để giúp đỡ về mặt pháp lý cho người chưa
thành niên phạm tội, nhất là trong điều kiện hiện nay khi luật về trợ giúp pháp
lý đã được Quốc hội thông qua.
Yêu cầu đặt ra khi tiến hành xét xử (khoản 2 Điều 302) là cần phải xác
định rõ: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức
về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo
dục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Đây là một yêu cầu rất không dễ

thực hiện vì với thời hạn tố tụng không nhiều, điều kiện hiện có về cơ sở vật
chất, các phương tiện làm việc và nhất là vấn đề con người của các cơ quan
Tòa án thì khó có thể thực hiện được quy định này, đặc biệt là đối với người
chưa thành niên phạm tội là những trẻ lang thang, không có địa chỉ cư trú rõ
ràng.
1.4. VẤN ĐỀ THAM GIA CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA VÀ ĐẠI DIỆN GIA
ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI

1.4.1. Việc tham gia tố tụng của người bào chữa
Trong những vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa
thành niên thì việc tham gia tố tụng của người bào chữa là bắt buộc. Tuy
nhiên, cần lưu ý là đối với những trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là
người chưa thành niên nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì

18


không bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 56 của Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa có thể là luật
sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc bào
chữa viên nhân dân. Việc tham gia tố tụng của người bào chữa có thể theo
yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ
hoặc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp người bào
chữa tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu
cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 57 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Về việc xác định những trường hợp cụ thể nào có thể tham gia tố tụng
với tư cách là người bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên, chúng tôi
thấy rằng:

Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Pháp lệnh Luật sư được
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25-7-2001 và có hiệu lực kể từ
ngày 01-10-2001 thì "Công ty luật hợp danh... không được thực hiện dịch vụ
pháp lý trong lĩnh vực tố tụng". Như vậy, theo quy định này thì có thể hiểu
các luật sư là thành viên của công ty luật hợp danh không được tham gia tố
tụng với tư cách là người bào chữa nói chung và là người bào chữa cho
người chưa thành niên phạm tội nói riêng. Ngày 29-6-2006, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật
luật sư (Luật này có hiệu lực từ ngày 01-1-2007) thay thế Pháp lệnh luật sư
năm 2001. Theo tinh thần quy định của Luật này thì người có đủ tiêu chuẩn
để trở thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập
một đoàn luật sư đều có thể hành nghề luật sư trong các lĩnh vực mà luật sư
hoặc tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó là thành viên đã đăng ký. Như
vậy việc luật sư nào có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa
không phụ thuộc vào việc họ hành nghề trong công ty luật hợp danh, văn

19


phòng luật sư hay hành nghề với tư cách cá nhân. Chúng tôi cho rằng, việc
sửa đổi này là hợp lý; tuy nhiên, trong khi Luật luật sư chưa có hiệu lực thi
hành thì việc xác định luật sư nào có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho
người chưa thành niên phạm tội cần tuân thủ quy định tại Điều 19 Pháp lệnh
luật sư năm 2001 nêu trên.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 139 của Bộ luật dân sự năm
2005 thì "quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo ủy quyền";
điều này có thể hiểu là "người đại diện hợp pháp" là người đại diện theo
pháp luật hoặc theo ủy quyền. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều
139 của Bộ luật dân sự này thì "... cá nhân không được để người khác đại
diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện

giao dịch đó". Như vậy, trong tố tụng hình sự không có người đại diện theo
ủy quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà chỉ có người đại diện của
những người này theo pháp luật. Việc xác định trường hợp nào là đại diện
theo pháp luật của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên
được thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 141 của Bộ luật dân sự; cụ
thể họ có thể là cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên.
Thứ ba, về "bào chữa viên nhân dân", cho đến nay chưa có một văn
bản nào chính thức quy định hoặc giải thích về những tiêu chuẩn của người
được công nhận là "bào chữa viên nhân dân". Chúng tôi cho rằng, để bảo
đảm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng thì
bào chữa viên nhân dân cũng phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định.
Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan có liên
quan soạn thảo thông tư liên tịch hướng dẫn về vấn đề này. Về những tiêu
chuẩn để có thể được công nhận là bào chữa viên nhân dân, chúng tôi đề
nghị cân nhắc và thể hiện trong dự thảo thông tư liên tịch một số tiêu chuẩn
sau đây:

20


- Là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Là thành viên của một tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam;
- Có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực;
- Có kiến thức pháp lý;
- Có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ;
- Không thuộc một trong các trường hợp không được bào chữa quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 56 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1.4.2. Việc tham gia tố tụng của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội đòi hỏi phải được tiến hành thận trọng nhằm hạn chế tối đa những ảnh
hưởng tiêu cực đến tương lai của họ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 306 của
Bộ luật tố tụng hình sự, thì trong trường hợp người phạm tội là người chưa
thành niên, việc tham gia tố tụng của đại diện của gia đình người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao
động và sinh sống vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ theo quyết định của cơ quan
tiến hành tố tụng. Cho đến nay, mặc dù chưa có văn bản giải thích chính thức
"đại diện gia đình" của người chưa thành niên phạm tội là ai; tuy nhiên, chúng
tôi cho rằng khái niệm "đại diện gia đình" trong điều luật này được hiểu rộng
hơn khái niệm "người đại diện hợp pháp của người chưa thành niên", không
chỉ bao gồm cha, mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên mà còn có thể
là anh, chị, ông, bà, cô, dì, chú, bác hoặc những người thân thích khác của họ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 306 của Bộ luật tố tụng hình sự, thì:
"Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể

21


chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi
cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại
diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Đại diện gia đình
có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được Điều tra viên đồng ý; được đưa
ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra".
So sánh với quy định tại khoản 2 Điều 276 của Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988, khoản 2 Điều 306 của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã có sự bổ
sung, quy định cụ thể hai trường hợp bắt buộc phải có mặt đại diện gia đình

của người bị tạm giữ, bị can đó là: trường hợp người bị tạm giữ, bị can là
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và trường hợp người bị tạm giữ, bị can là
người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần. Đối với hai trường hợp
này, nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành lấy lời khai của người bị
tạm giữ, bị can mà không có mặt đại diện gia đình của họ thì có thể bị coi là
đã vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, ngoài hai trường hợp nêu
trên, việc xác định trường hợp nào là "trường hợp cần thiết khác" phụ thuộc
vào đánh giá của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
1.5. SƠ LƯỢC CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 2003

1.5.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Đây là thời kỳ Đảng, Nhà nước ta giành chính quyền từ tay triều đình
phong kiến phản động và bọn thực dân Pháp xâm lược bằng cuộc tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công.
Chủ yếu, thời kỳ này về pháp luật, chúng ta vẫn sử dụng một số chế
định tiến bộ trong Bộ luật, văn bản Luật do thực dân Pháp và triều đình phong
kiến ban hành trên cơ sở có sự sửa đổi, bổ sung phù hợp với chế độ xã hội
mới. Đặc biệt là luật tố tụng hình sự - một trong những luật cơ bản của hệ
thống pháp luật cũng chưa được xây dựng thành Bộ luật riêng.

22


Mọi hoạt động tố tụng giải quyết vụ án hình sự chủ yếu tuân thủ và dựa
trên cơ sở các quy định mang tính hiến định cho toàn bộ hoạt động tư pháp
Việt Nam trong Hiến pháp 1946 (Chương VI từ Điều 63 đến Điều 69). Do
vậy, chưa thể có được chế định riêng về thủ tục đặc biệt áp dụng để giải quyết
các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Hoạt động tố tụng trong
những vụ án mà người chưa thành niên phạm tội nhìn chung vẫn phải tuân thủ

đầy đủ các quy định về thủ tục tố tụng dành cho người đã thành niên phạm
tội.
Sang chế độ xã hội chủ nghĩa, khi xử tội người chưa thành niên đều
phải tôn trọng những nguyên tắc: "Tư pháp chưa quyết định thì chưa được bắt
bớ và giam cầm công dân Việt Nam" - Điều 11 Hiến pháp 1946 và "Các
phiên tòa đều phải công khai, trừ trường hợp đặc biệt", "người bị cáo được
quyền bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư", "cấm không được tra tấn, đánh đập,
ngược đãi bị cáo và tội nhân" - Điều 67 và 68 Hiến pháp 1946.
Những quy định trên, về cơ bản đã đảm bảo cho người chưa thành
niên phạm tội được xét xử một cách công bằng, khách quan theo quy định của
pháp luật, đây là những quy định tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển
các chế định về thủ tục đặc biệt cho những vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên giai đoạn sau này.
1.5.2. Giai đoạn 1954 đến 1975
Giai đoạn này, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc với hai
chế độ và hai hệ thống pháp luật hoàn toàn khác nhau. Sau năm 1954, miền
Bắc lập lại hòa bình, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tiếp
tục nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, rồi đến đế quốc Mỹ và bè lũ
ngụy quân, ngụy quyền. Pháp luật Việt Nam lúc này chia thành hai mảng rõ
rệt, tương ứng với mỗi chế độ trên mỗi miền lãnh thổ.

23


Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng từ năm 1945 ở
miền Bắc, tiếp tục được kế thừa, phát triển và hoàn thiện. Còn ở miền Nam,
đế quốc Mỹ và ngụy quyền cũng xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật
riêng.
Trước tiên, Chính phủ Việt Nam cộng hòa ban hành Luật số 11/58
ngày 3/7/1958 thiết lập Tòa án thiếu nhi. Điều 1 Luật này quy định: "Tòa án

thiếu nhi sẽ được thiết lập bằng các sắc lệnh tại nơi xét ra cần thiết. Tòa án
thiếu nhi có thẩm quyền xét xử các thiếu nhi nhỏ hơn 18 tuổi can tội đại hình
hay tiểu hình". Tuy nhiên, trong trường hợp có đồng phạm hoặc đồng lòa 18
tuổi hoặc trên 18 tuổi, Tòa án thường có thẩm quyền xét xử nhưng phải áp
dụng luật thiếu nhi với can phạm nhỏ hơn 18 tuổi.
Trong Luật số 11/58 ngày 3/7/1958, việc thiết lập Tòa án thiếu nhi chỉ
mang tính hình thức và dập khôn máy móc toàn bộ pháp luật tố tụng hình sự
của các nước tư bản về xét xử trẻ em phạm pháp. Chính phủ Việt Nam cộng
hòa ban hành luật này nhằm sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân đạo để che đậy
mưu đồ phản động của bè lỹ đế quốc hơn là việc xử lý đối với trẻ em phạm
pháp. Có thể nói rằng, Luật số 11/58 chẳng bao giờ được thi hành trên thực tế,
trước hết nhờ những quy định mập mờ: "Tòa án thiếu nhi sẽ được thiết lập
bằng các sắc lệnh tại nơi xét ra cần thiết".
Tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa, mặc dù chưa có Bộ luật tố tụng hình
sự, song các chế định về thủ tục đặc biệt giải quyết những vụ án mà bị can, bị
cáo là người chưa thành niên đã được ban hành dưới nhiều hình thức khác
nhau như thông tư, bản tổng kết kinh nghiệm của Tòa án nhân dân tối cao...,
những chế định này tương đối phát triển, trong đó quan trọng nhất phải kể đến:
- Thông tư số 06/TATC ngày 19-9-1967 của Tòa án nhân dân tối cao
về đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo.

24


- Bản rút kinh nghiệm số 607/NKPL ngày 13-9-1973 của Tòa án nhân
dân tối cao về việc viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm (do Công văn số
612/NCPL ngày 14-9-1973 của Tòa án nhân dân tối cao gửi cho Tòa án nhân
dân các địa phương).
- Thông tư số 16/TATC ngày 27-9-1974 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn về trình tự, thủ tục sơ thẩm về hình sự.

Những văn bản này không chỉ đề cập đến nguyên tắc chủ yếu khi xét
xử người chưa thành niên phạm tội mà còn bao gồm các chế định về bào
chữa, đại diện gia đình, quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng... khi
giải quyết vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Tóm lại, do chưa có Bộ luật tố tụng hình sự nên hoạt động xét xử người
chưa thành niên phạm tội nói riêng vẫn phải dựa vào các bản án lệ, các đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng hàng năm, Tòa án nhân dân tối
cao đều có bản tổng kết rút kinh nghiệm, hưóng dẫn xét xử cho Tòa án nhân
dân các cấp để không ngừng hoàn thiện hoạt động xét xử các vụ án mà bị can,
bị cáo là người chưa thành niên và góp phần hoàn thiện chế định về thủ tục
đặc biệt. Cơ bản và quan trọng nhất là đặt nền móng cho sự phát triển của chế
định về thủ tục đặc biệt trong các giai đoạn sau.
1.5.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ
nhất với sự thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và kết thúc bằng chiến thắng 30/4/1975
đánh dấu cho kỷ nguyên mới của dân tộc ta: Độc lập dân tộc và thống nhất
đất nước.
Trong bối cảnh lịch sử mới, việc ban hành các văn bản luật tố tụng hình
sự dưới các hình thức đơn lẻ, thiếu hệ thống như trước đây không còn phù hợp
mà cần thiết phải có những bộ luật, luật có tính hệ thống, hiệu lực ổn định trong
thời gian dài làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là
trong điều kiện miền Nam mới được giải phóng, các quy định của pháp luật

25


×