Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nghiên cứu một số đặc tính sinh dược học của dịch chiết từ cây Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum thunb)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 108 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

HOÀNG THỊ HOÀI

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC TÍNH
SINH DƯỢC HỌC CỦA DỊCH CHIẾT
TỪ CÂY GIẢO CỔ LAM
(Gynostemma pentaphyllum Thunb)
Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60.42.0114

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ PHƯƠNG LIÊN

HÀ NỘI, 2012


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế thế giới hiện nay đang có những bước chuyển mình mạnh
mẽ với tốc độ phát triển kinh tế như vũ bão do đó đời sống vật chất và tinh
thần của con người ngày càng được nâng cao. Phát triển kinh tế kéo theo sự
thay đổi lối sống công nghiệp, giảm các hoạt động thể lực, mức sống cao với
sự dồi dào về thực phẩm gắn liền với tình trạng béo phì. Cùng với sự già đi
của dân số thế giới, tốc độ đô thị hóa nhanh, song song với nhịp độ phát triển
đó thì loài người đang đứng trước những nguy cơ như ô nhiễm môi trường,


thực phẩm mất an toàn, công việc căng thẳng tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển nhanh chóng nhiều loại bệnh gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng
cuộc sống của con người.Trong số đó tình trạng thừa cân và béo phì đang
ngày một gia tăng, hiện tượng thừa cân và béo phì là nguyên nhân chính dẫn
đến bệnh đái tháo đường. (ĐTĐ)
ĐTĐ không chỉ có tính chất là một bệnh mạn tính, mà nó còn mang
tính chất xã hội bởi lẽ ĐTĐ còn kèm theo nhiều biến chứng nguy hiểm như
các bệnh về thận, bệnh về mắt, tổn thương hệ thần kinh và đặc biệt là các biến
chứng về hệ tim mạch có thể dẫn đến tử vong, [17], [45], [23], [7], [16]. gây
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng, cũng như kinh tế của các quốc gia.
Điều đáng lo ngại là ĐTĐ tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Cùng
với ung thư và tim mạch, ĐTĐ là một trong 3 bệnh có tốc độ phát triển nhanh
chóng nhất. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): năm 1994, thế giới có 98.9
triệu người mắc bệnh ĐTĐ, cuối năm 2002 có khoảng 177 triệu người, con số
này có thể tăng lên 300 triệu người vào năm 2025 [1], [2]. Do vậy Ngày 21


3

tháng 12 năm 2006, Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua một nghị quyết
thống nhất chung, tuyên bố ĐTĐ là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quốc tế.
Đây là lần đầu tiên một bệnh không truyền nhiễm lại được xem là một vấn đề
sức khỏe cộng đồng quốc tế và ĐTĐ là bệnh thứ hai chỉ sau AIDS đạt đến
tầm quan trọng như vậy. Trong những năm sắp đến, ĐTĐ là mối đe dọa sức
khỏe cộng đồng đang tăng lên ở các nước phát triển và đang phát triển.
Ở Việt Nam ước tính có khoảng 4,5 triệu người chiếm 5% dân số bị
mắc bệnh tiểu đường và rối loạn trao đổi lipid.
Trong y học ngày nay đã có nhiều loại thuốc chữa bệnh ĐTĐ có hiệu
quả như insulin, sulfonylurea, biguanid, ... Tuy nhiên, hầu hết các loại thuốc
này đều có tác dụng phụ và chi phí điều trị đắt đỏ [10], [30], [2], [22].

Trong lịch sử Y học từ 1550 năm trước công nguyên, con người đã biết
dùng cây cỏ để chữa ĐTĐ như: mướp đắng, sinh địa, hoàng kỳ, huyền sâm,
cỏ ngọt, chè xanh, khoai lang,…Hiện nay trên thế giới nói chung cũng như ở
Việt Nam nói riêng việc nghiên cứu khảo sát thành phần hóa học và tác dụng
dược lý của các loài cây thuốc có giá trị nhằm đặt cơ sở khoa học cho việc sử
dụng chúng một cách hợp lý, hiệu quả đang là vấn đề được chú trọng quan
tâm đặc biệt.
Qua thời gian khảo sát và tham khảo kết hợp với việc nghiên cứu tài
liệu về các bài thuốc cổ truyền ở nước ta. Tôi nhận thấy cây giảo cổ lam
(GCL) mọc ở vùng núi cao phía Bắc (Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Hòa
Bình). Được đồng bào sử dụng nhiều trong đời sống hàng ngày làm thực
phẩm, trà uống, thuốc chữa bệnh.
Trên thực tế việc nghiên cứu đặc tính hóa sinh, y dược của các hoạt
chất thiên nhiên từ cây giảo cổ lam chưa được nghiên cứu nhiều. Đây là một
dược liệu đầu vị quý được ghi trong sách cổ Nông chính toàn thư hạch chú
quyển hạ năm 1639. Từ xa xưa được sử dụng cho vua chúa để tăng sức khoẻ,
kéo dài tuổi thọ và làm đẹp. Giảo cổ lam bắt đầu được nghiên cứu từ năm


4

1976 ở Nhật Bản. Một số nghiên cứu về Giảo cổ lam hiện nay được thực hiện
nhiều ở Trung Quốc, Mỹ, Đức, Italia , thụy điển đã chứng minh GCL có tác
dụng kìm hãm sự tích tụ tiểu cầu, làm tan cục máu đông, chống huyết khối,
tăng cường lưu thông máu lên não, chống viêm gan, chứng cao huyết áp và
kìm hãm sự phát triển của khối u mạnh[73].
Ở Việt Nam cây Giảo cổ lam bắt đầu được nghiên cứu năm 1997 do tác
giả Phạm Thanh Kỳ và cộng sự đã chiết tách được thành phần hoạt chất mới
trong cây Giảo cổ lam Việt Nam thử nghiệm trên khối u phổi, đại tràng, vú, tử
cung, tiền liệt tuyến cho kết quả điều trị rất tốt [73].

Viện dược liệu Trung ương và Viện Karolinski Thụy Điển, Hội đái tháo
đường Thụy Điển về cây Giảo cổ lam Việt Nam đã tìm thấy một hoạt chất mới
đặt tên là phanosid. Chất này có tác dụng hạ đường huyết mạnh đồng thời kích
thích tụy tăng tiết Insulin và làm tăng sự nhạy cảm của tế bào đích với insulin.
Phanoside với liều 500 µM kích thích tạo ra insulin mạnh gấp 5 lần hoạt chất
glibenclamide - thuốc chữa bệnh tiểu đường thông dụng [73].
Trên cơ sở tài liệu tham khảo,thông tin thu thập và kết quả của những
công trình nghiên cứu trên cho thấy những tiềm năng của cây giảo cổ lam. Do
vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số đặc tính sinh dược học
của dịch chiết từ cây Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum Thunb)”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tách chiết, đặc tính hóa sinh, tác dụng hạ đường huyết và
khả năng chống rối loạn trao đổi lipid của một số phân đoạn dịch chiết từ cây
Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum Thunb).
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Khảo sát sơ bộ thành phần các hợp chất tự nhiên có trong cây GCL
3.2. Định tính, định lượng polyphenol tổng số bằng phương pháp sắc kí
lớp mỏng và phương pháp Folin-Ciocalteau.


5

3.3. Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết và chống rối loạn trao đổi lipid
trên mô hình chuột thực nghiệm của các phân đoạn dịch chiết từ cây Giảo cổ lam
(Gynostemma pentaphyllum Thunb) trên mô hình chuột gây ĐTĐ type 2.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU VỀ MỘT SỐ HỢP CHẤT TỰ NHIÊN Ở THỰC VẬT
Quá trình trao đổi chất của sinh vật bao gồm sự tạo thành hợp chất sơ cấp
và hợp chất thứ cấp. Hợp chất sơ cấp là sản phẩm tạo thành từ quá trình đồng

hóa và dị hóa, có vai trò quan trọng đối với cơ thể sống. Bao gồm những chất
thiết yếu cho cơ thể sống như các acid amin, các acid nucleic, cacbonhydrat,
lipid…Chúng là trung tâm của quá trình trao đổi chất, sinh trưởng và phát triển
của sinh vật.
Các hợp chất thứ cấp không có chức năng trực tiếp trong các quá trình đồng
hóa, hô hấp, vận chuyển, tăng trưởng và phát triển thực vật, mà chủ yếu là bảo
vệ thực vật chống lại các tác nhân gây bệnh. Trong đó nhiều chất thứ cấp có hoạt
tính sinh học mạnh được dùng làm chất diệt côn trùng, diệt nấm, dược chất.
Chúng được phân làm ba nhóm chính ở thực vật: các terpen, các hợp chất
phenolic và các hợp chất chứa nitrogen.
Y học hiện nay đã và đang tách chiết nhiều hợp chấ thứ cấp để sử dụng làm
dược liệu để phòng tránh và điều trị một số bệnh bao gồm cả các bệnh hiểm
nghèo như: ung thư, đái tháo đường, cao huyết áp, tai biến mạch máu não ….
Phổ biến nhất là các hợp chất phenolic, flavonoid, alkaloid, tannin, terpen,
coumarin ở thực vật [1],[24].
1.1.1. Flavonoid thực vật
Flavonoid là một nhóm hợp chất tự nhiên lớn thường gặp trong thực vật,
phần lớn có màu vàng. Về cấu trúc hoá học, flavonoid có khung cơ bản theo kiểu


6

C6 – C3 - C6 (2 vòng benzen A và B nối với nhau qua một mạch 3 carbon) và
được chia làm nhiều nhóm khác nhau. Hầu hết Flavonoid là các chất phenolic.
Trong số các polyphenol tự nhiên, flavonoid là nhóm chất quan trọng vì
chúng phổ biến ở hầu hết các loài thực vật và có nhiều hoạt tính sinh - dược
học có giá trị [9], [40].
1.1.1.1 Cấu tạo và phân loại
Flavonoid là một chuỗi polyphenolic gồm có 15 nguyên tử cacbon và hai
vòng benzen liên kết bởi một đường thẳng có 3 cacbon. Chúng là các hợp chất

có cấu tạo gồm 2 vòng benzen A, B được kết hợp bởi một dị vòng C (vòng
pyran) với khung cacbon C6-C3-C6. Cấu trúc hóa học của flavonoid được dựa
trên cơ sở là một khung 15C với một Chromane vòng thơm B thứ hai ở vị trí 2, 3
hay 4. Các flavonoid là dẫn xuất của 2-phenyl chroman (flavan).
2'
8
7

9

1

10
5

2

B

1'

4'

C

A
6

3'


O

3

6'

5'

4

Flavan (2-phenyl chroman)
Flavonoid có cấu trúc mạch C6C3C6, đều có 2 vòng thơm. Tùy thuộc vào
cấu tạo của phần mạch C3 trong bộ khung C6C3C6, flavonoid được phân thành
các phân nhóm khác nhau: Eucflavonoid, Isoflavonoid, Neoflavonoid.
Ngoài ra còn có thể được phân lớp tùy theo nguồn gốc sinh tổng hợp hoặc
tùy theo mức độ oxy hoá của vòng pyran, sự có mặt hay không có mặt của nối
đôi giữa C2 và C3 và nhóm cacbonyl ở C4 mà có thể phân biệt flavonoid thành
các nhóm phụ, cũng có thể được phân lớp tùy theo khối lượng phân tử của
chúng. Flavonoid được sắp xếp theo khối lượng phân tử tăng dần từ các
monomer, dimer, ... rồi đến oligomer


7

Trong thực vật, flavonoid tồn tại chủ yếu ở hai dạng: dạng tự do (aglycol)
và dạng liên kết với glucid (glycosid). Trong đó, dạng aglycol thường tan trong
các dung môi hữu cơ như ete, aceton, cồn nhưng hầu như không tan trong nước,
còn dạng glycosid thì tan trong nước nhưng không tan trong các dung môi không
phân cực như aceton, benzen, cloroform.
Trong tự nhiên, trừ catechin và leucoantoxyanidin, phần lớn flavonoid

đều tồn tại dưới dạng glycoside. Có 2 dạng glycoside là O-glycoside và Cglycoside. Đối với O-glycoside phân tử đường liên kết với flavonoid thông
qua nhóm hydroxyl như rutin; đối với C-glycoside, flavonoid liên kết với
đường thông qua nguyên tử cacbon như saponin.
OH

HO

OH

O - Rhamnose - glucose

Glucose
OH

O

Rutin

O

Saponin

1.1.1.2. Tác dụng sinh học
Các kết quả nghiên cứu khoa học đã kết luận rằng: tác dụng sinh học của
flavonoid là do khả năng chống oxy hoá của chúng quy định. Do khả năng ức
chế quá trình oxy hoá nên chúng có hiệu ứng chống u lành tính và u ác tính.
Các flavonoid còn được ứng dụng rộng rãi để điều trị các bệnh nhiễm trùng
như chống viêm loét dạ dày, viêm mật cấp tính và mãn tính, viêm gan, thận,
thương hàn, lị...[3].
- Tác dụng chống oxy hoá (antioxydant): flavonoid có khả năng kìm

hãm các quá trình oxy hoá dây chuyền sinh ra bởi gốc tự do hoạt động.
Những flavonoid có các nhóm hydroxyl sắp xếp ở vị trí octo dễ dàng bị oxy
hoá dưới tác dụng của các enzyme polyphenoloxydase và peroxydase tạo
thành dạng semiquinon hoặc quinon.
Polyphenoloxydase


8

O2+Flavonoid (dạng khử)
(dạng Hydroquinon)

Flavonoid (dạng oxi hoá)
(Semiquinon hoặc Quinon)
Peroxydase

H2O2 +Flavonoid (dạng khử)
(dạng Hydroquinon)

Flavonoid (dạng oxi hoá)
(Semiquinon hoặc Quinon)+ H2O

- Flavonoid có khả năng điều hòa hoạt độ enzyme
- Flavonoid có tính kháng khuẩn, kháng virus, tăng khả năng đề kháng
của cơ thể do kích thích lympho bào, tăng sản xuất interferon, ức chế hiện
tượng thoát bọng (digramilation) [9].
- Flavonoid có hoạt tính của vitamin PP, làm tăng tính bền và đàn hồi
của thành mạch, giảm sức thấm của mao mạch.
- Flavonoid có tác dụng chống ung thư do kìm hãm các enzyme oxy
hoá khử, quá trình đường phân và hô hấp, kìm hãm phân bào, phá vỡ cân

bằng trong các quá trình trao đổi chất của tế bào ung thư [6], [45].
- Tác dụng giảm béo phì và lipid máu
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật cho thấy khi chuột
béo phì được điều trị bằng dịch chiết giàu flavonoid từ lá Bằng lăng
(Lagerstroemia specciosa L.) thì có trọng lượng giảm đáng kể (~ 10% ) [73].
Thí nghiệm tương tự với flavonoid từ lá Kim ngân (Lonicera japonica
Thunb.) đối với chuột cống trắng uống cholesterol cũng cho thấy có tác dụng
làm giảm các chỉ số cholesterol, triglycerid, LDL-c đồng thời tăng HDL-c
[35]. Naringin (C17H32O4) và hesperidin (C28H34O15) là những flavonoid có
hàm lượng cao trên họ cam chanh (Rutaceae) đã được nhiều nhà nghiên cứu
chiết xuất và thử tác dụng trên mô hình chuột béo phì cho kết quả tốt trong
việc làm hạ các chỉ số lipid máu [34], [41].
- Tác dụng hạ glucose huyết


9

OH

O

OH

OH

OH

H3OC
O


HO

O

OH

O

O

O

O O

HO
CH3

OH
OH

HO

HO

O

HO
OH

OH


OH

OH
OH

HO

Quercetin
Hesperidin
Epicatechin
Một số flavonoid được tách chiết từ nguyên liệu thực vật đã được
chứng minh là có tác dụng điều hòa glucose huyết như: quercetin có trong Đỗ
trọng (Eucommia ulmoides Oliver.) [62], Hesperidin và Naringin có trong các
cây thuộc họ Rutaceae [39], Genistein và Daidzein có trong Đậu nành
(Glycine max L.) [12], Myricetin có trong cây Vông vang (Abelmoschus
moschatus) [12].
Đặc biệt theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy
có nhiều thành phần có tác dụng hạ đường huyết thuộc nhóm saponin, tannin,
flavonoid trong lá Bằng lăng nước (Lagerstroemia speciosa (L.) Pers) thông qua
cơ chế kích thích sự vận chuyển glucose vào trong tế bào. với flavonoid từ lá
Kim ngân (Lonicera japonica Thunb.) đối với chuột cống trắng cũng cho thấy có
tác dụng làm giảm các chỉ số cholesterol, triglyceride, LDL-c đồng thời tăng
HDL-c [9]. Naringin (C17H32O4) và hespeidin (C28H34O15) là những flavonoid có
hàm lượng cao trên họ cam chanh (Rutaceae) đã được chiết suất, nghiên cứu và
thử tác dụng trên trên mô hình chuột béo phì cho thấy kết quả rất tốt trong việc
làm hạ các chỉ số lipid máu [9],[10]. Rất nhiều loại hoa chứa các flavonoid,
polyphenol (như hoa và đài hoa cây bụt dấm) có tính chống ôxy hoá, làm giảm
rối loạn lipid máu, nguy cơ bệnh tim mạch [9],[10].
1.1.2. Hợp chất phenolic

1.1.2.1. Đặc điểm và phân loại
Hợp chất phenolic là nhóm các chất khác nhau rất phổ biến trong thực vật.
Đặc điểm chung của chúng là trong phân tử có vòng thơm (benzene) mang một, hai


10

hay ba nhóm hydroxyl (-OH) gắn trực tiếp vào vòng benzene. Dựa vào thành phần
và cấu trúc người ta chia hợp chất phenolic thành 3 nhóm nhỏ [28], 40], [45.
- Nhóm hợp chất phenolic đơn giản: Phân tử chỉ có một vòng benzen
và một vài nhóm hydroxyl. Tuỳ thuộc vào số lượng nhóm hydroxyl mà chúng
được gọi là các monophenol (phenol), diphenol (pyrocatechin, hydroquinon,
...), triphenol (pyrogalol, oxyhydroquinol, ...).
- Nhóm hợp chất phenolic phức tạp: Phân tử ngoài vòng thơm benzen
(C6) còn có dị vòng, mạch nhánh. Đại diện nhóm này có acid cynamic, acid
cumaric.
- Nhóm hợp chất phenolic đa vòng: Là nhóm đa dạng nhất, có cấu trúc
phức tạp do sự liên kết hoặc trùng hợp của các đơn phân. Ngoài gốc phenol
còn có các nhóm phụ dị vòng mạch nhánh hoặc đa vòng. Nhóm này có
flavonoid, tannin và coumarin.
1.1.2.2. Vai trò của hợp chất phenolic trong thực vật
Hợp chất phenolic có hầu hết trong các bộ phận của cây đặc biệt là tế bào
thực vật quang hợp , chúng được hình thành từ những sản phẩm của quá trình
đường phân và chu trình pentose qua cynamic acid hay theo con đường acetate
malonate qua Acetyl-CoA [28].
- Các hợp chất phenolic là một chất vận chuyển hydro.
- Các polyphenol có thể làm thay đổi hoạt động của các enzyme tương
tự như hiệu ứng điều hòa dị lập thể.
- Hợp chất phenol tác dụng như chất điều hoà các chất điều khiển sinh
trưởng ở thực vật.

- Hợp chất phenol có tính chất kháng khuẩn, chúng có tác dụng quan
trọng trong quá trình liền sẹo ở các vết thương cơ học của thực vật, chúng có
tác dụng đẩy mạnh quá trình tái sinh, chống bức xạ, gốc tự do, tác nhân gây
đột biến và chất chống oxi hóa [9], [63].


11

1.1.3. Tannin
1.1.3.1. Cấu trúc hoá học và phân loại
Tannin là hợp chất phenol có trọng lượng phân tử cao, có chứa các
nhóm chức hydroxyl và các nhóm chức khác (như cacboxyl), có khả năng tạo
phức với protein và các phân tử lớn khác trong điều kiện môi trường đặc biệt.
OH
HO

O

OH
OH

OH
OH
O

OH

HO
OH
OH


Procyanidin

Quebracho

Tannin được cấu tạo dựa trên acid gallic và acid tanic. Tannin có 2
nhóm chính: [9], [33], [40]
- Tannin thuỷ phân: gồm có các tannin mà thành phần chính để tạo
polymer thường là ester của acid gallic với gốc đường, các ester không mang
đường của acid phenolcacbonic và ester của acid ellagovic với đường.
- Tannin ngưng tụ: là các oligomer hay polymer của các đơn vị
flavonoid (flavan 3-ol) nối với các dây nối C - C không bị cắt khi thuỷ phân
như catechin, epicatechin hoặc các chất tương tự. Tannin ngưng tụ có thể có
từ 2 tới 50 hay hơn các đơn vị flavonoid.
1.1.3.2. Tác dụng sinh học
- Tannin có tác dụng giảm sự bài tiết trong ống tiêu hóa.
- Tannin còn chữa ngộ độc kim loại nặng và alkaloid do tạo tủa với
chúng.
- Tannin có tác dụng chống ung thư
- Tannin ở nồng độ cao ức chế hoạt động của các enzyme nhưng ở
nồng độ thấp chúng thường kích hoạt enzyme.


12

- Tannin có tác dụng ức chế và diệt khuẩn, tác dụng cầm máu do làm se
hệ mao mạch hay tác dụng làm giảm đau tại chỗ do làm giảm tác dụng ở đầu
dây thần kinh trung ương.
1.1.4. Alkaloid
1.1.4.1. Khái niệm và phân loại

Alkaloid là một hợp chất hữu cơ có cấu tạo phức tạp có chứa nitơ, đa số
có nhân chứa nitơ dị vòng, có đặc tính kiềm (alka - có tính kiềm) do đó, nó là
nhóm các hợp chất không thuần khiết về mặt hoá học. Alkaloid trong mỗi phân
tử của nó đều chứa ít nhất một nguyên tử nitơ dưới dạng dị vòng.
Hiện nay, người ta đã tìm được khoảng gần 6000 alkaloid. Dựa vào cấu
tạo vòng hydrocacbon và vị trí của các nhóm nitơ người ta chia các alkaloid
thực vật thành 12 nhóm.
Tính chất quan trọng nhất của các alkaloid là tính kiềm, tính chất này là
do mạch cacbon chứa nitơ quyết định . Alkaloid có tính kiềm yếu, chúng kết
hợp với kim loại nặng (Hg, Bi, Pb), Alkaloid phản ứng với một số thuốc thử:
Phản ứng tạo kết tủa, Phản ứng tạo màu với thuốc thử. [9], [33], [40]
1.1.4.2 Tác dụng sinh học
Một loài thực vật duy nhất có thể chứa hơn 100 alkaloid khác nhau và nồng
độ khác nhau. Về chức năng cũng như vai trò của nó đối với đời sống, quá trình
tao đổi chất ở cây còn rất nhiều tranh luận. Song có thể nhận thấy Alkaloid được
quan tâm với vai trò là một chất có tác dụng dược học và chất độc từ những năm
trước công nguyên.
Alkaloid được sử dụng nhiều trong công nghiệp dược với đặc tính gây ảo giác
hay thuốc giảm đau đã được ứng dụng trong y tế như các hợp chất tinh khiết (ví
dụ như morphine, atropine, và quinine, cocain...) [40].


13

Cafein

Morphine

Nicotin


Mới đây là sự phát hiện ra taxol, hợp chất có hoạt tính sinh học, có tính chất
kìm hãm đã được áp dụng như một loại thuốc chống ung thư [14].

1.1.5. Terpen thực vật
Terpen được hình thành từ quá trình polyme hoá các tiểu đơn vị isopren
5-carbon (C5H8), có công thức cấu tạo chung là (C5H8)n. Ngoài các
hydrocacbon không no, các dẫn xuất của chúng như ancol, andehyd, ceton,
cacboxylic acid cũng được gọi là tecpen.
Tuỳ theo số nguyên tử cacbon trong mạch hydrocacbon, người ta phân
chúng thành các nhóm: monoterpen, secpuiterpen, diterpen, triterpen,
tetraterpen, polyterpen.


14

Terpen là thành phần chính của các loại tinh dầu, được dùng trong công
nghệ hương mỹ phẩm, thực phẩm và dược phẩm. Những terpen bậc cao
thường là các chất có hoạt tính sinh học. Terpenoid có tác dụng làm thông
mạch và làm tăng độ đàn hồi của cơ tim và thành mạch.
1.1.6. Hợp chất coumarin
Coumarin là dẫn chất của α- purone có cấu trúc C6- C3 dị vòng chứa
oxy. Hiện nay có khoảng 1500 hợp chất coumarin khác nhau khi nghiên cứu
800 loài thực vật. Ta cũng dễ dàng tìm thấy coumarin trong tất cả các bộ phận
khác nhau của cây như: áo hạt, quả, hoa, rễ, lá, thân.

O

O

Coumarin

Coumarin sử dụng trong đời sống hàng ngày như làm nước hoa, hương
liệu, làm chất chống đông máu và chất diệt loài gặm nhấm. Trong y học
Coumarin được dùng để làm thuốc chống đông máu, dẫn xuất của coumarin có
tác dụng chống co thắt, giãn nở động mạch vành, làm bền và bảo vệ thành
mạch, ngăn cản đột qụy [41]. Một số chất có tác dụng ức chế sinh trưởng thực


15

vật, tác dụng kháng khuẩn, diệt nấm, chống viêm, kháng khối u, trừ giun sán và
giảm đau.
1.1.7. Saponin
Saponin được dùng để chỉ nhóm glycosid có đặc tính chung là khi hoà tan
vào nước sẽ có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt của dung dịch và tạo bọt.
Dưới tác dụng của các enzym thực vật, vi khuẩn, hoặc acid loãng, saponin bị
thuỷ phân thành genin (gọi là sapogenin) và phần glucid.
Phần glucid gồm các ose phổ biến là D-glucose, D-galactose, L-mannose
và L-arabinose. Phần sapogenin gồm hai nhóm lớn là saponin triterpen và
saponin steroid. Trong đó, saponin steroid phân bố tập trung ở cây một lá mầm
còn saponin triterpen phân bố rộng nhưng tập trung chủ yếu ở cây hai lá mầm.
Về mặt hoạt tính sinh học, saponin cung cấp nhiều loại thuốc quan trọng với một
số tác dụng chính như sau: Tác dụng bổ, tăng cường sinh lực (saponin có trong
họ nhân sâm); Tác dụng long đờm, dịu ho (có trong cam thảo, viễn chí); Giảm
đau nhức xương (có trong ngưu tất, cỏ xước), hạ cholesterol trong máu.
1.1.8. Glycosid trợ tim
Glycosid trợ tim là một nhóm glycosid có cấu trúc steroid, có tác dụng
đặc hiệu đối với bệnh tim nhưng với liều cao chúng là các chất gây độc. Trong
cây, chúng tồn tại ở dạng glycosid hoà tan trong các dịch tế bào. Dưới tác dụng
của enzym hay acid loãng, các glycosid bị thuỷ phân tạo thành các genin và các
ose. Là glycosid nên chúng tan nhiều trong nước và cồn loãng, ít tan trong các

dung môi không phân cực như ete, dầu, benzen...
Tác dụng của glycosid trợ tim là làm tăng sức co bóp của cơ tim, cả ở
người lành lẫn người bệnh; làm tăng trương lực cơ tim: làm ngắn chiều dài của
các sợi cơ tim đã bị căng, giãn do vậy làm tăng trương lực cơ tim, giảm thể tích
và kích thước tim; làm chậm nhịp tim: do vừa có tác dụng trên dây thần kinh phế
vị, vừa làm giảm tính tự động của nút xoang; làm giảm dẫn truyền trong nhĩ, đặc


16

biệt nút nhĩ thất; làm giảm tính kích thích của cơ tâm nhĩ, nhưng trái lại, làm
tăng tính kích thích của cơ tâm thất; gây lợi tiểu nhẹ do giảm tái hấp thu natri ở
ống lượn gần.
1.2. BÉO PHÌ:
1.2.1. Khái niệm và phân loại
1.2.1.1. Khái niệm
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì (Obesity) là tình
trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng hay toàn bộ cơ
thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe.
1.2.1.1. Phân loại
Tần suất béo phì thay đổi tuỳ theo tuổi, giới tính, chủng tộc, tình trạng
kinh tế xã hội. Để nhận định tình trạng béo gầy WHO thường dùng chỉ số khối
cơ thể (BMI- Body Mass Index). Chỉ số khối cơ thể được tính theo công thức
như sau:
BMI 

W
( H )2

Trong đó:


W: Khối lượng (kg )
H: Chiều cao (m )

Bảng 1.1. Phân loại BMI của người trưởng thành châu Âu và châu Á [2]
Người trưởng thành
châu Âu

Người trưởng thành
châu Á

< 18.5

< 18.5

Bình thường

18.5 - 24.9

18.5 - 22.9

Quá cân

≥ 25 - 29.9

≥ 23

Béo phì độ 1

30 - 34.9


>23 - 24.9

Béo phì độ 2

35 - 39.9

25 - 29.9

Béo phì độ 3

≥ 40

≥ 30

Mức độ thể trọng
Nhẹ cân


17

1.2.2. Nguyên nhân và giải pháp phòng, điều trị béo phì
1.2.2.1. Nguyên nhân
- Nguyên nhân chính chiếm 95% dẫn đến thừa cân béo phì là do khẩu
phần và thói quen dinh dưỡng không hợp lý.
- Do hoạt động thể lực kém dẫn đến năng lượng hấp thụ vào cơ thể
vượt quá mức cần thiết và tích lũy dưới dạng mỡ.
- Do một số bệnh lý nội tiết như: Hội chứng Cushing, cường insulin:
do u tụy tiết insulin, tăng ăn ngon, ăn nhiều và tân sinh mô mỡ, tăng tiêu glucid,
giảm hoạt tuyến giáp dẫn đến suy tuyến giáp trạng, bệnh trứng đa nang ,

- Do di truyền: Thống kê cho thấy 77 % người béo phì là tiền sử gia
đình có người béo phì
- Do thuốc: Gần đây, thuốc được thêm vào danh mục nguyên nhân của
các yếu tố béo phì, bởi vì gia tăng dược liệu pháp. Tăng cân có thể là sản phẩm
của các hormon steroides và 4 nhóm chính của các thuốc kích thích tâm thần:
Kháng trầm cảm cổ điển (3 vòng, 4 vòng, ức chế IMAO); Benzodiazepine;
Lithium; thuốc chống loạn thần.
1.2.2.2. Giải pháp phòng, điều trị béo phì
Để phòng bệnh béo phì có hiệu quả, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận
thức về dinh dưỡng và hoạt động thể lực. Trên phạm vi xã hội, việc phòng
bệnh cần tập trung vào nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh này.
Điều trị thừa cân béo phì dựa trên nguyên tắc kết hợp giữa chế độ ăn
uống, luyện tập và dùng thuốc. Trong đó thuốc và phẫu thuật chỉ dùng trong
trường hợp bắt buộc.
1.2.3. Biến chứng và những tác hại của béo phì.
Nguy cơ của quá tải trọng lượng hay béo phì là gây nhiều bệnh thậm chí
xuất hiện rất sớm và gây tử vong. Nhiều nghiên cứu cho thấy béo phì dạng nặng


18

và các biến chứng chuyển hoá gây nhiều tác hại cho cuộc sống con người như
mất thoải mái trong sinh hoạt, giảm hiệu suất lao động, khối lượng cơ thể
nặng nề kém lanh lợi. Người béo phì có nguy cơ bệnh tật cao do những biến
chứng như:
- Biến chứng tim mạch: Do mỡ tạng làm tim khó co bóp và mỡ máu
làm xơ cứng mạch vành và các mạch máu khác gây nhồi máu cơ tim, tăng
huyết áp, suy mạch vành, suy tim, tai biến mạch máu não.
- Biến chứng về chuyển hóa:
+ Chuyển hoá lipid: triglyceride huyết tương thường tăng trong béo phì,

tăng triglycerid và lipid có hại (LDL-c), giảm lipid có lợi (HDL-c).
+ Chuyển hoá glucid: có tình trạng kháng insulin, tăng tiết insulin, phát
hiện qua nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống bị rối loạn, dễ dẫn
đến bệnh đái tháo đường, vì vậy béo phì là một yếu tố nguy cơ của ĐTĐ
- Biến chứng ở phổi: Giảm chức năng hô hấp vì lồng ngực di động kém do
quá béo. Hội chứng Pickwick: ngưng thở khi ngủ, tăng hồng cầu, tăng CO2 máu.
- Biến chứng về nội tiết: Tăng insulin máu, tăng đề kháng insulin và
ĐTĐ type 2, do tác dụng bêta-endorphine hoặc giảm số lượng và chất lượng
insulin, kích thích tế bào bêta do ăn nhiều glucid. Chức năng nội tiết sinh dục:
giảm khả năng sinh sản.
- Biến chứng về xương khớp: Tại các khớp chịu lực cao dễ bị đau, thoái
khớp, thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống.
Ngoài ra béo phì còn làm gia tăng nguy cơ của nhiều bệnh khác: xấu đi
tình trạng rối loạn tiền mãn kinh ở phụ nữ, suy giảm chức năng hô hấp, rối
loạn hoạt động cơ xương, ung thư, sỏi mật và các vấn đề bệnh lý tâm thần
khác [3], [15], [38].
1.3. RỐI LOẠN TRAO ĐỔI LIPID MÁU
Huyết thanh người bình thường có 5 - 7g/l lipid toàn phần bao gồm acid


19

béo tự do, triglycerid, cholesterol toàn phần với hai dạng cholesterol tự do và
cholesterol este, các photpholipid. Vì không tan trong nước nên lipid được vận
chuyển trong máu dưới dạng kết hợp với các protein đặc hiệu. Các acid béo tự
do được vận chuyển chủ yếu bởi albumin, các lipid khác được lưu hành trong
máu dưới dạng phức hợp lipoprotein như: các hạt chymomicron, VLDL, HDL,
IDL, LDL. Các lipoprotein này có kích thước, thành phần, tỉ trọng và chức
năng khác nhau trong quá trình chuyển hóa lipid [10], [29], [59].
Để đánh giá lượng mỡ trong máu người ta làm xét nghiệm với các chỉ số:

- Cholesterol toàn phần

(2,9 – 5,2 mmol/l)

- Triglycerid

(0,8 – 2,3 mmol/l)

- HDL-c

(0,90 – 1,50 mmol/l)

- LDL-c

(0,5 – 3,4 mmol/l).

Tình trạng rối loạn và hoặc tăng nồng độ các thành phần lipid trong
máu, hậu quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch làm tăng nguy cơ
biến chứng tim mạch và đột qụy, tăng các biến chứng mạch máu khác, hậu
quả nặng nề nhất là dẫn đến tử vong hoặc tàn phế gọi là rối loạn chuyển hóa
[2]. Ngày nay người ta đã xem là có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ thành
phần của lipid máu có sự thay đổi. Khái niệm này chỉ rõ rối loạn lipid máu có
thể xảy ra từ rất sớm, ngay cả khi chưa có tăng các giá trị tuyệt đối nồng độ
của các thành phần trong máu [2]. Rối loạn này có thể tiên phát do di truyền
hoặc thứ phát sau các bệnh khác như: béo phì, ĐTĐ, nghiện rượu, suy giáp
trạng. Fredrickson căn cứ vào kĩ thuật điện di và siêu ly tâm với các thành
phần huyết thanh đã phân loại chứng tăng lipid máu thành 5 type dựa trên
những thay đổi thành phần lipoprotein. Cách phân loại này đã được WHO
chính thức sử dụng vào năm 1970 [28]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh
người mắc bệnh béo phì có nguy cơ cao mắc các bệnh rối loạn lipid máu dẫn



20

đến xơ vữa động mạch (liên quan chủ yếu đến các lipoprotein) hoặc hiện
tượng “nhiễm độc mỡ tế bào” [20], [28].
1.4. ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.4.1. Khái niệm và tiêu chí xác định bệnh
Theo WHO, ĐTĐ là một hội chứng rối loạn chuyển hóa cacbonhydrat có
đặc tính biểu hiện bằng tăng glucose máu do hậu quả của việc thiếu hoặc mất
hoàn toàn insulin hoặc do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt động
của insulin [1],[32],[45].
Tăng glucose máu mãn tính thường kết hợp với sự hủy hoại, sự tăng rối
loạn chức năng và sự suy yếu chức năng của nhiều cơ quan đặc biệt là mắt, thận,
thần kinh, tim và mạch máu.
ĐTĐ trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu
ban đêm và do đó làm khát nước. Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên
nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai
biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương, hoại thư, cắt cụt chi [1],[25].
Theo ADA năm 1997 và được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận năm
1998, tuyên bố áp dụng vào năm 1999, ĐTĐ được chẩn đoán xác định khi có
bất kỳ một trong ba tiêu chuẩn trong bảng 1.2 [4].
Bảng 1.2. Các tiêu chí để chuẩn đoán ĐTĐ theo WHO.
Đường
Kết luận

huyết lúc
đói (mmol/l)

Đái tháo đường

Rối loạn dung
nạp đường huyết
Bình thường

Đường huyết 2 giờ
sau khi làm nghiệm
pháp tăng đường
huyết (mmol/l)

>7

> 11.1

5.6 - 7

7.8 - 11.1

< 5.6

< 7.8

Đường huyết tại
thời điểm bất kì
(mmol/l)
>11.1
kèm triệu chứng
uống nhiều, đái
nhiều và gầy sút.



21

1.4.2. Phân loại bệnh ĐTĐ
Năm 1997, WHO đã đề nghị phân loại ĐTĐ mới dựa trên những tiến bộ
khoa học trong những năm gần đây. Phân loại này dựa vào hiểu biết về nguyên
nhân sinh bệnh
1.4.2.1. ĐTĐ týp 1
* Khái niệm
Đái tháo đường type 1 là tình trạng tăng đường huyết mãn tính do hậu quả
của tình trạng thiếu hụt insulin tuyệt đối hoặc tương đối kèm theo các rối loạn
chuyển hóa protein, lipid. Các rối loạn này có thể đưa đến các biến chứng cấp
tính và mãn tính. Loại tiểu đường này xảy ra ở bất kì lứa tuổi nào, nhưng thường
xảy ra ở trẻ em và thanh niên [1]. Chiếm 5 - 10% số người mắc bệnh tiểu đường.
Bệnh nhân ĐTĐ type 1 có đặc điểm lâm sàng phức tạp: Bệnh nhân
thường đi tiểu nhiều, khát nhiều, sụt cân, mờ mắt, mệt mỏi… Bệnh nhân ĐTĐ
type 1 bắt buộc phải điều trị bằng insulin. Người bệnh ĐTĐ týp 1 sẽ có đời
sống phụ thuộc insulin hoàn toàn.
*Cơ chế bệnh sinh
Do yếu tố di truyền kém sản xuất insulin, phát bệnh tự nhiên, ít phụ thuộc
vào điều kiện môi trường. Nguyên nhân do tế bào β bị phá hủy, gây nên sự
thiếu hụt insulin tuyệt đối cho cơ thể (nồng độ insulin giảm thấp hoặc mất
hoàn toàn). Các kháng nguyên bạch cầu người (HLA) chắc chắn có mối liên
quan chặt chẽ với sự phát triển của ĐTĐ týp 1 [1], [22].
Các giai đoạn trong ĐTĐ type 1
- Giai đoạn 1: Bản chất di truyền–nhạy cảm gene
- Giai đoạn 2: Khởi phát quá trình tự miễn
- Giai đoạn 3: Phát triển một loạt các kháng thể
- Giai đoạn 4: Tổn thương chức năng tế bào β đảo tụy



22

- Giai đoạn 5: Đái tháo đường lâm sàng, phá hủy hoàn toàn hoặc gần như
hoàn toàn tế bào β đảo tụy. Biểu hiện lâm sàng là ĐTĐ phụ thuộc insulin có kèm
biến chứng [1],[6].
1.4.2.2. ĐTĐ týp 2
*Khái niệm
ĐTĐ type 2 là tình trạng tăng đường huyết do hậu quả của kháng insulin
ở cơ quan đích kèm theo suy giảm chức năng tế bào β hoặc do suy giảm chức
năng tế bào β kèm theo kháng insulin của cơ quan đích. Đây là dạng ĐTĐ
thường gặp nhất, thường gặp ở bệnh nhân lớn tuổi. Chiếm tỷ lệ khoảng 90%
ĐTĐ trên thế giới . Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Tuy nhiên, do có sự
thay đổi nhanh chóng về lối sống, về thói quen ăn uống, ĐTĐ týp 2 ở lứa tuổi
trẻ đang có xu hướng phát triển nhanh.
Đặc trưng của ĐTĐ týp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt tiết
insulin tương đối. ĐTĐ týp 2 thường được chẩn đoán rất muộn vì giai đoạn
đầu tăng glucose máu tiến triển âm thầm không có triệu chứng.
Khi có biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về
chuyển hoá lipid, các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thần kinh, thận…, nhiều
khi các biến chứng này đã ở mức độ rất nặng [1], [22], [60].
* Cơ chế bệnh sinh
Sinh bệnh học ĐTĐ type 2 diễn biến qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Nồng độ glucose trong máu vẫn ở mức bình thường, nhưng
có hiện tượng kháng insulin vì mức insulin tăng cao hơn mức bình thường trong
máu.
- Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần và xuất
hiện tăng glucose huyết sau bữa ăn.
- Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi, nhưng bài tiết insulin suy
giảm và gây tăng glucose huyết lúc đói. Bệnh ĐTĐ biểu hiện qua bên ngoài.



23

Hình 1.1. Các giai đoạn phát triển của ĐTĐ type 2 [23]

Trong số các yếu tố môi trường đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển bệnh
thì béo phì là yếu tố thường được đề cập nhất, béo phì làm gia tăng tình trạng
kháng insulin. Nhiều bằng chứng cho thấy kiểm soát tốt tình trạng tăng cân
béo phì sẽ làm giảm đáng kể tình trạng kháng insulin và kiểm soát tốt glucose
huyết [1], [23].
Tóm lại sự thiếu hụt trong bài tiết insulin là nguyên nhân gây ĐTĐ type 2
và béo phì là yếu tố thúc đẩy phát triển bệnh.
1.4.2.3. ĐTĐ thai nghén
Đái đường thai nghén thường gặp ở phụ nữ có thai, có glucose máu
tăng, gặp khi có thai lần đầu. Sự tiến triển của ĐTĐ thai nghén sau đẻ theo 3
khả năng: bị ĐTĐ, giảm dung nạp glucose, bình thường [24].
1.4.2.4. Các thể ĐTĐ khác (hiếm gặp)
Nguyên nhân liên quan đến một số bệnh, thuốc, hoá chất:
- Thiếu hụt di truyền chức năng tế bào β;
- Thiếu hụt di truyền về tác động của insulin;
- Bệnh tuyến tụy ngoại tiết;
- Các bệnh nội tiết;


24

- Thuốc hoặc hóa chất;
- Nhiễm khuẩn;
- Những thể ĐTĐ miễn dịch trung gian ít gặp;
- Một số hội chứng di truyền kết hợp với ĐTĐ.

1.4.3. Biến chứng và những tác hại của bệnh ĐTĐ
ĐTĐ nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh sẽ tiến
triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh nhân có
thể tử vong do các biến chứng sau:
* Biến chứng cấp tính
Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đoán muộn, nhiễm
khuẩn cấp tính hoặc điều trị không thích hợp. Ngay cả khi điều trị đúng, hôn
mê nhiễm toan ceton là hiện tượng nhiễm axit chuyển hóa (tỷ lệ tử vong cao 8
- 18%). và hôn mê tăng áp lực thẩm thấu là tình trạng rối loạn chuyển hóa
glucose nặng, đường huyết tăng cao (chiếm 5 - 10%). [23], [2], [25].

* Biến chứng mạn tính
Biến chứng mắt như: bệnh lý võng mạc (27,8%), đục thủy tinh thể
(6,1%), tăng sinh gây mù lòa (1,1%).... Bệnh về võng mạc tăng dần theo thời
gian phát hiện bệnh.
Biến chứng thận như: microalbumin niệu (11,6%), macroalbumin (3%),
suy thận từ độ 1 đến độ 4 (3,5%) …
Biến chứng thần kinh ngoại vi: giảm hoặc mất phản xạ gân xương hoặc
cảm giác rung …
Tổn thương bàn chân: tùy từng mức độ như phỏng rộp, biến dạng, loét,
hoại thư, cắt cụt, …
Biến chứng mạch máu lớn: mạch vành có tới (38%), đột quỵ (1,2%),
tăng huyết áp (27,6%) ... [23], [2], [25].


25

1.4.4. Các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ
Trừ những nguyên nhân di truyền thì ăn uống sinh hoạt hợp lý điều độ
và khám sức khỏe định kỳ là phương thức chung để phòng bệnh nói chung và

bệnh ĐTĐ nói riêng.
Dựa vào tác dụng và cơ chế tác dụng, các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ được
chia thành các nhóm chính:
+ Insulin và các thuốc kích thích bài tiết insulin như Sulfonflurea,
Nateglinid (Starlix) …
+ Thuốc làm tăng tính nhạy cảm của thụ thể với insulin như: Biguanid,
nhóm thiazolidinedion…
+ Các thuốc chống tăng glucose huyết sau bữa ăn: thuốc ức chế enzyme
α- glucosidase…
Tùy theo loại ĐTĐ mà việc điều trị bằng thuốc là khác nhau. Tuy
nhiên, việc sử dụng các thuốc trên còn gây ra một số tai biến và tác dụng
không mong muốn. Ví dụ, insulin gây phản ứng dị ứng, loạn dưỡng mô ở chỗ
viêm, tăng đường huyết hồi ứng; sử dụng các sulfonylurea gây dị ứng ngoài
da, rối loạn tiêu hóa, giảm bạch cầu, hạ tiểu cầu [13], [33].
1.4.5. Y học cổ truyền với bệnh ĐTĐ
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, lượng mưa
nhiều, độ ẩm cao nên có thảm thực vật rất phong phú, đa dạng là nguồn dược
liệu quý. Bên cạnh chế độ ăn uống và tập luyện hợp lý thì việc sử dụng thảo
mộc trong điều trị bệnh ĐTĐ từ lâu đã được biết đến với nhiều tác dụng tích
cực. Các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ của Đông Y chủ yếu là các thuốc có nguồn
gốc từ dược liệu. Một số thảo mộc rất sẵn trong nước có tác dụng hỗ trợ điều
trị bệnh ĐTĐ như: Bầu đắng, tỏi, nghệ, quế, hành tây, bí đao, mướp đắng,
khế, khoai lang… [7], [8].


×