Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận bảo tồn di tích hoàng thành thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 10 trang )

MÔN HỌC: BẢO TỒN DI SẢN KIẾN TRÚC
BẢO TỒN DI TÍCH HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

Người viết: Nguyễn Việt Phong

Hoàng thành Thăng Long là một trong những quần thể di tích có giá trị
lịch sử bậc nhất trong hệ thống các di tích lịch sử của Việt Nam gắn liền với lịch sử
hình thành kinh thành Thăng Long từ thời An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII . Nơi đây
là trung tâm văn hóa chính trị và quân sự của Việt Nam trong xuyên suốt một quá
trình lịch sử lâu dài , không ngừng phát triển dưới các triều đại Lý , Trần , Lê và
Nguyễn . Trong lịch sử , quần thể này từng bao gồm những công trình kiến trúc đồ
sộ biểu trưng cho sức mạnh quyền lực của từng triều đại . Trải qua những biến cố
thăng trầm của lịch sử , các công trình kiến trúc quan trọng đã bị tàn phá nhưng
ngày nay vẫn còn nhiều hiện vật khảo cổ quý giá và những dấu vết còn sót lại của
những công trình kiến trúc xa xưa là những di sản vô giá về văn hóa lịch sử cần
được nghiên cứu và bảo tồn .
Những di tích trên mặt đất và khai quật được trong lòng đất tại Khu Trung
tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là minh chứng đặc sắc về quá trình giao
lưu văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều
học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại, đặc biệt Phật giáo,
Nho giáo, thuyết phong thủy, mô hình vương thành phương Đông, mô hình kiến
trúc quân sự phương Tây (thành Vauban), đến từ Trung Hoa, Champa, Pháp, để tạo
dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một Trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa của một quốc gia vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả giao thoa, tiếp biến văn
hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh quan, qui hoạch các khu cung điện, trong
nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với diễn biến văn hóa đa dạng
qua các thời kỳ lịch sử.
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội cho thấy truyền thống văn
hóa lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng trong suốt lịch sử liên tục 13 thế
kỷ (trải từ thời tiền Thăng Long, qua thời Đinh- Tiền Lê, đến thời kỳ Thăng LongHà Nội với các vương triều Lý-Trần-Lê-Nguyễn) và vẫn được tiếp nối cho đến
ngay nay. Những tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến trúc và nghệ thuật của di sản


phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp nhau liên tục của các vương triều cai trị đất
nước Việt Nam trên các mặt tư tưởng, chính trị, hành chính, luật pháp, kinh tế và
1


văn hoá trong gần một ngàn năm. Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di sản thể
hiện được tính liên tục dài lâu như vậy của sự phát triển chính trị, văn hoá như tại
khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.
Ngoài ra , về ý nghĩa lịch sử Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội
là một di sản đặc biệt có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử của
một quốc gia dân tộc vùng Đông Nam Á trong mối quan hệ khu vực và thế giới. Là
bằng chứng thuyết phục về sức sống và khả năng phục hưng của một quốc gia sau
hơn mười thế kỷ bị nước ngoài đô hộ , ghi đậm dấu ấn thắng lợi của một nước
thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, có
ảnh hưởng rộng lớn trong phong trào giải phóng dân tộc .

Một số hiện vật khảo cổ tại Hoàng thành

2


Một số di tích kiến trúc còn lại
Đoan môn

Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm năm
cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng 1812 - 1814, triều Nguyễn
Gia Long phá, xây Cột Cờ (nay vẫn còn sừng sững).
Năm 2002, giới khảo cổ
3



học Việt Nam được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy “lối xưa xe ngựa”
thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu khai quật tiếp, sẽ có thể thấy cả con
đường từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên ở phía Bắc và cửa Tây Nam thành Hà
Nội.
Cột cờ Hà Nội
Cột cờ Hà Nội là di tích được xây dựng năm 1812 dưới triều Gia Long cùng
lúc xây thành Hà Nội theo kiểu Vô-băng (Vauban). Cột cờ cao 60 m, gồm có chân
đế, thân cột và vọng canh. Chân đế hình vuông chiếm một diện tích là 2007 m² và
gồm 3 cấp thóp dần lên. Mỗi cấp đều có tường hoa với hoa văn bao quanh. Từ mặt
đất lên tới chân cấp thứ 2 phải leo 18 bậc tại mặt phía Đông và mặt phía Tây. Muốn
từ cấp 2 lên cấp 3 cũng phải leo 18 bậc ở hai cửa hướng Đông và Tây. Còn cấp thứ
3 có 4 cửa Đông, Tây, Nam, Bắc (với các tên "Nghênh húc" (Đón ánh nắng ban
mai), "Hồi quang" (ánh nắng phản chiếu), "Hướng Minh" (hướng về ánh sáng)…)
và từ cạnh dưới lên tới cạnh trên phải qua tới 14 bậc cầu thang.

Điện Kính Thiên

4


Điện Kính Thiên là di tích trung tâm, là hạt nhân chính trong tổng thể các địa danh
lịch sử của thành cổ Hà Nội. Điện Kính Thiên chiếm vị trí trung tâm của khu di
tích. Trước điện Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột Cờ Hà Nội, phía sau có Hậu
Lâu, Cửa Bắc, hai phía đông và tây có tường bao và mở cửa nhỏ. Dấu tích điện
Kính Thiên hiện nay chỉ còn là khu nền cũ. Phía nam nền điện còn có hàng lan can
cao hơn một mét. Mặt trước, hướng chính nam của điện Kính Thiên xây hệ thống
bậc lên bằng những phiến đá hộp lớn. Thềm điện gồm 10 bậc, 4 rồng đá chia thành
3 lối lên đều nhau tạo thành thềm rồng. Bốn con rồng đá được tạo tác vào thế kỷ 15
thời nhà Lê. Điêu khắc rồng đá điện Kính Thiên là một di sản kiến trúc nghệ thuật

tuyệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê sơ. Được chạm trổ bằng đá
xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to, mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra
sau, miệng hé mở, ngậm hạt ngọc. Thân rồng uốn lượn mềm mại thành nhiều vòng
cung, nhỏ dần về phía nền điện ở trên. Trên lưng rồng có đường vây dài nhấp nhô
như vân mây, tia lửa. Hai thành bậc ở hai bên thềm điện là hai khối đá chạy dài,
chính là hai con rồng được cách điệu hoá. Nền điện Kính Thiên và đôi rồng chầu đã
phần nào phản ánh được quy mô hoành tráng của điện Kính Thiên xưa.

5


Hậu Lâu
Lầu Tĩnh Bắc (Tĩnh Bắc lâu) là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc điện Kính
Thiên là hành cung của thành cổ Hà Nội. Tuy ở sau hành cung nhưng lại là phía
bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới có tên là
Tĩnh Bắc lâu và còn có tên là Hậu lâu (lầu phía sau), hoặc là lầu Công chúa do cho
rằng đây là nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống vua Nguyễn ra ngự
giá Bắc thành.
Cửa Bắc
Tên Hán Việt là Chính Bắc Môn ( 正北門), là một trong năm cổng của thành Hà
Nội thời Nguyễn. Khi Pháp phá thành Hà Nội họ giữ lại cửa Bắc vì nơi đây còn hai
vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882 khi Pháp hạ thành Hà
Nội lần thứ hai. Ngày nay trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Hà Nội là
Nguyễn
Tri
Phương

Hoàng
Diệu.


6


Một số dấu tích còn lại

7


D4-D6 (Khu D)

B/Bảo tồn di sản
1.Các căn cứ bảo tồn
- Nghị quyết của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ
11 thông qua ngày 02/04/2007 trong đó đã nêu việc xây dựng nhà Quốc Hội
cần gắn với phương án bảo tồn khu di tích lịch sử cảnh quan chung của khu
vực
- Hiến chương Athens về trùng tudi tích lịch sử (1931), còn gọi là Hiến
chương trùng tu ( Cartra de Restauro).
- Hiến chương Venice – Hiến chương quốc tế về bảo tồn trùng tu di tích và di
chỉ (1964). Công ước bảo vệ di sản văn hóa thiên nhiên thế giới (1972).
- Hiến chương Burra (1979) : Đưa ra các đường lối chỉ đạo cho việc bảo vệ và
quản lý các địa điểm di sản có giá trinh Văn hóa.
- Hiến chương Washington (1978).- Hiến chương bảo vệ thành phố và khu
vực đô thị lịch sử.
- Văn kiện Nara về tính xác thục (1994).
- Công ước quốc tế về du lịch văn hóa (1999 ): quản lý du lịch những nơi có di
sản quan trong,
- Hiến chương ICOMOST trung quốc (1999).
Luật Di Sản Văn Hóa
2.Mục tiêu bảo tồn

8


1.Gìn giữ khu di tích như một minh chứng về sự hình thành và phát triển của hoàng
thành Thăng Long trong giai đoạn trung đại và cận đại…Đây là một di sản văn hóa
quan trọng bậc nhất của Việt nam và cũng là một di sản văn hóa có giá trị của nhân
loại.
2. Bảo tồn, Phát huy giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật…của khu di tích
phục vụ công tác học tập, nghiên cứu.
3. Đẩy mạnh công tác quảng bá văn hóa Việt nam ra thể giới; phát triển du lịch.
4. Việc quy hoạch, bảo tồn góp phần hoàn thiện quy hoạch khu trung tâm chính trị
Ba Đình, nâng cao chất lượng không gian cảnh quan, hạ tầng đô thị. Góp phần xây
dựng hình ảnh một thủ đô Hà Nội hiện đại nhưng vẫn chứa dựng được những giá
trị di sản văn hóa giàu bản sắc dân tộc
3.Phương pháp và giải pháp bảo tồn
Trên cơ sở phân tích hiện trạng, tính chất của khu vực nghiên cứu để đề xuất phân
vùng bảo tồn và mức độ bảo tồn đối với từng khu vực hiện hữu trong phạm vi
nghiên cứu.
Khu vực nghiên cứu sẽ được phân thành 3 khu:
Khu vực 1: Trục trung tâm thành cổ và khu di tích 18 Hoàng Diệu
Khu vực 2: Nằm về phía Tây trục thần đạo. Bao gồm khu Văn phòng
chính phủ khu các đại sứ quán .
Khu vực 3: Phía đông trục chính bao gồm khu Bộ Quốc Phòng và khu dân cư dọc
theo trục phố Lý Nam Đế
a.Bảo tồn cổ vật
1. Làm nhà bao che bảo tồn nguyên trạng các dấu tích được phát lộ. Hình thức bảo
tàng tại chỗ , có thể tạo sang bằng kính trong suốt cường lực khiến người tham
quan có thể nhìn xuống mẫu . ( Đối với các hiện vật quan trọng có thể lưu giữ bản
gốc và làm bản sao đặt thay thế )
2. Bảo tồn nguyên trạng dưới dạng lộ thiên ( Với các di tích bằng vật liệu có độ bền

cao như đá, gạch)
3. Lấp cát, phục chế, tái tạo các thành phần kiến trúc gốc theo đúng tỷ lệ ở trên bề
mặt lấp
4. Lấp cát sau đó tái hiện dấu tích bằng chất liệu khác trên mặt đất
5. Lấp cát bảo vệ kết hợp giới thiệu di tích thông qua hình ảnh, thông tin của hố
khai quật.

9


b.Bảo tồn di tích kiến trúc
Đối với di tích kiến trúc không nên tự ý phục chế sửa sang một cách bừa bãi . Cần
tránh xây gắn mới hay sửa chữa mới một cách tùy tiện như một số di tích hiện nay (
bốt Hàng Đậu , thành nhà Mạc , và nhiều di tích đền chùa khác,….)
Các phần xây lắp mới cần tách riêng với kết cấu cũ và phải có ý kiến của nhà
chuyên môn . Không tùy tiện xây lắp thêm các công trình mới trong khu bảo tồn .
Có thể nghiên cứu thêm về hệ thống chiếu sáng trang trí ban đêm để biến nơi đây
thành một điểm hấp dẫn thị giác về đêm trong đô thị .
Tốt nhất nên trả lại khu vực này cho chức năng hoạt động về văn hóa lịch sử , tạo
nên một bảo tàng sống động .

10



×