4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Đây là bước chuyển mang tính cách mạng
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Qua gần 20
năm triển khai sự chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới, nền kinh tế nước
ta đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, song chưa thật ổn định
và vững chắc. Bên cạnh những thành tựu còn nảy sinh khơng ít những tiêu
cực, lệch lạc do những khuyết tật của kinh tế thị trường gây nên, đã ảnh
hưởng không nhỏ đến sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững,
đạt được tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, một trong những nhiệm vụ
cần thiết đặt ra với đất nước ta là phải từng bước hạn chế và khắc phục có
hiệu quả các khuyết tật của cơ chế thị trường đối với mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội. Thực tiễn cho thấy những tác động của các khuyết tật này là
lực cản to lớn của công cuộc đổi mới. Nhưng việc nhận thức và xử lý các
khuyết tật đó cịn nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau cả trong chỉ đạo thực
tiễn và lý luận. Yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hố hiện nay, địi hỏi phải
có nhận thức đúng về các khuyết tật của kinh tế thị trường và những tác
động của chúng đối với các mặt của đời sống kinh tế-xã hội và quốc phòngan ninh ở nước ta. Hiện nay, những tiêu cực, lệch lạc trong đời sống kinh tếxã hội do những khuyết tật của kinh tế thị trường mang lại là rất nghiêm
trọng, là lực cản kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội và hiệu lực lãnh đạo
5
của Đảng và quản lý của nhà nước ta, làm giảm lòng tin của quần chúng,
đảng viên vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Do đó, việc phòng ngừa các khuyết tật của kinh tế thị trường ở nước ta
đang là vấn đề bức bách, nóng bỏng, cho nên việc làm rõ sự xuất hiện và
những tác động của các khuyết tật kinh tế thị trường đối với quốc phòng-an
ninh, kiến nghị các phương hướng và giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục
các khuyết tật của kinh tế thị trường để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có ý nghĩa vừa mang
tính cấp bách, vừa cơ bản lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Với mong muốn
được góp phần nhỏ bé của mình vào luận giải vấn đề nóng bỏng đó của đời
sống kinh tế-xã hội hiện nay, tác giả chọn vấn đề : “Khuyết tật của kinh tế
thị trường và tác động của nó đối với quốc phịng-an ninh ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài của luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khuyết tật của kinh tế thị trường và phương hướng, giải pháp phòng
ngừa là vấn đề được nhiều nhà khoa học ở các nước trên thế giới quan tâm
nghiên cứu như : Đêriđa-Giắc “Những bóng ma của chủ nghĩa Mác”, đã
phân tích 10 “vết loét” là những khuyết tật và hậu quả của nó trong nền kinh
tế TBCN, Paris 1989.
Ở nước ta : Trong một số cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học
cũng đề cập tới vấn đề này như : Luận án tiến sĩ kinh tế của Phạm Văn Linh
“Vai trò Nhà nước trong việc hạn chế các khuyết tật của cơ chế thị trường ở
Việt Nam”; “Tăng trưởng và phát triển” của GS.TS Trần Ngọc Hiên; “Quản
lý nhà nước nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện nay” của PGS.TS
Nguyễn Quỹ Gia; “Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở
Việt Nam” do PGS.TS Phan Thanh Phố làm chủ biên; “Những tác động tiêu
cực của cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam” do TS Hà Huy Thành chủ
6
biên; “Tác động của những biến đổi kinh tế-xã hội đến nhận thức chính trị,
tư tưởng của cán bộ quân đội và một số vấn đề đổi mới công tác tư tưởng, tổ
chức trong quân đội ta hiện nay” do GS Trần Xuân Trường làm Chủ nhiệm
đề tài. Song đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn “khuyết tật của kinh tế thị trường và
tác động của nó đến quốc phịng-an ninh ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích :
Nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan
đến các khuyết tật của kinh tế thị trường, phân tích những tác động của
khuyết tật kinh tế thị trường đối với đời sống kinh tế-xã hội nói chung cũng
như trong lĩnh vực quốc phịng-an ninh nói riêng. Từ đó chỉ ra phương
hướng và các giải pháp để phòng ngừa các khuyết tật này ở nước ta.
Nhiệm vụ :
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thị trường và các khuyết tật của
kinh tế thị trường.
- Chỉ ra những tác động của các khuyết tật kinh tế thị trường nói chung
và ở Việt Nam nói riêng.
- Phân tích tác động của các khuyết tật của kinh tế thị trường đến quốc
phòng-an ninh ở nước ta hiện nay.
- Kiến nghị những phương hướng cơ bản và các giải pháp phòng ngừa
các khuyết tật của kinh tế thị trường nhằm tiếp tục phát triển kinh tế xã hội
và củng cố quốc phòng-an ninh ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các khuyết tật của kinh tế thị trường
và tác động của nó tới quốc phịng - an ninh ở Việt Nam hiện nay và những
phương hướng, giải pháp cơ bản để phòng ngừa, hạn chế các khuyết tật của
7
kinh tế thị trường kể từ khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế cũ sang
cơ chế mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu được thực hiện trên
cơ sở vận dụng tổng hợp những vấn đề lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, những thành tựu của kinh tế học hiện đại, các văn bản, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta để giải quyết những vấn đề mà đề
tài luận văn đặt ra. Luận văn còn sử dụng tổng hợp các phương pháp lơ gíc
và lịch sử, đi từ cái chung đến cái riêng, phương pháp thống kê, phân tích,
so sánh, phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm cơ sở lý
luận của đường lối, chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Những nội dung lý luận đã được trình bày sẽ góp phần vào q trình
tổ chức, chỉ đạo việc phòng ngừa các khuyết tật của kinh tế thị trường hiện
nay và trong những năm tiếp theo.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu, giảng dạy, học tập trong các nhà trường trong quân đội.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương với 4 tiết, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾT TẬT CỦA KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN QUỐC PHÒNG-AN NINH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Kinh tế thị trường và khuyết tật của kinh tế thị trường
1.1.1. Những vấn đề chung về kinh tế thị trường
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, loài người đã trải qua các
giai đoạn phát triển từ thấp đến cao, từ sản xuất tự cấp, tự túc đến sản xuất
hàng hoá nhỏ và phát triển lên sản xuất hàng hoá với qui mơ lớn. Mỗi bước
phát triển đó đều gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội. Gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất
hàng hoá là sự hình thành và mở rộng dần thị trường hàng hoá và mức độ,
phạm vi tác động của cơ chế thị trường, cơ chế vận hành của nền kinh tế
hàng hố được thể hiện thơng qua thị trường bằng sự tác động của các qui
luật sản xuất và lưu thông hàng hố. Để có cơ sở phân tích nguồn gốc, đặc
điểm và sự tác động của những khuyết tật cơ chế thị trường, trước hết cần
phải xuất phát từ phạm trù thị trường và các yếu tố cấu thành thị trường.
1.1.1.1. Thị trường và các yếu tố cấu thành thị trường
Thị trường là lĩnh vực trao đổi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, là nơi
gặp gỡ giữa người bán và người mua hàng hoá, dịch vụ liên quan đến sự tồn
tại, phát triển sản xuất và đời sống.
C.Mác cho rằng : “Thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi” [17, 614].
Lênin, trong tác phẩm “Bàn về cái gọi là thị trường” viết năm 1893 đã chỉ ra
rằng : “Khái niệm thị trường hồn tồn khơng tách rời khái niệm phân công
xã hội được. Sự phân công này như Mác đã nói là cơ sở của mọi nền sản
xuất hàng hố. Hễ ở đâu và khi nào có phân cơng xã hội và sản xuất hàng
9
hố thì ở đó và khi ấy có thị trường. Qui mơ của thị trường gắn chặt với
trình độ chun mơn hố của lao động xã hội” [13, 114].
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở của mọi nền sản xuất hàng
hố. Q trình phân cơng lao động xã hội được thực hiện dưới những hình
thức khác nhau. Sự xuất hiện những ngành sản xuất xã hội như : công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp, dịch vụ… gắn với
phân công lao động xã hội. Xét thuần tuý về mặt kỹ thuật của lao động thì
phân cơng lao động là sự chun mơn hố lao động trong q trình tái sản
xuất xã hội. Phân cơng lao động xã hội là kết quả của sự phát triển lực lượng
sản xuất. Thị trường là hệ quả tất yếu của phân công lao động xã hội trong
nền sản xuất hàng hoá, đồng thời là điều kiện làm cho phân công lao động
xã hội ngày một sâu sắc.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung và chun
mơn hố lao động xã hội nói riêng, năng suất lao động xã hội tăng, sản
phẩm thặng dư ngày càng nhiều, do đó qui mơ trao đổi của thị trường cũng
phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và tác động mạnh trở lại sự phát
triển của phân công lao động xã hội. Lênin cho rằng : “Trong nền kinh tế
hàng hoá, thị trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công lao động xã
hội” [13, 117]. “Thị trường mở rộng, sự phân công lao động xã hội lại được
một đà thúc đẩy mới làm cho nó phát triển thêm, sâu sắc thêm” [13, 145],
cho nên “Giới hạn phát triển của thị trường… là do giới hạn chun mơn
hố lao động xã hội quyết định” [13, 115]. Nhưng đến lượt nó, nhu cầu thị
trường lại thúc đẩy ngành nghề sản xuất mới, dịch vụ mới xuất hiện làm cho
sản xuất hàng hoá ngày càng đa dạng và phong phú hơn.
Trong thời đại ngày nay, xu thế quốc tế hố lực lượng sản xuất và phân
cơng lao động quốc tế đang diễn ra với qui mô ngày càng mở rộng và với
trình độ ngày càng sâu sắc. Dưới tác động của phân công lao động xã hội và
10
quan hệ kinh tế đối ngoại, những ngành sản xuất mới khơng ngừng được
hình thành. Các mối quan hệ trao đổi kinh tế qua lại giữa các ngành càng
mở rộng và trở nên phức tạp hơn. Nó địi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ
hơn. Trên cơ sở những mối quan hệ kinh tế kỹ thuật khách quan theo một tỷ
lệ tất yếu. Do vậy, thị trường cũng vừa là “cầu nối”, vừa là giải pháp tối ưu
để kết hợp nhanh nhạy, chính xác các mối quan hệ phức tạp đó.
Để phân loại thị trường người ta dựa theo những tiêu thức khác nhau,
căn cứ vào giá trị sử dụng người ta chia thị trường thành thị trường tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng hoặc cụ thể hơn là thị trường từng mặt hàng.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền có thể chia thị trường
thành thị trường “hoàn hảo” và thị trường khơng “hồn hảo”, thị trường vừa
cạnh tranh, vừa độc quyền. Căn cứ vào các yếu tố gắn liền với sản xuất, có
thể chia thị trường thành thị trường các yếu tố “đầu vào” và thị trường các
yếu tố “đầu ra” của sản xuất. Căn cứ vào mối quan hệ giữa thành thị và
nơng thơn, có thể chia thị trường trong nước thành thị trường nông thôn và
thị trường thành thị. Căn cứ vào phạm vi hoạt động trong điều kiện quốc tế
hố, có thể chia thị trường thành thị trường trong nước, thị trường thế giới
và thị trường khu vực.
Thị trường có những chức năng chủ yếu như : Thừa nhận hoặc không
thừa nhận giá trị sử dụng và giá trị hàng hố, dịch vụ của người sản xuất;
thơng tin các thơng số về nhu cầu trên thị trường, kích thích hoặc hạn chế
việc sản xuất và tiêu dùng thơng qua các quyết định của người sản xuất và
người tiêu dùng.
Thị trường bao gồm các yếu tố cấu thành như sau :
- Hàng hoá : Trong nền kinh tế thị trường, nhân tố đầu tiên của thị
trường phải kể đến là hàng hoá.
11
Với tư duy truyền thống, hàng hoá thường được hiểu gắn liền với các
vật thể, gắn liền với lĩnh vực sản xuất vật chất. Ngày nay, cùng với sự phát
triển của khoa học và công nghệ, con người ngày càng khám phá ra những
giá trị và giá trị sử dụng to lớn của sản phẩm lao động cả trong lĩnh vực sản
xuất của cải vật chất và cả trong lĩnh vực dịch vụ, đó là sản phẩm của lao
động, sản xuất ra những hàng hố vơ hình (phi vật thể). Đó là quan điểm
mới về hàng hố, hàng hố có thể được hiểu là : sản phẩm của lao động tồn
tại dưới dạng hữu hình (vật thể) và dưới dạng vơ hình (phi vật thể - dịch vụ);
có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và được sản xuất ra để bán.
Với cách hiểu như trên về hàng hoá cho thấy, hàng hoá tồn tại dưới 2 dạng :
dạng hữu hình (vật thể) và dạng vơ hình (phi vật thể) tức hàng hoá dịch vụ.
Trong hai loại nhu cầu, nhất là dưới tác dụng của cách mạng khoa học
công nghệ và sự phát triển của nền văn minh nhân loại, thì nhu cầu hàng hố
dịch vụ có nhịp độ phát triển nhanh hơn. Điều này giúp lý giải vì sao ngành
dịch vụ trong cơ cấu kinh tế ngành lại có tỷ trọng tăng và phát triển nhanh
hơn các ngành sản xuất khác như công nghiệp, nông nghiệp và xây dựng.
Theo quan điểm kinh tế học Mác xít, hàng hoá là sự thống nhất biện chứng
của 2 thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng, được hình thành từ trong lao động
sản xuất vật chất và lao động dịch vụ. Vì thế giá trị hàng hố phải bao gồm
cả giá trị hàng hoá trong các ngành sản xuất vật chất lẫn giá trị hàng hoá
trong ngành dịch vụ. Cho nên, khi tính tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc
tổng sản phẩm trong nước (GDP) phải tính tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ
cuối cùng được sản xuất trong thời gian nhất định (thường tính là một năm).
- Tiền tệ : Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của trao
đổi hàng hoá, bản chất của tiền tệ là vật ngang giá để đo lường giá trị của tất
cả hàng hoá và dịch vụ khác. Bản chất tiền tệ được biểu hiện qua các chức
năng như : thước đo giá trị, phương tiện lưu thơng, phương tiện thanh tốn,
12
phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới. Trong quá trình phát triển của tiền tệ,
tiền giấy đã ra đời, tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị; tiền vàng có vai trị và
tác dụng tự điều chỉnh qua 2 kênh lưu thông và cất trữ để cân đối hàng hoá
với tiền tệ (H-T). Tác dụng này biểu hiện khi (T>H), tiền tệ từ kênh lưu
thông rút về kênh cất trữ để điều chỉnh làm cho hàng hoá cân đối với tiền.
Ngược lại, khi (H>T); tiền từ kênh cất trữ, được đưa ra làm chức năng mua
hàng hoá ở kênh lưu thơng, nhờ đó làm cho H và T cân đối lại với nhau. Bởi
vậy, việc xác định lượng tiền phát hành cần thiết cho lưu thông trong từng
thời kỳ là nội dung quy luật lưu thông tiền (vàng) do C.Mác đưa ra. Trong
điều kiện lưu thông tiền giấy, việc vận dụng qui luật lưu thông tiền tệ nói
trên có liên quan đến việc khống chế và kiểm soát lạm phát, ổn định sức
mua của đồng tiền và ổn định mức tỷ giá hối đoái hợp lý trong nền kinh tế
quốc dân.
- Giá cả thị trường : Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hố, cịn giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hố có
tính đến cạnh tranh, cung-cầu và sức mua của đồng tiền trong từng thời gian
và khơng gian nhất định. Từ đó ta thấy, sự biến động của giá cả thị trường
phụ thuộc vào những nhân tố chủ yếu sau đây :
+ Giá trị hàng hố hình thành trong sản xuất và lưu thơng. Nhân tố này
tồn tại với tư cách là nhân tố cơ bản của giá trị thị trường, nó hồn tồn xa lạ
với các lý thuyết về “giá trị giới hạn” và lý thuyết về ‘cung-cầu” quyết định
giá cả hàng hoá, hòng phủ nhận học thuyết giá trị của các nhà kinh tế chính
trị học Mác xít.
+ Thực tế cung-cầu hàng hoá dịch vụ trên thị trường là nhân tố cho
phép lý giải một cách rõ nhất vì sao giá cả thị trường khơng ăn khớp với giá
trị hàng hố mà lại tách rời giá trị ở tiệm cận trên hoặc tiệm cận dưới của
trục giá trị. C.Mác cho rằng, sự tách rời giữa giá trị và giá cả của hàng hoá
13
không phải là nhược điểm của quy luật giá trị mà là “vẻ đẹp” của quy luật
giá trị, nó thể hiện sự vận động của quy luật giá trị. Đó chính là cơ chế hoạt
động của quy luật giá trị.
+ Sự thay đổi sức mua của đồng tiền do thu nhập của người dân hoặc
do giá trị của tiền tệ thay đổi. Ngồi ra cịn nhân tố có ý nghĩâ quan trọng
nữa đó là sự điều tiết vĩ mơ của nhà nước. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh
tế thị trường, nhà nước thơng qua các cơng cụ, chính sách kinh tế, dự trữ
quốc gia mà tác động vào thị trường làm thay đổi tổng cung và tổng cầu về
một mặt hàng nào đó, gián tiếp làm biến đổi mức giá cả thị trường theo
hướng có lợi cho sự tăng trưởng kinh tế, ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân.
- Lợi nhuận : Ngày nay, quan niệm đúng đắn hơn, khoa học hơn về lợi
nhuận đã được xác lập, lợi nhuận là mục đích, là động lực kinh tế, là điều
kiện có ý nghĩa sống cịn và phát triển của sản xuất kinh doanh. Do đó,
nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ
trong tất cả các ngành, các thành phần kinh tế (trừ một số doanh nghiệp nhà
nước sản xuất hàng hoá cơng cộng và an ninh, quốc phịng) là phải phấn đấu
để đạt lợi nhuận cao, cải thiện và nâng cao đời sống người lao động, tăng
tích luỹ để khơng ngừng tái sản xuất mở rộng. Trong nền kinh tế thời kỳ kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, mức lợi nhuận được nhà nước qui
định cho từng hàng hoá hoặc nhóm hàng hố với tỷ lệ lợi nhuận định mức.
Cách tính này đã tạo ra hiện tượng “lãi giả” “lỗ thật” đồng thời làm tăng tính
ỷ lại của các giám đốc vào nhà nước, thiếu đi tính năng động, chủ động sáng
tạo trong sản xuất kinh doanh, vì nếu có bị lỗ thì có nhà nước bù lỗ. Do đó
tất yếu dẫn đến hiện tượng ngân sách nhà nước thâm hụt do phải bù lỗ
nhiều, làm kìm hãm tăng trưởng kinh tế, khó thực hiện được mơ hình tái sản
xuất theo chiều rộng và chiều sâu vì khả năng và nguồn vốn tích luỹ kém.
14
1.1.1.2. Cơ chế thị trường - cơ chế vận hành của nền kinh tế thị
trường
Trong nền kinh tế thị trường, do độc lập tương đối với nhau, nên các
chủ thể kinh tế tự quyết định những vấn đề sản xuất và kinh doanh. Nhìn bề
ngồi dường như các quyết định đó rất ngẫu nhiên, nhưng trên thực tế,
những quyết định của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường về mở
rộng hay thu hẹp sản xuất-kinh doanh, về giá cả, về ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất… đều chịu sự chi phối của những lực lượng khách quan,
các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, có hệ thống các quy luật kinh tế tồn tại và
hoạt động như :
- Quy luật giá trị : Quy luật giá trị có vị trí quan trọng nhất, nó bao qt
khá đầy đủ đặc trưng và bản chất của kinh tế thị trường. Nói cách khác : quy
luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hố. Ở đâu có
sản xuất và lưu thơng hàng hố thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động. quy
luật này đòi hỏi sản xuất và trao đổi hàng hố phải dựa trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết, việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ
sở ngang giá. Nghĩa là về sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp
với hao phí lao động xã hội, về trao đổi là phải trao đổi một lượng lao động
bằng nhau cho nhau. Như vậy, những người sản xuất và trao đổi hàng hoá
phải tuân theo mệnh lệnh của thị trường, của giá cả thị trường. Chính sự lên
xuống của giá cả xoáy quanh trục giá trị hàng hoá là biểu hiện sự hoạt động
của quy luật giá trị, sự tác động của quy luật giá trị trên thị trường thông qua
cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.
- Quy luật lưu thông tiền tệ
15
Như đã trình bày trong nhân tố tiền tệ, sự vận động của tiền tệ do quy
luật lưu thông tiền tệ chi phối. Nội dung của quy luật này là việc xác định
lượng tiền phát hành cần thiết cho nhu cầu lưu thơng hàng hố, dịch vụ.
Trong điều kiện lưu thông tiền giấy, nếu phát hành đúng theo nội dung
của quy luật nói trên thì tiền giấy cũng có hiệu lực như tiền vàng được xem
xét trong phạm vi quốc gia. Vi phạm luật lưu thông tiền tệ theo hướng lượng
tiền phát hành vượt quá nhu cầu của lưu thông sẽ dẫn đến hiện tượng lạm
phát tiền tệ mà hậu quả khó lường. Quy luật lưu thơng tiền tệ có vai trị to
lớn trong việc giúp Chính phủ có cơ sở để xác định lượng tiền phát hành cho
lưu thông, khống chế kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
phát triển kinh tế-xã hội bền vững.
- Quy luật canh tranh :
Cạnh tranh là động lực khách quan của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường. Cơ sở khách quan của cạnh tranh là sự khác nhau về lợi ích giữa
những người sản xuất hàng hố với nhau.
Cạnh tranh chính là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ
thể tham gia sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ để thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của cạnh tranh là dành nhiều lợi ích,
lợi nhuận tối đa, bảo đảm sự tồn tại và phát triển cho mình, cạnh tranh bao
gồm : cạnh tranh giành giật các nguồn lực sản xuất, giành giật nguồn
nguyên liệu, giành giật thị trường, cạnh tranh về khoa học - công nghệ,
giành nơi đầu tư có lợi, giành các hợp đồng sản xuất, dịch vụ, cạnh tranh
bằng giá cả, phi giá cả, bằng thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế, cạnh tranh giữa
người mua và bán, cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành khác
nhau, cạnh tranh trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Thị trường biểu hiện trước hết là ở các hành vi mua và bán hàng hoá
của người sản xuất, người tiêu dùng, người bán là người sở hữu hàng hoá,
16
mục đích của họ đến thị trường là để bán hàng, vì vậy với họ thị trường là
tổng hợp những điều kiện, yếu tố và môi trường để thực hiện giá trị nhằm
thu về chi phí sản xuất và lợi nhuận dưới hình thái tiền để bảo tồn và tái mở
rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Người mua là người có tiền, họ đến
thị trường với mục đích mua sắm hàng hoá để tiêu dùng (tiêu dùng cho cá
nhân và tiêu dùng cho sản xuất). Đối với họ thị trường là tổng hợp những
điều kiện, yếu tố và mơi trường giúp họ có thể tìm thấy và thoả mãn các nhu
cầu mua sắm hàng hoá, dịch vụ cho tiêu dùng phù hợp với khả năng thanh
toán.
Như vậy, nhu cầu và lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng được
thể hiện ở quan hệ và sự tác động qua lại giữa cung, cầu về hàng hoá và dịch
vụ trên thị trường. Mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chúng hình
thành nên quy luật cung-cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
Cầu bao gồm cả cầu của sản xuất và cầu của đời sống cá nhân. Thị
trường là tập hợp những nhu cầu của người tiêu dùng về các loại hàng hố
nào đó, khơng có nhu cầu thì khơng có thị trường tồn tại trong thực tế. Sự
phát triển của cơ cấu và qui mơ nhu cầu trong nền kinh tế hàng hố quyết
định sự phát triển của thị trường về chiều rộng và chiều sâu, đến lượt nó sự
phát triển của thị trường lại kích thích nhu cầu phát triển.
Cung là điều kiện cần, để cho thị trường hình thành và phát triển. Cung
thể hiện ở khả năng cung cấp hàng hoá của người sản xuất ra thị trường
trong từng thời kỳ. Cung-cầu tác động qua lại lẫn nhau tạo nên quy luật
cung-cầu trên thị trường. Cung và cầu phải tìm gặp nhau, chúng gặp nhau
thông qua các giá cả thị trường, đồng thời quan hệ cung-cầu lại là nhân tố
quan trọng nhất tác động đến sự biến động của giá cả trên thị trường.
Như vậy có thể khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, những người cung cấp hàng
17
hoá, dịch vụ và sự lựa chọn của người tiêu dùng đều diễn ra trong sự tác
động tổng hợp của các yếu tố cấu thành thị trường và sự chi phối của các
quy luật kinh tế khách quan như đã trình bày ở trên và đã hình thành nên
một cơ chế vận hành của nền kinh tế- đó là cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là sự tác động tổng hợp của các yếu tố cấu thành thị
trường, sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan vốn có của kinh tế
thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có thể vận động và tái vận
động được; tạo cơ sở khách quan để các chủ thể kinh tế ứng xử kịp thời và
có hiệu quả những vấn đề cơ bản mà kinh tế thị trường đặt ra và sự lựa chọn
tối ưu của người tiêu dùng đối với hàng hoá, dịch vụ cần đến và có khả năng
thanh tốn. Cơ chế này được A.SMít gọi là “bàn tay vơ hình”. Kế thừa và có
phê phán lý thuyết về “bàn tay vơ hình” của A.SMít, C.Mác, trong quyển I
bộ “tư bản”, đã đưa ra khái niệm giá trị, thời gian lao động xã hội cần thiết,
giá cả, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ. Nhưng tất cả những khái
niệm và quy luật này được nghiên cứu trong quá trình sản xuất trực tiếp,
chưa xét đến q trình lưu thơng, q trình tái sản xuất xã hội, cạnh tranh và
cung-cầu. Hay nói cách khác, C.Mác đã trừu tượng hố lĩnh vực lưu thơng
cùng các nhân tố khác có liên quan để xem xét sản xuất trong trạng thái
thuần tuý, bản chất của nó. Do đó chỉ khi nắm được bản chất của chúng,
C.Mác mới áp dụng phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, để tiếp tục
nghiên cứu các phạm trù và quy luật của chúng trong đời sống hiện thực vốn
có của nó. C.Mác thực hiện phương pháp và mục đích nghiên cứu của mình
trong quyển 3 bộ “Tư bản”. Khác với các nhà kinh tế học trước đó, C.Mác
tiếp cận cơ chế thị trường tự điều chỉnh từ lý luận giá trị và quy luật giá trị.
Ơng có xét đến cạnh tranh, quan hệ cung-cầu và quy luật cung-cầu, nhưng
không nhấn mạnh cung-cầu như A.SMít trước đây và kinh tế học ngày nay.
18
C.Mác coi yếu tố trung tâm quyết định nhất của cơ chế thị trường tự điều
chỉnh là giá cả thị trường, là tín hiệu của thị trường về nhu cầu xã hội.
Nhưng cái gì quyết định giá cả ? Có thể có nhiều nhân tố ảnh hưởng
đến giá cả như giá trị, cạnh tranh, quan hệ cung-cầu, sức mua của đồng tiền,
yếu tố tâm lý, tập quán và cuối cùng bao trùm lên tất cả là trình độ xã hội
hố sản xuất.
C.Mác đã coi giá trị, trình độ xã hội hoá sản xuất là nhân tố số một
quyết định giá cả, chứ khơng phải hồn tồn do cung-cầu, hoặc một nhân tố
nào khác, cung-cầu chỉ ảnh hưởng đến giá cả thị trường. C.Mác cho rằng :
Dù giá cả hàng hoá được điều tiết như thế nào thì quy luật giá trị cũng vẫn
chi phối sự vận động của chúng. Theo ơng, ai coi cung-cầu quyết định giá cả
hàng hố thì khi cung-cầu bằng nhau, giá cả hàng hoá do cái gì quyết định ?
Chắc chắn lúc đó là do giá trị quyết định. Họ nhầm tưởng rằng, giá cả hàng
hoá sẽ đứng im một chỗ khi cung bằng cầu. Khi đó giá cả thơi khơng vận
động nữa, đó là nhận thức sai lầm. C.Mác còn chỉ ra rằng : Giá cả có thể lên
cao ngay cả khi cung đáp ứng cầu vì giá trị có thể thay đổi. Điều đó càng
luận giải rõ là giá cả không do cung-cầu quyết định, mà nó chỉ ảnh hưởng
đến sự lên, xuống của giá cả thị trường xoay quanh trục giá trị hàng hố mà
thơi. Tất nhiên, giá trị hàng hố mà giá cả thị trường xoay quanh khơng cịn
là giá trị trừu tượng mà là giá cả sản xuất trong các làn sóng cạnh tranh và
quan hệ cung-cầu. C.Mác cho rằng, mặc dù giá cả thị trường tự điều tiết
theo cách nào đó vẫn có thể kết luận :
Một là, sự vận động của giá cả là do quy luật giá trị chi phối. Vì mỗi
khi số lao động cần cho sản xuất giảm hay tăng thì đều làm cho giá cả sản
xuất tăng hay giảm.
19
Hai là, sự vận hành của cơ chế thị trường thông qua sự tác động của
các nhân tố : cạnh tranh, cung-cầu, giá cả thị trường, trong đó giá cả thị
trường là nhân tố trung tâm.
Ba là, cơ chế thị trường tự điều chỉnh trong mơ hình kinh tế thị trường
tự do cạnh tranh được nhận dạng qua các đặc trưng :
- Mỗi hãng sản xuất kinh doanh chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ về hàng
hố mà mình sản xuất và lưu thông trên thị trường với tư cách là những
người bình đẳng.
- Các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường chưa bị biến dạng hay
chưa bị chi phối bởi các thế lực độc quyền, hoặc sự can thiệp của Nhà nước.
- Giá cả thị trường cao hay thấp là kết quả khách quan của quan hệ
cạnh tranh và cung-cầu.
- Các yếu tố gắn với “đầu vào” của sản xuất đều là hàng hoá trên thị
trường được tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác, địa phương
sang địa phương khác theo sự biến động của giá cả thị trường.
Phân tích về các yếu tố cấu thành, các quy luật tác động trên thị trường
và sự hình thành cơ chế thị trường là cơ sở quan trọng để tìm hiểu những
mặt tích cực cũng như những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Những khuyết tật của kinh tế thị trường và hậu quả tác động
của chúng đến đời sống kinh tế-xã hội
Các cơng trình nghiên cứu, dù tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, đều
thống nhất về vai trị tích cực của kinh tế thị trường đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội. Vai trị tích cực này được biểu hiện như sau :
- Kinh tế thị trường kích thích sự năng động sáng tạo của các chủ thể
kinh tế, nhờ đó sẽ huy động và khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của nền
kinh tế.
20
- Kinh tế thị trường thúc đẩy việc ứng dụng những thành tựu khoa học
-công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh nhằm phát triển nền kinh tế cả bề
rộng và chiều sâu.
- Kinh tế thị trường tạo nên sự mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và có khả
năng thích nghi cao hơn trước những thay đổi của điều kiện kinh tế. Do đó
nó giải quyết kịp thời và có hiệu quả những vấn đề cơ bản của nền kinh tế :
sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai ?
- Kinh tế thị trường góp phần thoả mãn nhu cầu về nhiều mặt, nhiều vẻ
khác nhau cho tiêu dùng và cho sản xuất.
Bên cạnh những tác động tích cực như đã nêu ở trên, kinh tế thị trường
chứa đựng trong lịng nó những khuyết tật.
Như đã phân tích, thị trường được cấu thành từ những yếu tố như :
hàng hoá, tiền tệ, cung-cầu và giá cả, người tiêu dùng và các nhà sản xuất…
Trong sự vận hành của nền kinh tế, các yếu tố của thị trường vận động và
tác động lẫn nhau, tạo nên những quy luật khách quan, trở thành lực lượng
chủ yếu điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hố, sự vận động đó chính là cơ
chế thị trường mà A.SMít gọi là “bàn tay vơ hình”. Kết quả của cơ chế điều
tiết đó là: một mặt tạo nên những động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế, mặt khác chính từ cơ chế đó làm xuất hiện những mặt hạn
chế, những khuyết tật trong nền kinh tế thị trường.
Biểu hiện rõ rệt của sự tác động giữa người tiêu dùng và các nhà sản
xuất trên thị trường chính là quan hệ cung-cầu, trong đó cung là khả năng sẽ
đưa ra thị trường một khối lượng hàng hoá của các nhà sản xuất, cầu là sự
thể hiện nhu cầu của xã hội, sức mua có khả năng thanh tốn của dân cư. Sự
tác động của cung và cầu bao giờ cũng hình thành nên một mức giá nhất
định, là giá cả thị trường cho một loại hàng hố nào đó. Xét trên bề mặt xã
21
hội, ln có sự vận động liên tục, khơng ngừng của quan hệ cung-cầu, làm
cho giá cả thị trường xoay xung quanh giá trị.
Sự vận động của giá cả thị trường xoay xung quanh trục giá trị chính là
biểu hiện cơ chế hoạt động của quy luật giá trị, là sự phản ánh diễn biến của
quan hệ cung-cầu và mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng với nhau. Yêu cầu
khách quan của sự phát triển kinh tế đòi hỏi cung bằng cầu và quy luật giá
trị yêu cầu phải trao đổi ngang giá. Rõ ràng rằng, khi yêu cầu cung bằng cầu
thì yêu cầu trao đổi ngang giá sẽ được thực hiện, lúc đó nhu cầu xã hội được
đáp ứng, hay nói cách khác là sản xuất đáp ứng nhu cầu xã hội (nhu cầu có
khả năng thanh tốn). Nhưng chỉ có thơng qua cạnh tranh và bằng cạnh
tranh thì quan hệ cung-cầu mới biểu hiện được yêu cầu của mình qua giá cả
và sự vận động của giá cả chính là kết quả tác động tổng hợp của cung, cầu
và cạnh tranh.
Xem xét sự vận động của cơ chế thị trường thơng qua việc phân tích
mối quan hệ của các yếu tố trên cho thấy : Chính giá cả là tín hiệu phản ánh
sự cân bằng và mất cân bằng của thị trường và chính giá cả cũng báo hiệu
khả năng tăng, giảm lợi nhuận của các chủ thể tham gia trên thị trường. Do
đó, trong chừng mực nhất định, giá cả quyết định việc sản xuất mặt hàng gì?
sản xuất như thế nào và tiêu thụ ở đâu để có lợi nhất ? Có thể nói, cơ chế
khách quan của thị trường được biểu hiện thông qua sự vận động của giá cả
đã đem đến cho các nhà sản xuất khả năng nhanh nhạy, mềm dẻo, đáp ứng
linh hoạt mọi nhu cầu đa dạng, phong phú của xã hội, mà chưa một cơ chế
chủ quan nào thay thế được, đó là mặt tích cực của kinh tế thị trường.
Nhưng mặt khác, theo sự dắt dẫn của giá cả, các chủ doanh nghiệp phải
cạnh tranh với nhau bằng mọi thủ đoạn nhằm thu được lợi nhuận tối đa hay
để tồn tại được trên thị trường.
22
Do đó đây cũng chính là cơ chế lọc bỏ, đào thải những yếu kém, kích
thích tiến bộ và phát triển; đồng thời cũng mang theo cả những nhân tố tự
phát, vơ chính phủ của các nhà sản xuất và những người hoạt động trên lĩnh
vực lưu thơng vì mục đích chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ của mình. Điều
này đã dẫn tới tình hình cung vượt quá cầu ở ngành này, cung không đáp
ứng đủ cầu ở ngành khác và nơi này thì thừa hàng hố, nơi kia hàng hố lại
khan hiếm. Nói cách khác, cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng không tương
quan với nhau, cơ cấu giữa các ngành, các vùng rơi vào tình trạng mất cân
đối, có ngành, vùng thì phát triển, có ngành, vùng thì ở trong tình trạng trì
trệ hoặc giảm sút, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân và nguồn lực phát
triển cho nền kinh tế.
Thực tế ở Hàn Quốc và Đài Loan trong những năm của thập kỷ 60, 70
đã cho thấy, do tập trung quá mức vào các ngành cơng nghiệp xuất khẩu để
có ngoại tệ, tạo nguồn tích luỹ đã làm cho nơng nghiệp ở các nước này sa
sút nghiêm trọng. Ở Hàn Quốc trong những năm 60 tốc độ tăng trưởng của
nông nghiệp đạt trên 1%/năm. Trong những năm 70 chỉ còn 0,82%/năm và
đến những năm 80 chỉ cịn 0,03%/năm. Ở Đài Loan tình trạng sản xuất nông
nghiệp cũng tương tự. Tốc độ tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp thập kỷ
60 đạt 4%/năm, thập niên 70 chỉ còn 1,01%/năm và thập niên 80 cịn
1,08%/năm, cả hai nước từ chỗ xuất khẩu nơng sản trở thành nước nhập
khẩu lớn [ 23, 119 - 120 ].
Như trên đã chỉ rõ, giá cả thị trường là tín hiệu cho biết lợi ích của các
chủ thể tham gia trên thị trường thì cạnh tranh là con đường để thực hiện lợi
ích của họ. Cạnh tranh chính là hình thức các nhà sản xuất và lưu thơng đấu
tranh với nhau để dành lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Xét theo
khía cạnh tích cực, thì đây là động cơ để các doanh nghiệp tìm kiếm các
biện pháp kinh tế mới, hiệu quả hơn nhằm giữ vững được vị trí trên thị
23
trường và tăng lợi nhuận, trên cơ sở tạo ra ưu thế về giá trị sử dụng, giá bán
và tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Nhưng cạnh tranh còn là thủ đoạn để các
doanh nghiệp thực hiện mục đích gạt bỏ lẫn nhau trên thị trường. Từ góc độ
này có thể khẳng định rằng, cạnh tranh trên thị trường là sự thơn tính lẫn
nhau, cá lớn nuốt cá bé, là sự loại bỏ lạnh lùng của kẻ mạnh đối với người
yếu. Bàn về vấn đề này, C.Mác có chỉ ra rằng : với lợi nhuận là mục đích
duy nhất đã làm cho mọi mối quan hệ trong đời sống xã hội đều khơng đi
ngồi “lợi ích trần trụi và lối tiền trao cháo múc khơng tình nghĩa” [ 10, 26 ].
Điều này đã giải thích vì sao trong nền kinh tế thị trường có người thì giàu
có, trở thành những tư bản kếch sù, cịn có người thì sản xuất thua lỗ, phá
sản và rơi vào con đường bần cùng. Chính thực tế nước Mỹ là ví dụ điển
hình cho sự phân hoá này ngày càng trở nên sâu sắc và một nghịch lý dễ
nhận thấy ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển là cùng với những
thành tựu kinh tế đạt được thì đối với người lao động, thời gian làm việc
ngày càng dài ra, cường độ lao động ngày càng tăng lên và thu nhập ngày
càng thấp đi, điều kiện làm việc lại thiếu an toàn hơn.
Theo “mệnh lệnh” của giá cả thị trường, trong nhiều trường hợp dẫn tới
sự chạy đua mù quáng, chỉ nhằm đạt được mục đích lợi ích trước mắt, cục
bộ chứ khơng cần biết lợi ích lâu dài, lợi ích cộng đồng, thậm chí cịn gây
tác hại cho xã hội như lãng phí tài ngun, tàn phá mơi sinh, mơi trường.
Điều này thể hiện khá rõ ở một số nước Đơng Á trong q trình đẩy nhanh
cơng nghiệp hố, tác động của cơ chế thị trường đã gây ra nạn ô nhiễm môi
trường trầm trọng với 3 biểu hiện nổi bật là diện tích rừng ngày càng bị thu
hẹp, nơng nghiệp bị nhiễm độc, môi trường đô thị ngày càng bị suy thoái.
Chẳng hạn vào cuối thập kỷ 50 rừng ở Hàn Quốc chiếm 70% diện tích tự
nhiên, đến thập niên 80 diện tích rừng chỉ cịn hơn 30%. Ở Đài Loan, mỗi
năm người nơng dân sử dụng trung bình 4kg thuốc trừ sâu/1 ha đất canh tác.
24
Điều đó có nghĩa là Đài Loan đã sử dụng 1% lượng thuốc trừ sâu của toàn
thế giới. Vào đầu thập kỷ 80 phân hoá học được sử dụng ở Hàn Quốc là
380kg cho mỗi ha đất canh tác trong một năm, gấp 6 lần so với Mỹ và gấp 3
lần mức sử dụng trung bình của thế giới. Việc lạm dụng quá mức thuốc trừ
sâu và phân hoá học trong sản xuất nông nghiệp ở Đài Loan và Hàn Quốc
làm cho đất canh tác bị axít hố, độ phì của đất bị suy giảm đã góp phần làm
cho nguồn nước bị ô nhiễm nặng, các loại nông sản bị nhiễm độc và đe doạ
trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Môi trường đô thị ở những nước này
ngày càng bị suy thoái là nguyên nhân gây ra những căn bệnh nghề nghiệp
nguy hiểm. Ở Hàn Quốc trung bình cứ 11 người cơng nhân thì có 2,66
người bị mắc bệnh nghề nghiệp. Tỷ lệ này quá cao so với 0,61 người ở Nhật
Bản hoặc 0,93 người ở Singapore [ 23, 148-149 ].
Trong mối quan hệ giữa cạnh tranh với giá cả, cạnh tranh góp phần làm
cho giá cả thị trường sát với giá trị hàng hố. Thơng qua cạnh tranh, giá cả
khơng chỉ là cơng cụ để hạch tốn, là cơ sở để mỗi chủ doanh nghiệp đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, mà cịn là đòn bẩy quan trọng để
phân phối tài nguyên, nguồn vốn, phân phối lại thu nhập, kích thích và điều
tiết các hoạt động kinh tế, từ đó tác động trở lại đối với quá trình sản xuất.
Song sự dắt dẫn tự phát của giá cả nhiều khi làm chuyển dịch tài nguyên,
nguồn vốn của đất nước, lại không hướng vào các mục tiêu phát triển, các
vấn đề chung của toàn xã hội như các mục tiêu phát triển về giáo dục, đào
tạo, y tế, văn hoá, xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng… Đây là những điều
kiện không thể thiếu cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
cũng như cho sự tồn tại và phát triển của bản thân các đơn vị kinh tế trong
các lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Sự xuống cấp và bất cập của các mặt văn
hoá-xã hội, giáo dục, đào tạo khoa học-công nghệ trước yêu cầu của cách
mạng khoa học công nghệ hiện nay ở những nước công nghiệp mới trong
25
khu vực (Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore đã chứng minh cho hạn chế của
khuyết tật này). Ở những nước này, mặc dù đã đầu tư phát triển những
ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao nhưng do thiếu một
chiến lược chuẩn bị cho thời kỳ sau công nghiệp hoá cho nên đội ngũ quản
lý, chuyên gia và cán bộ nghiên cứu, ứng dụng cũng như đội ngũ lao động tỏ
ra bất cập khi nền kinh tế bước sang giai đoạn phát triển mới.
Sự dẫn dắt của giá cả thực hiện qua cạnh tranh trong cơ chế thị trường
gắn với xu hướng phá sản của doanh nghiệp và kèm theo đó là đội quân thất
nghiệp theo các chu kỳ của sản xuất kinh doanh. Do đó, phá sản và thất
nghiệp từ trước đến nay luôn được coi là bạn đường của kinh tế thị trường
và hiện tượng này một mặt diễn ra sự bần cùng, phân hoá giàu-nghèo, mặt
khác diễn ra q trình tích tụ và tập trung sản xuất là cơ sở ra đời các hình
thức độc quyền. Trong nhiều trường hợp, khi độc quyền xuất hiện sẽ dẫn tới
phá vỡ các cân bằng của thị trường, làm biến dạng các quan hệ kinh tế dẫn
đến sản xuất bị đình đốn, khủng hoảng thừa hoặc thiếu. Như vậy, hậu quả
của cả 2 xu hướng do cạnh tranh tạo ra cũng vẫn đè lên đầu người dân lao
động với hiểm hoạ : thất nghiệp và bần cùng hoặc theo chu kỳ sản xuất hoặc
là vĩnh viễn.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, sự vận động của giá
cả không chỉ chịu ảnh hưởng của giá trị, quan hệ cung-cầu, cạnh tranh mà
còn chịu sự chi phối của khối lượng tiền cần thiết trong lưu thơng. Do đó,
khi khối lượng tiền tệ trong các kênh lưu thông vượt quá mức cầu của sản
xuất tiềm năng hoặc chi phí đẩy giá lên vượt quá khả năng khai thác, sử
dụng tài nguyên sẽ đưa đến lạm phát (lạm phát cầu kéo hoặc lạm phát chi
phí đẩy). Lạm phát cũng là khuyết tật của kinh tế thị trường, khi nền kinh tế
rơi vào tình trạng lạm phát, tiền tệ mất giá, giá cả tăng vọt, nhiều nhu cầu
thiết yếu khơng có khả năng thanh tốn, hàng hố thừa ế, sản xuất lâm vào
26
khủng hoảng, nhà máy, xí nghiệp đóng cửa, người lao động mất việc làm và
trở nên thất nghiệp. Có thể nói, lạm phát đi đơi với khủng hoảng là những
hiện tượng có quan hệ nhân quả và hậu quả của những hiện tượng đó là thất
nghiệp và bần cùng cho người lao động. Ví dụ : gần đây dã chứng minh rõ
điều đó là cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Đông Nam Á.
Cuộc khủng hoảng này đã làm thất nghiệp gia tăng, lương thực tế của
người lao động ở thành thị giảm đáng kể. Lạm phát gia tăng làm cho việc
phân phối thu nhập trở nên khó khăn, tồi tệ hơn và làm giảm hơn nữa tiền
lương thực tế của nhóm người có thu nhập thấp. Hậu quả tiếp theo của cuộc
khủng hoảng là tỷ lệ nghèo đói tăng lên. Vào những năm 1996, tỷ lệ người
nghèo của Inđônêxia chiếm 11,3% dân số cả nước (tức bằng 22,5 triệu
người). Cho tới cuối năm 1998, tỷ lệ người nghèo ở đây đã tăng lên tới
48,2% (tức là khoảng 94 triệu người) và vào cuối năm 1999 tỷ lệ này là
66,3% (tức là khoảng 130 triệu người).
Ở Thái Lan tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ năm 1998 là 11%
vào năm 2000 tăng lên 17%. Ở Malaixia tình hình nghèo khổ diễn ra ít
nghiêm trọng hơn nhưng cũng vẫn tăng lên từ 6,8% năm 1997 lên 8% năm
1998, trong đó khu vực nơng nghiệp chiếm 7,1% [ 1, 111-113 ].
Quá trình vận động và phát triển của kinh tế thị trường còn làm sống lại
và làm trầm trọng thêm các khuyết tật đã có từ thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa,
như những khuyết tật : nạn đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi và tình trạng
gian lận thương mại, trốn thuế, buôn lậu làm rối loạn thị trường, bóp nghẹt
các ngành sản xuất trong nước và làm cho nền kinh tế đất nước ngày càng
phụ thuộc sâu vào thị trường bên ngoài.
Như vậy sự vận động của kinh tế thị trường, sự tác động lẫn nhau giữa
các yếu tố cấu thành thị trường và những tàn dư của phương thức sản xuất
kinh doanh lạc hậu, cổ hủ đã đẻ ra những khuyết tật như đã trình bày ở trên.
27
Nhưng cơ sở sâu xa, gốc rễ của mọi khuyết tật như các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác-Lênin cũng đã chỉ rõ, suy cho cùng thì bản chất kinh tế-xã hội
của nền sản xuất là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh các khuyết tật của kinh
tế thị trường. Thực tế cho thấy, khi quan hệ sản xuất dựa trên nền tảng chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu thì sự bất bình đẳng trong thu nhập,
quan hệ bóc lột, làm th, tính chất cục bộ, bản vị, cá lớn nuốt cá bé, sự
phân hoá giàu nghèo tất yếu sẽ xuất hiện và ngược lại, quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì những hiện tượng trên sẽ dần
dần được khắc phục và tiến tới sẽ bị xố bỏ.
Tóm lại, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng
hoá, sản phẩm của sự phát triển nền sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị
trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, mua bán của các chủ thể cung
ứng cũng như các chủ thể tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ đều diễn ra trong
sự tác động tổng hợp của các yếu tố cấu thành thị trường và chịu sự chi phối
của các quy luật kinh tế khách quan nên một cơ chế vận hành của nền kinh
tế thị trường. Sự tác động của cơ chế thị trường đã tạo nên những mặt tích
cực và ưu điểm, đồng thời cũng tạo ra những khuyết tật, có thể khái quát
những khuyết tật chủ yếu sau đây :
- Sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường, trước hết là quy luật
giá trị đã dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội và xu hướng này
ngày càng tăng lên nếu khơng có biện pháp điều tiết của nhà nước.
- Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau giành ưu
thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá bằng mọi thủ đoạn. Tình trạng cá lớn
nuốt cá bé, chà đạp lên cả đạo lý, luật pháp các giá trị văn hố truyền thống
của dân tộc, bịn rút và làm cạn kiệt các nguồn lực phát triển của đất nước,
làm suy thối mơi trường.
28
- Cơ chế thị trường cũng làm xuất hiện những hiệu ứng ngoài thị
trường như các chủ thể sản xuất kinh doanh không muốn đầu tư vào những
ngành rất cần cho xã hội như cơ sở hạ tầng, an ninh-quốc phịng, cứu hộ,
cứu nạn… hoặc lợi ích của chủ thể này làm tổn hại không thể bù đắp đối với
chủ thể khác : ô nhiễm môi sinh, cạn kiệt tài nguyên, đe doạ công ăn việc
làm, thu nhập của các chủ thể khác…
- Với mục tiêu kinh tế là trên hết và xem nhẹ mục tiêu xã hội, văn hoá,
y tế… nên sự tác động của kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng phát triển
khơng đều giữa các ngành, các vùng, các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã
hội, đất nước rơi vào tình trạng : cơ cấu kinh tế-xã hội què quặt, lệ thuộc,
không tạo ra được những tiền đề và điều kiện cho đất nước phát triển tồn
diện.
- Kinh tế thị trường cịn là miếng đất làm phục hồi và phát triển các tệ
nạn xã hội xuất hiện từ các giai đoạn trước đó trong sự phát triển kinh tế-xã
hội như : đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi, tham nhũng, hối lộ, trốn thuế,
buôn lậu, gian lận thương mại…
- Sự điều tiết của kinh tế thị trường trong nhiều trường hợp có thể làm
tăng tình trạng thất nghiệp, lạm phát và khủng hoảng kinh tế.
1.2. Tác động của những khuyết tật kinh tế thị trường đến quốc
phòng-an ninh ở Việt Nam
1.2.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với củng cố
quốc phòng-an ninh ở Việt Nam
Phát triển kinh tế và quốc phòng-an ninh là những lĩnh vực hoạt động
khác nhau. Song phát triển kinh tế và quốc phịng-an ninh lại có mối quan
hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng,
chiến tranh và quốc phòng một mặt phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác, chúng
lại tác động trở lại đến phát triển kinh tế. Lịch sử cho thấy, ở cuối thế kỷ