Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Phát triển thương mại điện tử các doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.48 KB, 57 trang )

LUẬN VĂN:

Phát triển thương mại điện tử ở
các doanh nghiệp Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU

Năm 2006 đánh dấu sự hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng của Việt Nam.
Nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), bên cạnh đó Việt Nam cũng tổ chức thành công diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương (APEC) và mới đây ta lại vui mừng khi đón nhận tin Quốc hội Hoa
Kỳ đã thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam. Đây
chính là những phần thưởng lớn lao mà bạn bè quốc tế đã dành tặng cho chúng ta, đó
cũng là sự minh chứng đúng đắn cho vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa và hội nhập nền kinh tế thế giới do
Đảng ta khởi xướng và dẫn dắt, ta đã giành được thắng lợi toàn diện cả về kinh tế, xã hội,
đối ngoại, quốc phòng - an ninh.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với tự do hoá thương mại sẽ
được đẩy mạnh, đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng được
mở rộng. Song, bên cạnh đó, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm tăng sức ép
cạnh tranh, nhất là sức ép đối với một đất nước kém phát triển như đất nước ta. Sự cạnh
tranh diễn ra trong các ngành thương mại, dịch vụ, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư và công
nghệ ngày càng trở nên gay gắt.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao khả
năng cạnh tranh: đẩy nhanh tốc độ kinh doanh, giảm thiểu chi phí, khắc phục được các
trở ngại về không gian và thời gian… mà đây lại chính là những điểm mạnh của thương
mại điện tử. Như vậy có thể thấy, việc ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động của
các doanh nghiệp là một tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Ngày càng nhiều doanh nghiệp
nhận thấy thương mại điện tử là một phương thức giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh
tranh để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, việc ứng dụng thương mại điện tử ở mỗi doanh


nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào mức độ nhận thức, trình độ nhân lực, đặc điểm kinh
doanh, hạ tầng công nghệ của doanh nghiệp…


Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề “phát triển thương mại điện tử ở các
doanh nghiệp Việt Nam” em đã tham gia nghiên cứu vấn đề này với mục đích nhằm
nâng cao, bổ xung kiến thức, đồng thời mong muốn đóng góp một phần công sức vào sự
phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam.

Mục lục
Lời mở đầu ................................................................ Error! Bookmark not defined.

Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ............................ 5
1. Quan niệm về thương mại điện tử .................................................................... 5
2. Lợi ích của thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp ................................ 7
3. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử................................................... 11
3.1.

Môi trường pháp lý và chính sách ............................................................11

3.2.

Bối cảnh kinh tế - xã hội............................................................................12

3.3.

Hạ tầng cơ sở nguồn nhân lực ..................................................................12

3.4.


Hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ ..........................................................13

4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại điện tử của doanh nghiệp
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập ..................................................................... 14
4.1. Các nhân tố quốc tế .......................................................................................14
4.2. Các nhân tố trong nước ................................................................................16

Chương II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM .......................................................................... 21
1. Mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp cho việc ứng dụng và phát triển thương mại điện
tử ....................................................................................................................... 21
2. Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam ........ 24


3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt
Nam .................................................................................................................. 31
3.1.

Những thành tựu đạt được ........................................................................31

3.2.

Những tồn tại cần quan tâm giải quyết khi phát triển thương mại điện tử ở

các doanh nghiệp...................................................................................................34
Chương III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ Ở CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM............................................ 38
1. Quan điểm ..................................................................................................... 38
2. Mục tiêu ........................................................................................................ 40
3. Giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam42

Kết Luận .............................................................................................................. 54
Tài liệu tham khảo .............................................................................................. 57


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1. Quan niệm về thương mại điện tử

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về “thương mại điện tử” nhưng tựu trung
lại có hai quan điểm lớn trên thế giới xin được nêu ra dưới đây:
Thương mại điện tử (TMĐT) theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về
Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế
(UNCITRAL): Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát
các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp
đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao
dịch nào về thương mại về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận
phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây
dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm;
thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công
nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường
không, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại
điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa
và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử.
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về Thương mại điện tử như sau: Thương mại
điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử.
Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn bản (text), âm thanh và
hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng hóa
và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng,
chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp

tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng


và các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại
hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ
(ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền
thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục ) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).
Tóm lại, theo nghĩa rộng thì thương mại điện tử có thể được hiểu là các giao dịch
tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử; chuyển
tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được thực
hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ
chức Hợp tác phát triển kinh tế đưa ra các khái niệm về thương mại điện tử theo hướng
này. Thương mại điện tử được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại
các trang Web trên Internet với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói
rằng Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua
sắm của con người.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới: Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất,
quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng
Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận
cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet.
Khái niệm về Thương mại điện tử do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên
Hợp quốc đưa ra là: Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương
mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng theo nghĩa hẹp Thương
mại điện tử chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng
Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex...
Qua nghiên cứu các khái niệm về Thương mại điện tử như trên, hiểu theo nghĩa
rộng thì hoạt động thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên
lạc đã tồn tại hàng chục năm nay và đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Theo nghĩa

hẹp thì Thương mại điện tử chỉ mới tồn tại được vài năm nay nhưng đã đạt được những


kết quả rất đáng quan tâm, Thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại được
tiến hàng trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động thương
mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử.

2. Lợi ích của thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp
Thương mại điện tử đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng nhân rộng trên phạm
vi thế giới. Cho dù các nguồn nghiên cứu khác nhau đưa ra những con số chênh lệch khá
lớn về ước tính về giá trị thương mại điện tử toàn cầu, những con số này vẫn cho thấy
một tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức 60-70%.
Thương mại điện tử không chỉ giải quyết những yêu cầu cấp thiết, cấp bách trên
các lĩnh vực như hệ thống giao dịch hàng hoá, điện tử hoá tiền tệ và phương án an toàn
thông tin..., mà hoạt động thực tế của nó còn tạo ra những hiệu quả và lợi ích mà mô hình
phát triển của thương mại truyền thống không thể nào sánh kịp.
Thương mại điện tử trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu là mọi vấn đề
nảy sinh từ các mối quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm: việc cung cấp hoặc trao
đổi hàng hoá - dịch vụ, thoả thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, uỷ thác
hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng công trình, tư vấn, hợp tác về công nghiệp, về
chuyên chở bằng đường biển, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, áp dụng phương thức
thương mại điện tử có khả năng giải quyết được mọi vấn đề có liên quan đến thương mại
mà để thực hiện nó cần có sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông.
Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử nhằm mang tới những đột
phá lớn về hiệu quả và tăng khả năng hội nhập của doanh nghiệp trên cả thị trường trong
và ngoài nước.
Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử sẽ giảm bớt các rào cản đối
với việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, giúp cho các doanh nghiệp có khả năng
tiếp nhận các dịch vụ này một cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Nó cũng sẽ giúp cho các
quốc gia, các doanh nghiệp ( nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ) có thể kết nối, giao dịch



với các đối tác trên phạm vi toàn cầu và chủ động với hoạt động hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế. Thông qua phương thức kinh doanh thương mại điện tử, các doanh nghiệp có
thể quảng cáo trực tuyến tới khách hàng tiềm năng ở khắp mọi nơi trên thế giới trong khi
nếu sử dụng các phương tiện quảng cáo truyền thống thì họ không thể tiến hành được.
Thực hiện phương thức kinh doanh thương mại điện tử tức là tạo được sự kết nối
và mối quan hệ chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong việc
mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Chính vì vậy, áp dụng phương thức kinh doanh
thương mại điện tử có tầm quan trọng đặc biệt và khác hẳn so với việc áp dụng các
phương thức kinh doanh khác trên thị trường. Cụ thể là:


Ứng dụng và phát triển thương mại điện tử sẽ giúp các quốc gia nhanh chóng trở

thành một nước công nghiệp hiện đại, tạo ra diện mạo mới, làm thay đổi mọi mặt đời
sống kinh tế - xã hội của quốc gia. Trên thực tế, áp dụng phương thức kinh doanh thương
mại điện tử không chỉ là một cuộc cải cách các phương thức kinh doanh mà thực chất là
một cuộc đổi mới về cơ cấu và phương thức vận động của nền kinh tế. Đây là phương
thức kinh doanh mà mọi hoạt động có liên quan đến thương mại đều được đưa lên mạng,
mở rộng cơ hội mua bán hàng hoá và dịch vụ, hạ thấp chi phí, nâng cao hiệu quả giao
dịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của các quốc gia cũng như của doanh nghiệp trên thị
trường toàn cầu.


Theo phương thức kinh doanh thương mại điện tử, khoảng cách giữa người bán

với người mua, giữa người sản xuất với người tiêu dùng được thu hẹp rất nhiều. Người
sản xuất, người bán hàng có thể giới thiệu hàng hoá của mình trên mạng, người mua có
thể nhìn thấy sản phẩm, biết được đặc tính của sản phẩm.



Với phương thức kinh doanh bán hàng này, người sản xuất và người bán hàng

cùng có lợi. Người sản xuất không cần kho chứa hàng, người bán hàng không cần có cửa
hàng và hàng hoá được quản lý một cách có hiệu quả hơn. Đây là xu thế phát triển dễ
hiểu của thương mại quốc tế vì khi hoạt động thương mại quốc tế diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, sôi động và với cường độ ngày càng lớn thì đòi hỏi người ta phải tiết kiệm thời


gian cũng như chi phí. Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã làm giảm đáng
kể chi phí lao động của toàn xã hội


Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử giúp doanh nghiệp nắm

được các thông tin thị trường một cách đầy đủ, phong phú và từ đó có thể xây dựng được
cho mình một chiến lược sản xuất – kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của thị
trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Điều này có tầm quan trọng
đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một lực lượng có vai trò như động lực phát
triển chủ yếu của nền kinh tế.


Kinh doanh theo phương thức thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp giảm

được chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ, có
diện tích nhỏ, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu giảm đi rất nhiều so với giao dịch
trực tiếp. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều
công đoạn sự vụ và họ có thể tập trung vào hoạt động nghiên cứu phát triển nhằm đưa
đến lợi ích to lớn và lâu dài cho doanh nghiệp và cho toàn xã hội.



Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp có

thể giảm chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng các phương tiện hiện đại
(Internet/Web), một nhân viên bán hàng có thể cùng một lúc giao dịch được với nhiều
khách hàng, một trang Web của doanh nghiệp có thể giới thiệu đến nhiều khách hàng
nhiều thông tin về doanh nghiệp, nhiều thông tin về các sản phẩm của doanh nghiệp làm
phong phú thêm điều kiện lựa chọn của khách hàng.


Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử (qua Internet/Web), giúp

cho doanh nghiệp và người tiêu dùng giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch vì thời
gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng 0,05% thời
gian giao dịch qua bưu điện; chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10 – 20% so
với chi phí thanh toán bằng các phương tiện thông thường khác. Việc giảm thời gian và
chi phí giao dịch là hai yếu tố cơ bản làm cho hàng hoá, dịch vụ nhanh chóng tiếp cận
người tiêu dùng mà không phải qua trung gian. Đây là vấn đề hết sức quan trọng để nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ khi đưa ra thị trường.




Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông, việc áp dụng phương

thức kinh doanh thương mại điện tử sẽ làm tăng thêm khả năng cạnh tranh cho doanh
nghiệp. Internet có xu thế tạo lợi nhuận cho cả công ty lớn và công ty nhỏ, kể cả các
doanh nghiệp tư nhân và cá nhân người sản xuất. Vì đây là sân chơi bình đẳng nên các
doanh nghiệp dù nhỏ nhưng thông qua Website của mình họ cũng có thể đạt được một

doanh thu lớn mà điều này là khó có thể có trong việc áp dụng các phương thức kinh
doanh truyền thống. Mặt khác, khi áp dụng phương thức thương mại điện tử, doanh
nghiệp có thể đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và cung cấp các dịch vụ tư vấn cũng
như các thông tin cần thiết cho khách hàng một cách nhanh chóng nhất.


Áp dụng phương thức thương mại điện tử sẽ tạo điều kiện cho việc thiết lập và

củng cố quan hệ giữa các đối tác tham gia vào quá trình thương mại. Thông qua mạng,
các doanh nghiệp có thể giao dịch trực tiếp và liên tục với nhau, hàng hoá có thể được
cung cấp đến người tiêu dùng cuối cùng mà không phải qua các khâu trung gian. Mặt
khác, thông qua Internet, các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới dễ dàng được
phát hiện nhanh chóng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn được mở rộng trên
phạm vi toàn cầu.


Áp dụng phương thức kinh doanh thương mại điện tử sẽ giúp cho các doanh

nghiệp sớm tiếp cận với kinh tế số hoá, tạo cho các nước đang phát triển một bước tiến
nhảy vọt để theo kịp các nước khác trong thời gian ngắn nhất. Trong điều kiện hội nhập
WTO của nước ta hiện nay, việc thiếu các phương tiện kỹ thuật đủ mạnh và lực lượng
cán bộ đủ năng lực đang là khó khăn lớn để các doanh nghiệp thực hiện hiệu quả phương
thức kinh doanh thương mại hiện đại này.
Tóm lại, đối với các doanh nghiệp, lợi ích lớn nhất mà thương mại điện tử mang
lại cho họ chính là sự tiết kiệm chi phí và sự thuận lợi của các bên khi tham gia giao dịch.
Giao dịch bằng phương tiện điện tử nhanh hơn so với giao dịch truyền thống, ví dụ: gửi
fax hay thư điện tử thì nội dung thông tin đến tay người nhận nhanh hơn là gửi thư theo
đường bưu điện. Các giao dịch qua Internet có chi phí rất rẻ, một doanh nghiệp có thể gửi
thư tiếp thị, chào hàng đến hàng loạt các khách hàng với mức chi phí bỏ ra chỉ bằng chi



phí đối với một khách hàng. Với thương mại điện tử, các bên có thể tiến hành giao dịch
khi ở cách xa nhau, giữa thành phố với nông thôn, từ nước này sang nước kia, hay nói
cách khác là không bị giới hạn bởi không gian địa lý. Điều này cho phép các doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, chi phí tiếp thị, chi phí bán hàng và chi phí giao dịch.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, liên lạc với đối tác và
khách hàng ở bất kỳ đâu với chi phí thấp hơn so với phương thức tiếp cận thị trường
truyền thống. Những lợi ích này chỉ có được với những doanh nghiệp thực sự nhận thức
được giá trị của thương mại điện tử.

3. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử
3.1.

Môi trường pháp lý và chính sách
Thương mại điện tử là một loại hình hoạt động xã hội mới, gắn liền với hạ tầng

công nghệ, do vậy phải có một khung pháp lý điều chỉnh thích hợp. Tuy nhiên, việc ban
hành đầy đủ các văn bản pháp lý trong lĩnh vực này là công việc không hề đơn giản, đòi
hỏi sự nghiên cứu và quan sát từ chính quá trình tham gia thương mại điện tử.
Cơ sở pháp lý của thương mại điện tử bao gồm hàng loạt các vấn đề như các đạo
luật và chính sách về thương mại điện tử. Để thương mại điện tử phát triển, hệ thống
pháp luật của quốc gia phải từng bước hoàn chỉnh để bảo đảm tính pháp lý của các giao
dịch thương mại điện tử, của hợp đồng và các chứng từ điện tử. Hạ tầng cơ sở pháp lý
của thương mại điện tử còn góp phần đảm bảo tính pháp lý của sở hữu trí tuệ và chuyển
giao công nghệ, bảo đảm các bí mật cá nhân của người tham gia giao dịch thương mại
điện tử. Hạ tầng cơ sở pháp lý của thương mại điện tử cũng bao gồm các vấn đề xử lý các
hành vi phá hoại, những hành vi cản trở hoặc gây thiệt hại cho hoạt động thương mại
điện tử ở phạm vi quốc gia và quốc tế.



3.2.

Bối cảnh kinh tế - xã hội
Hạ tầng cơ sở của thương mại điện tử là một tổng hoà nhiều vấn đề có liên quan

đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, trong đó hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội có
vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phát triển của thương mại điện tử. Hạ tầng kinh tế - xã
hội của thương mại điện tử có thể hiểu là toàn bộ các nhân tố, các điều kiện cơ bản về
kinh tế - xã hội nhằm tạo ra môi trường cho sự hình thành và phát triển của thương mại
điện tử.
Quá trình thực hiện hoạt động thương mại điện tử trước hết là quá trình con người
sử dụng hệ thống các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế để thực hiện các hành vi
thương mại. Đối với thương mại điện tử, một khi các hạ tầng cơ sở kinh tế chưa có hoặc
không đầy đủ thì không thể thực hiện được các nội dung của thương mại điện tử. Để
thương mại điện tử thực sự đi vào đời sống cần phải có sự nhận thức sâu sắc của chính
phủ, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược và toàn xã hội về cơ hội phát triển
và những lợi ích mà nó mang lại. Chính phủ phải nhận thức được cơ hội và lợi ích của
thương mại điện tử để thiết lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp lý cho thương mại
điện tử. Các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược nhận thức được cơ hội và lợi ích
của thương mại điện tử để vạch chiến lược phát triển và đề ra giải pháp thích hợp. Từ
chiến lược và giải pháp đó mà có kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, có chính
sách phát triển. Toàn xã hội nhận thức được cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử để
tham gia vào hoạt động thương mại điện tử với tư cách là những chủ thể của quá trình.
3.3.

Hạ tầng cơ sở nguồn nhân lực
Để có thể phát triển được thương mại điện tử cũng cần phải có nguồn nhân lực có

trình độ tương ứng. Con người cấu thành cơ sở nhân lực của thương mại điện tử trước hết
là đội ngũ các chuyên gia tin học, thường xuyên cập nhật những kiến thức của công nghệ

thông tin và có khả năng đưa vào ứng dụng trong môi trường và điều kiện kinh doanh cụ
thể. Đội ngũ các chuyên gia công nghệ thông tin và kỹ thuật máy tính sẽ tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật cho thương mại điện tử. Đồng thời với các chuyên gia công nghệ thông tin
và kỹ thuật máy tính, các nhà kinh doanh, những người quản lý, các chuyên viên và các


khách hàng tiêu thụ cũng phải có trình độ nhất định về công nghệ thông tin, về ngoại ngữ
và kỹ năng giao dịch trên mạng thì mới có khả năng tham gia thương mại điện tử. Một
đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới,
phát triển để phục vụ cho kinh tế số hóa nói chung và TMĐT nói riêng, cũng như có khả
năng thiết kế các chương trình phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền
kinh tế số hóa, tránh bị động, lệ thuộc hoàn toàn vào nước khác. Vì vậy, TMĐT sẽ dẫn
tới sự thay đổi căn bản cả hệ thống giáo dục và đào tạo.
3.4.

Hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ
Thương mại điện tử là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá và công

nghệ thông tin mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì vậy, thương mại điện tử thực
sự có vai trò và hiệu quả đích thực khi đã có một hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ
thông tin vững chắc. Hạ tầng cơ sở kỹ thuật - công nghệ ấy bao gồm các chuẩn của doanh
nghiệp, của cả nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, kỹ thuật ứng
dụng và thiết bị ứng dụng và không chỉ của riêng từng doanh nghiệp mà phải là một hệ
thống quốc gia với tư cách như một phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin khu vực và
toàn cầu (trên nền tảng của Internet hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm cả các phân
mạng, hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu), hệ thống ấy phải tới được từng cá nhân
trong hệ thống thương mại (cho tới từng cá nhân người tiêu dùng). Cùng với đó, hạ tầng
cơ sở công nghệ của thương mại điện tử còn phải bảo đảm tính kinh tế, nghĩa là chi phí
của hệ thống thiết bị kỹ thuật và chi phí dịch vụ truyền thông phải ở mức hợp lý để bảo
đảm cho các tổ chức và cá nhân đều có khả năng chi trả và bảo đảm giá cả của các hàng

hoá dịch vụ thực hiện thông qua thương mại điện tử không cao hơn so với thương mại
truyền thống.


4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại điện tử của doanh
nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Phát triển thương mại nói chung là hoạt động hết sức quan trọng để giúp các quốc
gia có điều kiện để phát triển sản xuất xã hội và tăng cường khả năng hợp tác với nước
ngoài. Từ nhiều năm nay, Đảng ta đã chủ trương phát triển thương mại trong nước cũng
như thương mại với nước ngoài để tạo tiền đề cho hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện chủ trương trên, Chính phủ đã tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp
có thể ứng dụng hiệu quả các phương thức kinh doanh thương mại, đặc biệt là phương
thức kinh doanh TMĐT. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các phương
thức kinh doanh thương mại nói chung và TMĐT nói riêng trong điều kiện quốc tế và
trong nước diễn biến phức tạp, thuận lợi và thách thức đan xen.
4.1. Các nhân tố quốc tế
Trong điều kiện thế giới đang có những thay đổi rất lớn về kinh tế, chính trị và
khoa học công nghệ, việc nghiên cứu, lựa chọn và áp dụng phương thức kinh doanh
thương mại điện tử sẽ phải chịu ảnh hưởng của những nhân tố sau:

a/ Toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới đang trở thành xu thế tất yếu
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế khu vực và quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ
hơn bao giờ hết. Toàn cầu hóa thực chất là một quá trình quốc tế hóa kinh tế đã phát triển
đến quy mô toàn cầu và bao gồm trong nó hai quá trình phát triển song song là tự do hóa
kinh tế và hội nhập quốc tế. Đặc trưng chủ yếu của toàn cầu hóa là:
Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xóa bỏ theo các cam kết
đa phương.
Các công ty của các quốc gia có quyền kinh doanh tự do ở mọi thị trường, trên các lĩnh
vực được cam kết, không có phân biệt đối xử. Theo tính toán của Ngân hàng thế giới
(WB), việc tăng hiệu quả từ tự do hóa thương mại sẽ làm tăng sản lượng toàn cầu khoảng

305 tỷ USD/năm trong thập kỷ tới. Việc thực hiện tự do hóa thương mại sẽ tạo tiền đề
cho một nền thương mại tự do có tính chất toàn cầu.


Xu thế chung này đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm nghiên cứu, ứng dụng và phát
triển TMĐT để có thể cạnh tranh và thâm nhập một cách hiệu quả vào thị trường tự do có
tính chất toàn cầu.

b/ Thị trường khu vực phát triển mạnh, tạo tiền đề cho thương mại tự do toàn cầu
Trong những năm gần đây, khu vực hóa kinh tế - thương mại đã trở thành trào lưu chung
ở khắp các châu lục. Nhiều khu vực mậu dịch tự do được hình thành (AFTA, NAFA,
ACFTA, APEC) đã tạo cho hoạt động thương mại của các quốc gia trong khu vực được
tiến hành một cách tự do. Việc thực hiện tự do hóa thương mại khu vực đang trở thành
tiền đề quan trọng cho việc hình thành một thị trường tự do toàn cầu.
Thông qua việc thực hiện khu vực mậu dịch tự do sẽ giúp cho các doanh nghiệp ở các
nước có thêm sức mạnh, có thêm điều kiện thuận lợi để vươn ra thị trường thế giới. Mặt
khác, liên kết khu vực sẽ giúp cho các doanh nghiệp ở các nước thành viên có thể liên kết
với nhau để cạnh tranh với các đối tác là các công ty, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế
giới.
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm và ứng dụng phát triển
TMĐT nhằm chiếm lĩnh thị trường trong khu vực, từ đó vươn ra thị trường các nước
khác.

c/ Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ
Trải qua nhiều thập kỷ, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển. Đến cuối thế kỷ 20,
đầu thế kỷ 21, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã có những bước đột
phá mạnh.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã có ảnh hưởng lớn đến việc định hình phương
thức tiến hành hoạt động thương mại (đặc biệt là TMĐT), cách tổ chức kinh doanh và các
bước của tiến trình sản xuất. Việc sử dụng Internet và các ứng dụng của nó sẽ làm biến

đổi phương thức kinh doanh, làm thay đổi cách thức đàm phán, ký kết hợp đồng và kiểm
tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của các bên tham gia. Trong công nghệ thông tin,
công nghệ truyền thông và kinh doanh trên mạng Internet (E-business) sẽ làm biến đổi


cách thức, tập quán kinh doanh của doanh nghiệp. Trên thực tế, chính các hoạt động
thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử. Các
khái niệm về tập đoàn lớn hay công ty nhỏ sẽ có những thay đổi bởi người ta không còn
đánh giá quy mô công ty qua số lượng công nhân, số chi nhánh, mà chủ yếu dựa vào kết
quả kinh doanh. Trong tương lai, khi TMĐT được các doanh nghiệp ứng dụng và phát
triển rộng rãi thì việc thiết lập các văn phòng tại các trung tâm thương mại lớn sẽ giảm và
các văn phòng ảo trên Internet sẽ trở thành xu hướng nổi trội.

d/ Thế giới đang tiến tới một nền kinh tế tri thức, nền kinh tế số
Đây là nền kinh tế mà theo đó hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ đạt mức cao. Điều này là một tiền đề quan trọng cho việc ứng dụng và phát triển
phương thức kinh doanh TMĐT ở mỗi doanh nghiệp. Như vậy, bối cảnh quốc tế đang có
nhiều nhân tố thuận lợi cho việc ứng dụng và phát triển TMĐT nhưng cũng đặt ra cho
các doanh nghiệp Việt Nam những thách thức không nhỏ. Việt Nam là nước đang phát
triển, năng suất lao động chưa cao, lợi thế so sánh là sức lao động và tài nguyên thiên
nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đang ở trình độ thấp. Để đáp ứng được những đòi
hỏi về việc ứng dụng và phát triển TMĐT, Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cần
một sự nỗ lực lớn thì mới có thể ứng dụng và phát triển thành công phương thức kinh
doanh này.

4.2. Các nhân tố trong nước
Tiếp theo sự phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định của giai đoạn 5 năm 20012005, kinh tế Việt Nam năm 2006 tiếp tục tăng trưởng cao với tốc độ tăng GDP ước đạt
8,17%. Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối nhanh và bền vững đã tạo tiền đề quan trọng
để thực hiện các mục tiêu khác, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, chống lạm
phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, giảm tỷ lệ đói nghèo trên phạm vi toàn bộ

nền kinh tế. Nhìn một cách tổng thể, các nhân tố trong nước có ảnh hưởng đến việc các
doanh nghiệp ứng dụng và phát triển TMĐT bao gồm:


a/ Thị trường trong nước rất sôi động, lưu thông hàng hóa thông suốt và tăng
trưởng (kể cả trên địa bàn nông thôn)
Những năm gần đây, các doanh nghiệp đã sử dụng nhiều phương thức kinh doanh
để thực hiện hoạt động lưu thông trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp đã ý thức được
tầm quan trọng của phương thức kinh doanh TMĐT và đã từng bước áp dụng phương
thức này vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, chính sự thay đổi này đã đưa khối
lượng và giá trị hàng hóa lưu thông trên thị trường nội địa ngày một tăng.
Nhìn chung, Việt Nam đã hình thành một thị trường nội địa thống nhất, thông
thoáng với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế trong cả
nước.
Hoạt động thương mại phát triển sôi động, khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thông
tăng liên tục qua các năm, mặt hàng trao đổi phong phú và phù hợp với từng khu vực thị
trường nhằm phục vụ yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của người dân.
Phương thức kinh doanh trên thị trường nội địa ngày một đa dạng, mạng lưới kinh
doanh được mở rộng trên địa bàn đô thị, nông thôn và miền núi. Nhiều phương thức kinh
doanh được tiến hành một cách linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thị trường trong bối
cảnh nước ta hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu sắc.
Mối liên kết giữa sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đã có những bước
đột phá, nhiều doanh nghiệp trong nước đã quan tâm đến việc mở rộng thị trường nội địa
thông qua việc áp dụng các phương thức kinh doanh hiện đại như TMĐT.
Trật tự kỷ cương trên thị trường được khôi phục dần, nạn buôn lậu, gian lận
thương mại, kinh doanh trái phép bước đầu đã được kiềm chế

b/ Xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao trong GDP, thị trường được mở rộng trên toàn thế
giới
Từ năm 2000 đến nay, xuất khẩu của Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng

trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước. Năm 2000, tổng kim ngạch
xuất khẩu mới chỉ đạt 14,483 triệu USD, nhưng đến năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu
đã lên tới 39,605 triệu USD. Điều này cho thấy sự đóng góp rất quan trọng của hoạt động


xuất khẩu vào tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế và nó cũng là bằng chứng
chứng minh rằng các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng hiệu quả các phương thức kinh
doanh thương mại nói chung và phương thức kinh doanh TMĐT nói riêng để thực hiện
hoạt động kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài.

c/ Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế mà thương
mại là ngành đi đầu
Thực hiện cam kết AFTA, Việt Nam bắt đầu dỡ bỏ hàng rào thuế quan trong bối
cảnh nội lực kinh tế chưa phải là mạnh, đặc biệt năng lực cạnh tranh của hàng hóa và
doanh nghiệp Việt Nam đang ở mức thấp.
Việt Nam đang là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC). Tham gia APEC, Việt Nam đang phấn đấu thực hiện tự do hóa thương
mại trong khu vực không chậm hơn năm 2020. Đây là thách thức rất lớn đối với Chính
phủ và doanh nghiệp Việt Nam vì thời gian thực hiện tự do hóa thương mại đang đến gần
trong khi đó năng lực cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và
kém xa so với năng lực cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp ở các nền kinh tế hùng
mạnh trên thế giới như: Mỹ, Nhật, EU, Canada…
Việt Nam đang cùng các thành viên khác của ASEAN thực hiện Hiệp định khung
về phát triển kinh tế toàn diện giữa các nước ASEAN và Trung Quốc mà trọng tâm của
Hiệp định là việc xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA).
Với vai trò là cầu nối giữa thị trường Trung Quốc rộng lớn với thị trường ASEAN giàu
tiềm năng, việc phát triển hoạt động thương mại nói chung, việc lựa chọn áp dụng
phương thức kinh doanh thích hợp như TMĐT trong bối cảnh đó sẽ là những nhân tố
quan trọng giúp cho Việt Nam thực hiện tốt các quy định của ACFTA, phát triển thương
mại hàng hóa và dịch vụ, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước ASEAN, đẩy mạnh

phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc bằng nhiều phương thức kinh doanh
khác nhau từ phương thức hàng đổi hàng đến chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, và cả bằng
phương thức kinh doanh hiện đại như TMĐT.


Năm 2006, Việt Nam đã gia nhập WTO, tổ chức thương mại mang tính toàn cầu.
Tuy nhiên, trở thành thành viên của WTO, Việt Nam gặp những thuận lợi to lớn trong
việc hội nhập vào kinh tế thế giới, nhưng thách thức của quá trình này cũng là không nhỏ.
Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực hết sức trong việc nâng cao năng
lực cạnh của hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp đưa ra thị trường, lựa chọn phương
thức kinh doanh tối ưu nhất. Trong bối cảnh đó, TMĐT là lựa chọn số một cho các doanh
nghiệp. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất, tránh
những rủi ro đáng tiếc do không am hiểu luật thương mại quốc tế và các quy định của
WTO, không am hiểu phong tục tập quán và những quy định riêng của các quốc gia đối
với từng mặt hàng cụ thể.
Nhìn chung, các nhân tố trong nước và quốc tế đã và đang tạo cho các doanh
nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi để lựa chọn và áp dụng phương thức kinh doanh
hiện đại như TMĐT. Tuy nhiên, các thách thức đặt ra cho việc lựa chọn và áp dụng
phương thức kinh doanh TMĐT đối với các doanh nghiệp Việt Nam cũng là rất lớn. Lý
do chủ yếu là do cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện phương thức kinh doanh TMĐT vừa
yếu, vừa thiếu, trình độ khoa học công nghệ ở Việt Nam chưa đủ ở mức cao, trình độ và
năng lực của đội ngũ cán bộ còn yếu. Bên cạnh đó, còn nhiều vấn đề cản trở sự phát triển
TMĐT còn tồn tại: việc rà soát các văn bản pháp luật liên quan tới TMĐT chưa được tiến
hành. Một số quy định bất hợp lý cho TMĐT đã được doanh nghiệp nhắc tới từ những
năm trước vẫn chưa được khắc phục. Những quy định về cấp phép thành lập website hay
mua bán tên miền chưa phù hợp với thực tiễn. Cùng với tiến bộ công nghệ, sự phát triển
phong phú, đa dạng của TMĐT. Sự bùng nổ của trò chơi trực tuyến dẫn đến nhu cầu xác
định tính hợp pháp của tài sản ảo, các vụ tranh chấp về tên miền cho thấy cần có tư duy
quản lý thích hợp với loại tài nguyên đặc biệt này, việc gửi thư điện tử quảng cáo thương
mại với số lượng lớn đòi hỏi phải có biện pháp bảo vệ người tiêu dùng. Vấn đề an toàn,

an ninh mạng, tội phạm liên quan đến TMĐT cũng là một vấn đề đáng chú ý. Hàng loạt
những hành vi lợi dụng công nghệ để phạm tội tăng lên, điển hình là những vụ tấn công
các website thương mại điện tử www.vietco.com, www.chodientu.com. Bên cạnh đó,
tình trạng đột nhập tài khoản, trộm thông tin thẻ thanh toán cũng gây ảnh hưởng không


nhỏ đến các hoạt động TMĐT lành mạnh. Trong thời gian gần đây, hoạt động phổ biến
tuyên truyền và đào tạo về thương mại điện tử đã có chuyển biến mạnh nhưng chưa đáp
ứng nhu cầu xã hội. Hoạt động nghiên cứu về thương mại điện tử hầu như chưa được
triển khai.
Để khắc phục được những yếu kém trên, cần có sự nỗ lực của các ban ngành
Chính phủ, của hệ thống doanh nghiệp trong cả nước trong việc đổi mới khoa học công
nghệ, đổi mới tư duy kinh doanh và đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt
động kinh doanh.
Năm 2005 là năm cuối cùng của giai đoạn thương mại điện tử hình thành và được
pháp luật chính thức thừa nhận tại Việt Nam. Trong năm 2006, thương mại điện tử ở Việt
Nam đã bước sang giai đoạn mới và phát triển trên tất cả mọi khía cạnh từ chính sách,
luật pháp, giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp và người tiêu dùng cũng như sự hỗ trợ
đa dạng của các cơ quan nhà nước. Điều này hứa hẹn trong những năm tới, thương mại
điện tử ở Việt Nam có thể có những bước tiến nhảy vọt, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế thương mại chung của cả nước.


Chương II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM

1. Mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp cho việc ứng dụng và phát triển thương mại
điện tử
Tình hình đầu tư cho mua sắm máy tính tại các doanh nghiệp rất khả quan. Trong

khi một số lượng khá lớn các doanh nghiệp tham gia chương trình khảo sát của Bộ
Thương mại về TMĐT năm 2006 đều có quy mô vừa và nhỏ thì số lượng máy tính được
các doanh nghiệp đầu tư mua sắm rất đáng quan tâm.
Theo số liệu điều tra mới đây của Bộ Thương mại cho thấy chỉ có 0,1% doanh
nghiệp là chưa có máy tính, do đó chúng ta có thể coi như hầu hết các doanh nghiệp đã
có ít nhất một máy tính. Tính chung các ngành, tỷ lệ máy tính trên nhân viên trung bình
của doanh nghiệp là 6,5 người/1 máy tính, tỷ lệ máy tính trung bình của mỗi doanh
nghiệp là 17,66 máy tính. Một điều kiện khá thuận lợi cho phát triển TMĐT ở các doanh
nghiệp hiện nay.
Năm 2006, doanh nghiệp đã chú ý hơn tới đào tạo nguồn nhân lực cho thương mại
điện tử. Cùng với sự phát triển của hình thức đào tạo chính quy ở các trường đại học, các
khóa học thương mại điện tử do các trung tâm, doanh nghiệp và tổ chức đào tạo cung cấp
cũng tăng mạnh, thu hút đông đảo học viên từ nhiều doanh nghiệp.
Trong 3 phương thức đào tạo phổ biến hiện nay, hình thức đào tạo tại chỗ theo
nhu cầu công việc là được các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi hơn cả, có 62,9% doanh
nghiệp lựa chọn. Một tỷ lệ thấp hơn doanh nghiệp kết hợp thêm hình thức gửi nhân viên
đi học hoặc mở lớp tập huấn ngắn hạn. Số doanh nghiệp không đào tạo gì về công nghệ
thông tin và thương mại điện tử cho nhân viên còn chiếm 21,1% đối tượng điều tra.
Bảng 1. Các hình thức đào tạo nhân viên của doanh nghiệp


Hình thức đào tạo



Không

Mở lớp đào tạo

8,16%


91,84%

Gửi nhân viên đi học

30,21%

69,79%

Đào tạo tại chỗ theo nhu cầu công việc

62,91%

37,09%

Không đào tạo

21,06%

Nguồn: Báo cáo TMĐT Việt Nam 2006 (Bộ Thương mại)
Như vậy, có thể thấy trong năm 2006 hình thức đào tạo tại chỗ theo nhu cầu công
việc vẫn được các doanh nghiệp ưu tiên hơn. Có nhiều lý do cho lựa chọn này, nhưng vấn
đề cơ bản vẫn là chi phí cho việc đào tạo và hiệu quả tức thời của nó. Việc mở lớp đào
tạo nhiều khi rất tốn kém, nhất là với các doanh nghiệp nhỏ thì hình thức đào tạo theo
nhu cầu và tự hướng dẫn lẫn nhau là cách rẻ nhất và nhanh nhất để phục vụ nhu cầu trước
mắt của doanh nghiệp. Tuy nhiên về mặt chiến lược dài hạn, hình thức đào tạo này không
trang bị được cho người lao động những kiến thức bài bản, có hệ thống và do đó hiệu quả
về lâu dài không cao.
Nhận thức về lợi ích của thương mại điện tử trong doanh nghiệp, đặc biệt nhận
thức của những người đứng đầu doanh nghiệp, là một yếu tố quan trọng góp phần tạo ra

các quyết định hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Nhiều chỉ số như tỉ lệ cử nhân viên đi
đào tạo, tỉ lệ đầu tư cho thương mại điện tử tăng lên trong năm 2006 so với các năm trước
đây chứng tỏ rằng, nhận thức của doanh nghiệp về thương mại điện tử đã rõ nét hơn, từ
ban giám đốc, nhân viên kinh doanh và cả những người thuộc bộ phận sản xuất.
Năm 2006, nhiều lớp tập huấn về thương mại điện tử cho doanh nghiệp đã được tổ
chức và thu hút đông đảo học viên trên khắp các tỉnh, thành phố của cả nước. Điều này
chứng minh rằng, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quan tâm
tìm hiểu về lợi ích và cách thức để ứng dụng thương mại điện tử hiệu quả. Tại các lớp tập
huấn, các giảng viên cũng có dịp trao đổi, thu nhận thông tin từ học viên về tình hình ứng
dụng thương mại điện tử tại doanh nghiệp và những vấn đề đặt ra trong thực tế. Nhiều


câu hỏi mang tính chuyên sâu, thể hiện mức độ nhận thức khá cao của học viên về
thương mại điện tử.
Các chương trình đào tạo về CNTT và TMĐT trong thời gian qua không chỉ tăng
về số lượng mà còn cả mặt chất lượng. Chất lượng tài liệu, giáo trình và trình độ giảng
viên cũng đã được nâng lên một bước. Với sự phổ biến ngày càng rộng rãi của Internet,
các tài liệu trong lĩnh vực chủ yếu được thu thập, biên soạn và cập nhật qua mạng từ các
nguồn của nước ngoài. Lượng giảng viên có trình độ được đào tạo chính thức về CNTT
và TMĐT trong và ngoài nước cũng đang tăng lên. Ngoài ra, các hình thức đào tạo cũng
có bước chuyển biến rõ nét. Nhu cầu về đào tạo theo đơn đặt hàng và đào tạo trực tuyến
tăng mạnh. Chẳng hạn, các khoá đào tạo theo đơn đặt hàng chiếm 37% và đào tạo trực
tuyến chiếm 9% trong tổng số các khoá đào tạo theo kết quả điều tra. Chất lượng đào tạo
cũng được nâng lên một bước khi một số khoá học được đào tạo bằng tiếng Anh và có sự
tham gia của các chuyên gia nước ngoài.
Qua điều tra của Vụ TMĐT, Bộ Thương mại trên 200 tổ chức có cung cấp dịch vụ
đào tạo công nghệ thông tin (CNTT) và TMĐT cho thấy các khoá đào tạo về CNTT và
TMĐT ở nước ta chủ yếu được thực hiện dưới những hình thức sau: (1) Đào tạo chính
quy dài hạn: 16%; (2) Đào tạo tập trung ngắn hạn: 33%; (3) Đào tạo theo đặt hàng (tại tổ
chức, công ty đối tác): 37%. (4) Đào tạo trực tuyến: 9%. (5) Các hình thức khác: 5%.

Nghiên cứu chi tiết các chương trình đào tạo này cho thấy sự vận dụng đa dạng những
quan điểm đào tạo trên trong đào tạo ở nước ta.
Về hạ tầng viễn thông và Internet, kết quả điều tra cho thấy 100% doanh nghiệp có
điện thoại, 100% doanh nghiệp có máy fax và tỉ lệ doanh nghiệp đã kết nối Internet là
92%. Trong số doanh nghiệp đã kết nối Internet, hình thức truy cập bằng ADSL chiếm
81,5%, đường truyền riêng chiếm 5,4% và hình thức truy cập bằng quay số chỉ còn 5,2%.
Trong số 8% doanh nghiệp chưa kết nối Internet, 3,5% cho biết đã có kế hoạch kết nối
trong năm tới.
Như vậy có thể khẳng định điều kiện hạ tầng tối thiểu cho ứng dụng thương mại
điện tử đã được xác lập ở hầu hết các doanh nghiệp tại khu vực đô thị trên cả nước.


Ngoài ra, để đánh giá mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử trong doanh nghiệp
chúng ta cũng có thể xem xét mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông ở mỗi
doanh nghiệp như việc sử dụng các mạng nội bộ. Theo số liệu điều tra mới đây của Bộ
Thương mại, có 73,78% doanh nghiệp đã lắp đặt mạng LAN và 4,03% doanh nghiệp có
sử dụng mạng WAN. Những con số này phần nào phản ánh mức độ sẵn sàng cho thương
mại điện tử trong doanh nghiệp khá cao. Thương mại điện tử có thể ứng dụng và phát
triển ở mức độ cao phải được xuất phát từ mức độ tin học hoá cao trong nội bộ doanh
nghiệp. Việc kết nối các mạng Intranet và Extranet của các doanh nghiệp. Đây thực sự
vẫn còn là công nghệ mới với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Theo báo cáo điều tra phản ánh việc các doanh nghiệp sử dụng hai
mạng này trong nội bộ doanh nghiệp minh còn rất thấp, tương ứng là 8,01% doanh
nghiệp sử dụng mạng Intranet và 1,21% doanh nghiệp sử dụng mạng Extranet. Công
nghệ này hiện nay chỉ mới được ứng dụng tại các doanh nghiệp, tập đoàn lớn.
Bảng 2. Mức độ sử dụng mạng trong doanh nghiệp
Mạng được sử dụng

Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng


Mạng LAN

73,78%

Mạng WAN

4,03%

Mạng Intranet

8,01%

Mạng Extranet

1,21%

Nguồn: Báo cáo TMĐT Việt Nam 2006 (Bộ Thương mại)

2. Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam
Sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT trong những năm qua gắn liền với thành tựu
phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định của Việt Nam, năm 2006 kinh tế Việt Nam tăng
trưởng cao với tốc độ tăng trưởng cao với tốc độ tăng GDP là 8,17%. Thương mại tiếp


tục tăng trưởng mạnh với vai trò là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn đã góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Năm 2006 đánh dấu sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của Việt Nam, với việc
Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), đồng thời tổ chức thành công hội nghị diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), thể hiện cam kết tiếp tục mở cửa nền kinh tế với thế giới.

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội mới và những thách thức mới.
Những cơ hội đó là: có một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm được sản xuất
ra trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa; thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế
như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á
(AD)…; có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý thông qua các
dự án đầu tư. Cùng với cơ hội và đồng hành với nó, nền kinh tế nước ta, các doanh
nghiệp nước ta cũng phải đối đầu với các thách thức lớn. Đó là sự cạnh tranh quyết liệt
trên cả ba cấp độ do hàng rào bị dỡ bỏ, do phải thực hiện chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và
đối xử quốc gia, nên các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh bình đẳng với các
doanh nghiệp trên toàn thế giới cũng như trong nội địa. Bối cảnh đó đòi hỏi các doanh
nghiệp nước ta phải quan tâm thực sự đến việc nâng cao khả năng cạnh tranh và TMĐT
là một giải pháp quan trọng tích cực được nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm ứng
dụng.
Sự quan tâm của doanh nghiệp đối với thương mại điện tử trước hết được thể hiện
qua hoạt động giao dịch mua bán tại các sàn thương mại điện tử (e-Marketplace) sôi động
hơn, dịch vụ kinh doanh trực tuyến phong phú và doanh thu tăng mạnh. Đồng thời, số
lượng các website doanh nghiệp, đặc biệt là website mang tên miền Việt Nam (.vn) tăng
nhanh, số lượng cán bộ từ các doanh nghiệp tham gia các khóa đào tạo kỹ năng thương
mại điện tử lớn hơn so với năm trước. Đông đảo doanh nghiệp đã nhận thấy những lợi ích
thiết thực của thương mại điện tử thông qua việc cắt giảm được chi phí giao dịch, tìm
được nhiều bạn hàng mới từ thị trường trong nước và nước ngoài, số lượng khách hàng


×